Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (214.67 KB, 26 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC HẠCH TOÁN
THÀNH PHẨM VÀ TIÊU THỤ THÀNH PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP
SẢN XUẤT
I-KHÁI QUÁT CHUNG
1.1.Ýnghĩa của tổ chức hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
Xã hội loài người từ xưa đến nay đã trải qua hai kiểu hình thức sản xuất. Sản
xuất tự cung, tự cấp là kiểu tổ chức kinh tế đầu tiên loài người sử dụng để giải
quyết sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai. Ở đây, sản phẩm lao động sản xuất ra
để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của từng cá nhân, của từng gia đình hay công xã.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường gắn liền với sự ra đời và phát
triển của sản xuất hàng hoá là một bước nhảy vọt của quá trình sản xuất xã hội. Sản
xuất hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được ra để bán trên thị
trường.
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp sản
xuất là nơi trực tiếp sáng tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất và
tiêu dùng của xã hội. Sản phẩm của các doanh nghiệp bao gồm thành phẩm, bán
thành phẩm, lao vụ mà doanh nghiệp sản xuất ra cung cấp cho nhu cầu xã hội.
Trong đó thành phẩm chiếm vị trí quan trọng nhất, là bộ phận chiếm tỷ trọng cao
nhất trong tổng số sản phẩm hàng hoá bởi mục đích của sản xuất là tiêu dùng sản
phẩm hàng hoá hoàn thành.
Thành phẩm bao giờ cũng biểu hiện trên hai mặt: hiện vật và giá trị. Hiện
vật được cụ thể bởi số lượng (hay khối lượng) và chất lượng (hay phẩm cấp). Giá
trị chính là giá thành của sản phẩm sản xuất nhập kho hoặc giá vốn của thành phẩm
đem tiêu thụ.
Như vậy có sản xuất ra sản phẩm với số lượng nhiều, chất lượng tốt, giá
thành hạ mới tạo điều kiện cho quá trình tiêu thụ dễ dàng. Ngược lại, thông qua
tiêu thụ thành phẩm hàng hoá mới được chuyển từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực
tiêu dùng, lúc đó giá trị, giá trị sử dụng của nó mới được thực hiện và cũng chỉ khi
đó hao phí lao động cá biệt của doanh nghiệp mới được xã hội thừa nhận là hao phí
lao động xã hội.
Khi sản xuất hàng hoá được tiêu thụ, chứng tỏ sản phẩm của doanh nghiệp


sản xuất ra phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng và được xã hội chấp nhận cả về
lượng lẫn chất lượng.
Qua đó doanh nghiệp thu hồi được vốn bỏ ra, góp phần tăng nhanh tốc độ
luân chuyển vốn để không ngừng tái sản xuất cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Tạo điều
kiện cho doanh nghiệp tự khẳng định mình trong cơ chế thị trường cạnh tranh khốc
liệt.
Đứng trên góc độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tiêu thụ là một bộ phận
không thể thiếu, nó là mạch máu của nền kinh tế thị trường, là cầu nối trung gian
giữa một bên là người tiêu dùng và một bên là người sản xuất. Khi hoạt động tiêu
thụ thực hiện có hiệu quả sẽ làm cho nền sản xuất xã hội phát triển, tái sản xuất mở
rộng không ngừng. Đồng thời làm tiền đề cho cân đối sản xuất và tiêu dùng, cân
đối hàng tiền trong lưu thông cũng như cân đối giữa các ngành các khu vực trong
nền kinh tế.
Như vậy, sản xuất và tiêu thụ thành phẩm vừa là công việc hàng ngày của
các doanh nghiệp, vừa là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh doanh cũng như
đối với toàn xã hội.
Từ ý nghĩa thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm nói trên ta thấy tổ chức sản
xuất thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm là vô cùng quan trọng không chỉ là vấn đề
sống còn của mọi doanh nghiệp sản xuất mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
xã hội của toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Để tổ chức sản xuất thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm có hiệu quả của
doanh nghiệp thì kế toán nói chung, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm nói
riêng đã và đang là công cụ thực sự quan trọng cùng với các công cụ quản lý khác
ngày càng cải tiến, đổi mới và phát huy tác dụng đáp ứng yêu cầu quản lý trong cơ
chế thị trường.
Số liệu của kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phản ảnh một cách
đầy đủ kịp thời tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
đến từng loại sản phẩm, tình hình nhập - xuất - tồn kho thành phẩm. Qua việc cung
cấp thông tin kinh tế cần thiết này mà người điều hành doanh nghiệp có thể biết
được mức độ hoàn thành sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, phát hiện kịp thời những

thiếu sót của từng khâu trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch, đảm bảo duy trì
sự cân đối thường xuyên các yếu tố trong quá trình sản xuất- tiêu thụ- dự trữ từ đó
có biện pháp cụ thể phù hợp để đạt hiệu quả cao hơn.
Để đảm bảo vai trò cung cấp thông tin cho yêu cầu quản lý và đánh giá hiệu
quả của những thông tin đó, kế toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm phải thực
hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời và giám đốc chặt
chẽ tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm trên cả hai mặt
hiện vật và giá trị.
- Phản ánh và giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ theo từng
phương thức bán hàng, từng khách hàng, tình hình thanh toán tiền hàng, thanh toán
với ngân sách và xác định chính xác kết quả tiêu thụ.
- Phản ánh và giám đốc chi phí bán hàng phát sinh trong kỳ phân bổ chính
xác chi phí bán hàng cho thành phẩm tiêu thụ.
- Lập và gửi báo cáo kế toán liên quan đến thành phẩm và tiêu thụ thành
phẩm theo đúng chế độ và kịp thời tiến hành phân tích tình hình sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm của doanh nghiệp.
Việc thực hiện tốt các nhiệm vụ trên có ý nghĩa hết sức quan trọng trong
việc quản lý thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm. Song vai trò, nhiệm vụ của kế
toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm chỉ phát huy tác dụng khi cán bộ kế toán
nắm vững nội dung tổ chức hạch toán thành phẩm và tiêu thụ thành phẩm.
1.2. Các phương thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu.
Tiêu thụ thành phẩm là việc đưa thành phẩm từ lĩnh vực sản xuất vào lĩnh
vực lưu thông để thực hiện việc tiêu dùng theo những mục đích đã xác định. Quá
trình tiêu thụ thành phẩm là quá trình thực hiện giá trị và giá trị sử dụng thông qua
quan hệ trao đổi. Trong quan hệ này, doanh nghiệp chuyển nhượng cho người mua
thành phẩm của mình và thu lại ở người mua số tiền hàng tương ứng với giá trị của
thành phẩm đó.
Các phương thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu:
- Phương thức tiêu thụ trực tiếp: Theo phương thức này, bên mua sẽ cử

người đến trực tiếp tại bên bán để nhận hàng, khi hàng bàn giao xong cho bên mua
thì chính thức coi là tiêu thụ và bên bán mất quyền sở hữu về số hàng đã giao.
- Phương thức chuyển hàng chờ chấp nhận: Theo phương thức này, người
bán hàng sẽ chuyển hàng đến địa điểm mà người mua yêu cầu ghi trong hợp đồng,
hàng khi chuyển vẫn thuộc quyền sở hữu của người bán, chỉ khi nào được người
mua chấp nhận một phần hay toàn bộ thì lượng hàng hoá đó mới được coi là tiêu
thụ, người bán mất quyền sở hữu và ghi nhận doanh thu.
- Phương thức đại lý, ký gửi: Theo phương thức này, doanh nghiệp gửi hàng
đi cho khách hàng, khi đó sản phẩm vẫn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nên
chưa phản ánh doanh thu mà chỉ khi nào khách hàng trả tiền hoặc chấp nhận trả
tiền mới được coi là tiêu thụ, người bán mất quyền sở hữu và ghi nhận doanh thu.
- Phương thức bán hàng trả góp: Là phương thức bán hàng thu tiền chậm
làm nhiều lần, khi giao hàng cho người mua thì hàng được coi là tiêu thụ.
Ngoài các phương thức tiêu thụ trên còn có một số phương thức tiêu thụ
khác như: tiêu thụ nội bộ, thanh toán lương, thưởng, chào hàng quảng cáo.
Như vậy, với các phương thức bán hàng khác nhau, hành vi giao hàng và thu
tiền có thể có những khoảng cách nhất định về không gian, thời gian. Nhưng bất cứ
phương thức nào mà doanh nghiệp sử dụng cũng đều tuân theo một nguyên tắc là
chỉ xác định được doanh thu bán hàng trong trường hợp đã thu được tiền hoặc bên
mua chấp nhận thanh toán và không được coi là tiêu thụ khi chưa chuyển quyền sở
hữu cho bên mua. Việc phân chia như vậy giúp cho doanh nghiệp tổ chức công tác
kế toán bán hàng một cách thích hợp, góp phần đôn đốc thanh toán luân chuyển
hàng hoá kịp thời, đúng hạn, tránh việc chiếm dụng vốn của nhau, từ đó xác định
doanh thu bán hàng một cách chính xác.
II.CÁC PHƯƠNG THỨC TÍNH GIÁ THÀNH PHẨM XUẤT KHO

Vì thành phẩm nhập kho có thể có những thay đổi về giá, khác nhau ở từng
thời điểm nên việc tính toán, định giá thực tế thành phẩm xuất kho có thể áp dụng
một trong những phương pháp sau:
- Phương pháp giá bình quân gia quyền.

- Phương pháp nhập trước xuất trước.
- Phương pháp nhập sau xuất trước.
- Phương pháp đích danh.
- Phương pháp giá hạch toán.
+ Phương pháp giá bình quân gia quyền: Theo phương pháp này, giá thực tế
thành phẩm xuất kho trong kỳ được tính theo giá bình quân bao gồm bình quân cả
kỳ dự trữ, hay bình quân cuối kỳ trước hoặc bình quân sau mỗi lần nhập.
Giá thực tế Số lượng Giá đơn
thành phẩm = thành phẩm x vị bình
xuất kho xuất kho quân.
Trong đó:
Giá đơn Giá thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ + nhập trong kỳ
vị bình =
quân Lượng thực tế thành phẩm tồn đầu kỳ + nhập trong kỳ.
+ Phương pháp nhập trước, xuất trước (FIFO): Theo phương pháp này,
giá thực tế của thành phẩm nhập trước sẽ dùng làm giá để tính giá thực tế thành
phẩm xuất trước và do vậy trị giá thành phẩm tồn kho cuối kỳ sẽ là giá thực tế của
thành phẩm nhập kho sau cùng.
+ Phương pháp nhập sau, xuất trước (LIFO): Với phương pháp này giá
thực tế của thành phẩm nhập sau sẽ dùng làm giá để tính giá thực tế thành phẩm
xuất trước và do vậy trị giá thành phẩm tồn kho cuối kỳ là giá thực tế của thành
phẩm tính theo đơn giá của các lần nhập đầu kỳ.
+ Phương pháp đích danh: Theo phương pháp này thành phẩm được xác
định giá trị theo đơn chiếc hay từng lô và giữ nguyên từ lúc nhập vào kho cho đến
lúc xuất kho (trừ trường hợp điều chỉnh).
+ Phương pháp giá hạch toán: Nhằm đơn giản cho công tác kế toán trong
trường hợp giá hàng tồn kho có nhiều biến động. Theo cách đánh giá này, toàn bộ
thành phẩm biến động trong kỳ được tính theo giá hạch toán (giá kế hoạch hoặc
một loại giá lẻ định trong kỳ). Cuối kỳ, kế toán sẽ tiến hành điều chỉnh từ giá hạch
toán sang giá thực tế theo công thức:

Giá thực tế Giá hạch toán
thành phẩm = thành phẩm x Hệ số giá
xuất trong kỳ xuất trong kỳ
Trong đó:
Giá thực tế thành phẩm Giá thực tế thành phẩm
tồn kho đầu kỳ + nhập kho trong kỳ
Hệ số giá =
Giá hạch toán thành phẩm Giá hạch toán thành phẩm
tồn kho đầu kỳ + nhập kho trong kỳ
Trong đánh giá thành phẩm doanh nghiệp không sử dụng giá thị trường vì
giá thị trường thường xuyên biến động nếu phản ánh thì sẽ phức tạp, hoàn toàn
không cần thiết và không thể hiện tính khách quan.
Do vậy, doanh nghiệp phải căn cứ vào đặc điểm hoạt động sản xuất kinh
doanh, khả năng trình độ của cán bộ kế toán cũng như yêu cầu quản lý để đăng ký
phương pháp đảm bảo nguyên tắc nhất quán trong các niên độ kế toán.
III. HẠCH TOÁN CHI TIẾT THÀNH PHẨM.

3.1. Chứng từ sử dụng:
Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh và thực sự hoàn thành đều phải được lập
chứng từ làm cơ sở pháp lý cho mọi số liệu trên tài khoản, sổ kế toán, báo cáo kế
toán. Do đó cần phải tổ chức luân chuyển chứng từ một cách khoa học, hợp lý đảm
bảo tính chính xác, kịp thời của số liệu kế toán.
Theo chế độ chứng từ kế toán qui định các chứng từ chủ yếu về kế toán
thành phẩm bao gồm:
+ Phiếu nhập kho: Làm căn cứ ghi thẻ kho, thanh toán tiền hàng, xác định
trách nhiệm với những người có liên quan và ghi sổ kế toán.
+ Phiếu xuất kho: Làm căn cứ để hạch toán chi phí sản xuất tính giá thành
sản phẩm và kiểm tra, thực hiện định mức tiêu hao vật tư.
+ Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ: Là căn cứ để thủ kho ghi vào thẻ
kho, kế toán ghi sổ chi tiết làm chứng từ vận chuyển trên đường.

3.2. Sổ kế toán chi tiết thành phẩm.
Là sổ dùng để theo dõi, hệ thống hoá các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, chi tiết
cụ thể cho từng loại thành phẩm để cung cấp thông tin chi tiết cho người quản lý.
+ Sổ (thẻ) kho: Được dùng để theo dõi số lượng nhập - xuất- tồn kho của
từng loại thành phẩm. Thẻ kho dùng để hạch toán ở kho không phân biệt hạch toán
chi tiết thành phẩm theo phương thức nào.
+ Sổ (thẻ) kế toán chi tiết thành phẩm.
+ Sổ đối chiếu luân chuyển.
+ Sổ số dư.
Cả 3 sổ này dùng để hạch toán tình hình biến động thành phẩm về mặt giá trị
hoặc cả số lưọng và giá trị phụ thuộc vào phương pháp hạch toán chi tiết áp dụng
trong doanh nghiệp.
Ngoài các sổ kế toán nêu trên còn có thể sử dụng các bảng kê nhập, xuất, các
bảng luỹ kế tổng hợp nhập - xuất- tồn kho thành phẩm phục vụ cho việc ghi sổ kế
toán được nhanh chóng kịp thời.
3.3. Các phương pháp hạch toán chi tiết thành phẩm.
Để đáp ứng kịp thời trong công tác kế toán thành phẩm tất yếu phải tiến
hành hạch toán chi tiết hàng ngày. Hạch toán chi tiết thành phẩm đòi hỏi phải phản
ánh cả về giá trị, số lượng, chất lượng của từng loại thành phẩm theo từng kho và
từng người phụ trách vật chất. Trong thực tế hiện nay có 3 phương pháp hạch toán
chi tiết thành phẩm sau đây:
3.3.1. Phương pháp thẻ song song (Sơ đồ 1).
+ Ở kho: Thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập - xuất- tồn kho
thành phẩm về mặt số lượng. Mỗi chứng từ ghi một dòng vào thẻ kho. Thẻ kho
được mở cho từng loại thành phẩm.
+ Ở phòng kế toán: Kế toán sử dụng sổ (thẻ) chi tiết thành phẩm để ghi
chép, phản ánh tình hình nhập, xuất hàng ngày của từng loại thành phẩm ở từng
kho trên cả hai chỉ tiêu số lượng và giá trị. Cuối tháng, sau khi đối chiếu với thẻ
kho, kế toán tiến hành lập bảng tổng hợp nhập - xuất- tồn kho thành phẩm làm căn
cứ để đối chiếu với kế toán tổng hợp.

Sơ đồ 1: (Trang sau)
HẠCH TOÁN CHI TIẾT THÀNH PHẨM THEO PHƯƠNG PHÁP THẺ SONG SONG



Phiếu nhập
kho
B ng t ng h p ả ổ ợ
nh p, xu t, t n ậ ấ ồ
kho th nh à
ph mẩ
Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối ngày
Quan hệ đối chiếu
Phương pháp này có ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm: Ghi chép đơn giản, dễ kiểm tra, đối chiếu.
Nhược điểm: Việc ghi chép giữa thủ kho và phòng kế toán còn trùng lặp về chỉ
tiêu số lượng. Hơn nữa việc đối chiếu, kiểm tra chủ yếu tiến hành vào cuối tháng,
do vậy hạn chế chức năng kiểm tra của kế toán.
3.3.2. Phương pháp đối chiếu luân chuyển (sơ đồ 2).
+ Tại kho: Giống phương pháp thẻ song song.
+ Tại phòng kế toán: Không mở thẻ kế toán chi tiết mà mở sổ đối chiếu luân
chuyển để hạch toán số lượng và số tiền cuả từng loại thành phẩm. Sổ ghi này mỗi
tháng một lần vào cuối tháng trên cơ sở tổng hợp các chứng từ nhập, xuất phát sinh
trong tháng của từng thành phẩm, mỗi thứ chỉ ghi một dòng trong sổ. Cuối tháng
đối chiếu số lượng thành phẩm trên sổ đối chiếu luân chuyển với thẻ kho, đối chiếu
số tiền với kế toán tổng hợp.
Sơ đồ 2: (Trang sau)
HẠCH TOÁN CHI TIẾT THÀNH PHẨM THEO PHƯƠNG PHÁP SỔ ĐỐI

CHIẾU LUÂN CHUYỂN

Th khoẻ
Th (s ) chi ti t ẻ ổ ế
th nh ph mà ẩ
Phi u xu t khoế ấ
K toán t ng ế ổ
h pợ
Phi u nh p khoế ậ
B ng kê nh pả ậ
Sổ đối chiếu
luân chuyển

Ghi chú:
Ghi hàng ngày
Ghi cuối ngày
Quan hệ đối chiếu
Phương pháp này có ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm: Khối lượng ghi chép giảm do chỉ ghi một lần vào cuối tháng.
Nhược điểm: Công việc bị dồn vào cuối tháng, việc cung cấp thông tin
không kịp thời, ghi sổ còn bị trùng lắp về chỉ tiêu số lượng.
3.3.3.Phương pháp sổ số dư ( sơ đồ 3): Phương pháp phổ biến hiện nay.
Tại kho: Thủ kho sử dụng thẻ kho để phản ánh ghi chép tình hình nhập, xuất
kho hàng ngày của từng thành phẩm về mặt số lượng. Định kỳ theo qui định thủ
kho tiến hành phân loại chứng từ nhập, xuất riêng rồi lập phiếu giao nhận chứng từ
nộp cho kế toán. Cuối tháng thủ kho ghi rõ số tồn kho theo từng loại thành phẩm
vào sổ số dư.
Tại phòng kế toán: Định kỳ nhân viên kế toán phải xuống kho để hướng dẫn
và kiểm tra việc ghi chép thẻ kho của thủ kho và thu nhận chứng từ. Khi nhận được
chứng từ kế toán kiểm tra và tính giá chứng từ (theo giá hạch toán), tổng cộng số

tiền và ghi vào cột số tiền trên phiếu giao nhận chứng từ.
Đồng thời, ghi số tiền vừa tính được của từng nhóm thành phẩm vào bảng
luỹ kế nhập – xuất - tồn kho thành phẩm. Tiếp đó cộng số tiền nhập, xuất trong
tháng và dựa vào số dư đầu tháng để tính ra số dư cuối tháng của từng nhóm thành
phẩm. Số dư này được dùng để đối chiếu với số dư trên sổ dư (trên sổ dư tính bằng
cách lấy số lượng tồn kho nhân với giá hạch toán).
Sơ đồ 3: (Trang sau)

HẠCH TOÁN CHI TIẾT THÀNH PHẨM THEO PHƯƠNG PHÁP SỔ SỐ DƯ
Th khoẻ
Kế toán tổng
hợp
B ng kê xu tả ấ
Phi u xu t khoế ấ
Phiếu nhập
kho
Phiếu giao nhận
chứng từ nhập
Bảng luỹ kế
nhập, xuất, tồn
kho T.phẩm
Ghi chú:

Ghi hàng ngày.
Ghi cuối tháng
Quan hệ đối chiếu
Phương pháp này có ưu nhược điểm sau:
Ưu điểm: Giảm bớt số lượng ghi sổ kế toán, công việc tiến hành đều trong
tháng.
Nhược điểm: Do kế toán chỉ ghi chép theo chỉ tiêu giá trị nên không biêt

trước được số hiện có, tình hình tăng giảm của từng loại sản phẩm mà phải xem số
liệu trên thẻ kho. Ngoài ra việc kiểm tra phát hiện sai sót rất khó khăn.
IV. HẠCH TOÁN TỔNG HỢP THÀNH PHẨM.

Thành phẩm là tài sản lưu động, thuộc nhóm hàng tồn kho của doanh
nghiệp. Việc mở các tài khoản tổng hợp, ghi chép sổ kế toán và xác định giá trị
hàng tồn kho, giá trị hàng bán ra hoặc xuất dùng tuỳ thuộc vào doanh nghiệp, kế
toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai trường xuyên là phương pháp theo
dõi tình hình hiện có, biến động tăng, giảm vật tư, thành phẩm, hàng hoá một cách
thường xuyên liên tục. Phương pháp này được áp dụng trong các doanh nghiệp sản
xuất hoặc kinh doanh thương mại, kinh doanh các mặt hàng sản xuất khác nhau có
giá trị lớn, kỹ thuật cao.
Phương pháp kiểm kê định kỳ là phương pháp không theo dõi một cách
thường xuyên liên tục vầ tình hình biến động của các loại vật tư hàng hoá mà chỉ
phản ánh giá trị tồn kho đầu kỳ và cuối kỳ của chúng trên cơ sở kiểm kê cuối kỳ,
xác định lượng tồn kho thực tế, chưa xuất dùng cho sản xuất kinh doanh và các
mục đích khác. Phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp sản xuất có
qui mô nhỏ, chỉ tiến hành một loại hoạt động hoặc ở các đơn vị kinh doanh các mặt
hàng có giá trị thấp, mặt hàng nhiều.
S s dổ ố ư
Th khoẻ
K toán t ng h pế ổ ợ
Phiếu xuất
kho
Phiếu giao nhận
chứng từ xuất
Do đó, doanh nghiệp tuỳ thuộc đặc điểm sản xuất kinh doanh mà áp dụng
một trong hai phương pháp trên. Khi đã chọn phương pháp nào thì phải công khai
ở bản thuyết minh báo cáo tài chính và phải nhất quán không tuỳ tiện thay đổi.
4.1. Tài khoản sử dụng .

+ Tài khoản 155- Thành phẩm: Tài khoản này được sử dụng để phản ánh giá
trị hiện có và tình hình biến động của các loại thành phẩm nhập kho của doanh
nghiệp theo giá trị thực tế.
+ Tài khoản 632- Giá vốn hàng bán: Tài khoản này được dùng để theo dõi
giá trị vốn của hàng hoá, thành phẩm, lao vụ, dịch vụ xuất bán trong kỳ. Giá vốn
bán có thể là giá thành công xưởng thực tế của thành phẩm xuất bán hay giá thành
thực tế của lao vụ, dịch vụ cung cấp hoặc giá trị mua thực tế của hàng hoá tiêu thụ.
Ngoài ra còn sử dụng các tài khoản liên quan như tài khoản 154, 111, 112,
157,.... và sử dụng tài khoản 631 (giá thành sản xuất) đối với phương pháp kiểm kê
định kỳ.
4.2. Phương pháp hạch toán.
4.2.1. Hạch toán thành phẩm theo phương pháp kê khai thường xuyên.
Phương pháp này được hạch toán theo sơ đồ 4.
Sơ đồ 4:(Trang sau)
HẠCH TOÁN TỔNG QUÁT THÀNH PHẨM THEO PHƯƠNG PHÁP KÊ KHAI
THƯỜNG XUYÊN
TK 154 TK 155 TK 157,632
(1) (5)

×