Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.45 KB, 10 trang )

VAI TRÒ CỦA GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ LAO ĐỘNG VIỆC LÀM Ở NÔNG THÔN
VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ
1. Khái niệm công nghiệp hoá- hiện đại hoá, thực chất và mục tiêu của
công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nước ta.
1.1 Khái niệm và thực chất của công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Khái niệm công nghiệp hoá-hiện đại hoá được thể hiện rất rõ trong Nghị
quyết hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII: “Công nghiệp hoá-
hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ lao động thủ công là chính sang sử
dụng phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên
tiến hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học công
nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đó là một quá trình lâu dài”.
Việt Nam phải thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá là một tất yếu và
nhiệm vụ này đã được đặt ra từ năm 1960. Đối với Việt Nam, công nghiệp hoá ở
những năm 90 khác căn bản so với công nghiệp hoá ở những năm 60 trên các mặt:
+ Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá.
+ Công nghiệp hoá tiến hành trong điều kiện phát triển nền kinh tế mở với
các nước thuộc các chế độ chính trị khác nhau, đa dạng hoá và đa phương hoá các
quan hệ đối ngoại.
+ Công nghiệp hoá-hiện đại hoá được thực hiện theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Việt Nam hiện nay còn là một nước dựa trên sản xuất nông nghiệp là chủ
yếu (sản xuất nông nghiệp chiếm 27,2% tổng sản phẩm trong nước; 80% dân số ở
nông thôn), do đó để thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước thì công
nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn chiếm vị trí quan trọng. Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã xác định: “Nội dung cơ bản của công nghiệp hoá-
hiện đại hoá trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: đặc biệt coi trọng công
nghiệp hoá-hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn”.
Công nghiệp hoá nông thôn là một quá trình phát triển kinh tế xã hội mà nội
dung chủ yếu của nó là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế xã hội ở nông thôn gắn liền
với đổi mới công nghệ theo hướng công nghiệp và dịch vụ - là những ngành kinh


tế ngày càng chiếm vị trí quan trọng và chiếm tỷ lệ lớn trong kinh tế nông thôn.
Hiện đại hoá nông thôn có nghĩa là nói về tiến bộ kỹ thuật, công nghệ trong
sản xuất và văn minh tiến bộ trong đời sống vật chất tinh thần cũng như lối sống ở
nông thôn. Công nghệ tiến bộ hơn về chất và công nghệ đó có trình độ hiện đại hơn
so với công nghệ hiện có, đời sống và lối sống được nâng cao và văn minh hơn thì
đó chính là quá trình hiện đại hoá. Với ý nghĩa như vậy: công nghiệp hoá sẽ gắn
liền với hiện đại hoá và hiện đại hoá chỉ tiến hành thực hiện được khi tiến hành
công nghiệp hoá.
1.2. Mục tiêu của công nghiệp hoá-hiện đại hoá ở nông thôn.
+ Giải quyết việc làm cho lao động dư thừa ở nông thôn, nâng cao thu nhập
và mức sống cho dân cư nông thôn.
+ Đa dạng hoá nền kinh tế nông thôn, đa dạng hoá ngành nghề lao động ở
nông thôn trên cơ sở thị trườngạo ra ngành nghề mới.
+ Sử dụng lao động dư thừa tại chổ trên địa bàn nông thôn, vừa là ruộng
vừa làm nghề khác như công nghiệp và dịch vụ nông thôn hay phương thức làm
nghề khác như làm ở các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ nông thôn ở làng xã,
thị trấn huyện lỵ (nhưng vẫn sinh sống ở làng) đi đôi với hiện đại hoá nông nghiệp
và đô thị hoá nông thôn.
2. Vai trò của giải quyết vấn đề lao động việc làm ở nông thôn Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
2.1. Về mặt kinh tế
Sau hơn 10 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế
đáng kể. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn tồn tại không ít khó khăn cản trở sự phát triển
của nền kinh tế mà thất nghiệp được xem là một trong những khó khăn lớn nhất.
Vấn đề giải quyết thất nghiệp ngày càng bức xúc hơn khi đất nước bước vào
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá-hiện đại hoá. Vì vậy, việc giải quyết việc làm
cho lao động trong cả nước nói chung và ở nông thôn Việt Nam nói riêng có ý
nghĩa to lớn đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Để thấy rõ ý
nghĩa về mặt kinh tế của vấn đề giải quyết việc làm cho lao động nông thôn cần
xem xét trên hai mặt của lao động: đó là chi phí và lợi ích.

Để có sản xuất cần phải có sự kết hợp của rất nhiều nhân tố như vốn, tài
nguyên, lao động, khoa học công nghệ... Như vậy, về mặt chi phí khi giải quyết
việc làm cho người lao động thì số người tham gia vào quá trình sản xuất sẽ tăng
lên, việc sử dụng lao động trong sản xuất đạt hiệu quả hơn. Mặt khác, việc giải
quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn sẽ khai thác được tối đa những
nguồn lực quan trọng đang còn tiềm ẩn trong khu vực kinh tế nông thôn như tài
nguyên, vốn, ngành nghề...thông qua lao động của con người.
Thực tế cho thấy những tiềm năng trên ở nông thôn còn rất lớn cả về mặt
nhiên liệu, năng lượng, khoáng sản, cảnh quan thiên nhiên, vốn nhàn rỗi trong
nông thôn và các ngành nghề truyền thống... Tuy nhiên tất cả chỉ là tiềm năng nếu
con người không biết sử dụng sức lao động để khai thác, cải biến chúng phục vụ
cho mục đích của con người. Khi người lao động có việc làm sẽ mang lại thu nhập
cho bản thân họ và từ đó tạo tích luỹ, Nhà nước không những không phải chi trợ
cấp cho những người nghèo không có việc làm mà khi giải quyết việc làm cho họ,
họ có thể mang lại tích luỹ cho nền kinh tế quốc dân. Tăng tích luỹ sẽ giúp cho sản
xuất được mở rộng, thu hút thêm nhiều lao động.
Về mặt lợi ích, khi người lao động có thu nhập sẽ làm tăng sức mua của khu
vực nông nghiệp nông thôn trong tổng sức mua của xã hội. Theo thống kê cho thấy
lao động nông thôn chiếm khoảng 76% tổng số lao động cả nước và nếu tính theo
đóng góp GDP thì sức mua của khu vực nông nghiệp nông thôn ước tính chiếm
hơn 40% tổng sức mua của toàn xã hội.
Việc tăng tiêu dùng có ý nghĩa rất lớn đối với Việt Nam hiện nay. Bởi vì
Việt Nam là một thị trường tương đối lớn mà đặc biệt là khu vực nông thôn, dân số
tập trung cao (80% dân số) nhưng chưa khai thác được nhiều. Nếu mức tiêu dùng
của khu vực này tăng có tác động rất lớn đến sự phát triển của các ngành sản xuất
trong nước, đặc biệt là những ngành sản xuất phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng
ngày.
Như vậy, việc giải quyết việc làm cho người lao động nông thôn vừa có tác
dụng làm tăng tích luỹ, vừa có tác dụng làm tăng tiêu dùng. Tăng tích luỹ sẽ giúp
cho sản xuất được mở rộng, tức là tác động đến tổng cung; tăng tiêu dùng sẽ làm

cho tổng cầu của nền kinh tế tăng lên kích thích sự phát triển của sản xuất từ đó
thúc đẩy sự tăng trưởng của nền kinh tế.
2.2. Về mặt xã hội
Bên cạnh những cản trở gây ra cho nền kinh tế, thất nghiệp đồng thời là
nguyên nhân của các tệ nạn xã hội. Số lao động tăng thêm khoảng trên 1 triệu
người/năm, số người thất nghiệp hoàn toàn chưa được giải quyết. Trong quá trình
công nghiệp hoá-hiện đại hoá, do sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và sắp xếp lại các
doanh nghiệp, số lao động dôi ra phải timf việc làm mới khoảng 3 triệu người.
Vấn đề tệ nạn xã hội nảy sinh từ nhiều nguyên nhân, song một nguyên nhân
không kém phần quan trọng đó là do thất nghiệp. Bởi vì trong lực lượng lao động,
tầng lớp thanh niên chiếm một tỷ lệ cao mà đối tượng này dễ bị ảnh hưởng bởi
ngoại cảnh nên dễ dàng sa đà vào các tệ nạn xã hội, làm rối loạn trật tự an ninh xã
hội, tha hoá nhân phẩm người lao động, làm cản trở sự phát triển của đất nước.
Mặt khác, trong thời gian qua với sự dư thừa lao động quá nhiều ở nông thôn
đã tạo ra sức ép di dân rất lớn từ nông thôn ra thành thị và giữa các vùng không
kiểm soát được. Đặc điểm của lao động di cư thường là lao động trẻ, có sức khoẻ
nhưng trình độ chuyên môn thấp. Việc di dân này đã bổ sung một lượng đáng kể
cho lao động ở các đô thị, góp phần tích cực vào việc sử dụng đầy đủ và hiệu quả
hơn nguồn lao động nông thôn, đồng thời góp phần tăng thu nhập và cải thiện đời
sống cho bản thân người lao động và các thành viên trong gia đình họ ở nông thôn.
Song bên cạnh những mặt tích cực đó cũng tạo nên sức ép quá lớn cho đô thị
về nhà cửa, điện nước sinh hoạt, y tế, thậm chí gây ra cả những rối loạn về mặt xã
hội. Do đó nếu giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ngay tại chổ sẽ làm
giảm đáng kể sức ép di dân tự do như tình trạng hiện nay.
Hơn nữa khi người lao động ở nông thôn được giải quyết việc làm sẽ làm
cho thu nhập tăng lên, trong chừng mực nào đó sẽ nâng cao hiểu biết của người
dân. Bởi vì khi thu nhập tăng thì việc chi cho giáo dục đào tạo, cho đời sống tính
thần sẽ cao hơn. Họ sẽ nhận thức được về nguyên nhân, hậu quả của việc gia tăng
dân số, từ đó có ý thức làm giảm tốc đọ này. Đây là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng thất nghiệp như hiện nay.

Bản chất của nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam
được đặc trưng bởi hai yếu tố quan trọng là tính hiệu quả và tính công bằng. Do
vây, trong số những vấn đề kinh tế đáng quan tâm thì thu nhập của nông dân là hết
sức quan trọng có liên quan đến cả hai đặc trưng nêu trên và là một vấn đề lớn ở
Việt Nam. Vấn đề thu nhập của người nông dân có liên quan đến khoảng 80% dân
cư sống ở nông thôn, mà để nâng cao thu nhập của người nông dân thì chỉ có biện
pháp là giải quyết việc làm và nâng cao năng suất lao động của họ.
Như vậy, việc giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn là rất
quan trọng bởi nếu có chính sách giải quyết cho khu vực này ngày càng giàu mạnh
thì sẽ làm cho quá trình đổi mới kinh tế của chúng ta càng thêm bền vững.

×