Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tính dễ bị tổn thương trong khả năng tiếp cận việc làm của phụ nữ nông thôn việt nam trong thời kỳ hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176 KB, 12 trang )

TÍNH DỄ BỊ TỔN THƯƠNG TRONG KHẢ NĂNG TIẾP CẬN
VIỆC LÀM CỦA PHỤ NỮ NÔNG THÔN VIỆT NAM
TRONG THỜI KỲ HỘI NHẬP
-------***-------
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa nền kinh tế năm 1986 và cùng hòa nhập vào
thị trường thế giới sôi động như hiện nay, Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên
thế giới đã tranh thủ được cơ hội do quá trình hội nhập này mang lại, cơ hội về thị
trường tiêu thụ ngày càng được mở rộng, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tiếp thu công
nghệ mới, hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tạo ra nhiều cơ hội việc làm góp
phần cải thiện thu nhập cho người lao động với tỷ lệ đáng kể trong tổng lực lượng lao
động xã hội,…(Báo cáo của Oxfam Quốc tế, 2004). Song song với những cơ hội đã?
đạt được, Việt Nam còn phải đối mặt với vấn đề suy thoái môi trường, tình trạng thất
nghiệp và sự di dân tự phát
(1)
từ nông thôn lên thành thị ngày càng có diễn biến phức
tạp,…Trong đó, những thách thức về vấn đề bình đẳng giới
(2)
cũng cần phải được
Chính phủ Việt Nam có sự quan tâm đúng mức vì sự biến đổi của nó sẽ diễn ra song
hành cùng với sự biến đổi của cơ cấu thị trường lao động nhằm đáp ứng kịp thời quá
trình tăng trưởng kinh tế với tốc độ như hiện nay. Mặc dù, sự tăng trưởng kinh tế này
đã mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội mới nhưng sự bất bình đẳng giới
(3)
giữa nam
và nữ lại càng thể hiện rõ rệt hơn trong việc tiếp cận với các nguồn lực sản xuất và cơ
hội đào tạo nghề mà đối tượng chịu thiệt thòi nhất trong sự cạnh tranh ngang bằng này
là phụ nữ, đặc biệt là phụ nữ nông thôn. Do trình độ học vấn cùng với chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng nghề nghiệp của một bộ phận phụ nữ sống ở vùng nông thôn còn
thấp nên chưa thể đáp ứng kịp thời những yêu cầu do công cuộc đổi mới đặt ra (Ban
Tuyên giáo Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, 2008). Bên cạnh đó, phụ nữ
không chỉ đảm đương trách nhiệm làm kinh tế mà còn phải gánh vác nặng nề hơn nữa


các công việc trong gia đình và kết quả đã làm cho họ bị hạn chế trong việc tiếp cận
với các nguồn thông tin từ bên ngoài và do đó khi muốn tìm được việc làm cũng đang
đặt họ vào tình thế gặp nhiều khó khăn. Theo Mỹ Ánh (2007), phụ nữ nông thôn ít học
vấn, thiếu thông tin là một trong những yếu tố làm cho họ không có phương cách để
làm ăn tốt và điều này đã làm cho họ khó hòa nhập được với cuộc sống công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Mặt khác, phụ nữ luôn bị hạn chế so với nam giới trong khả năng
cạnh tranh bình đẳng ở các khu vực tư nhân bởi sự phân biệt đối xử công khai trong
1
TÊN: NGUYỄN VĂN THÁI
LỚP: DH6PN
MSSV: DPN053042
tuyển dụng, bị hạn chế trong tiếp cận được với nguồn vốn vay cho việc làm kinh tế bởi
phụ nữ ít có khả năng chuyển tài sản thành vốn hơn so với nam giới khi họ không
được đứng tên trong các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp trước đây (Nhóm
công tác của Ngân hàng thế giới, 2006). Tất cả các yếu tố trên đã gây nên tính dễ bị
tổn thương
(4)
cho phụ nữ nông thôn trong khả năng tiếp cận được việc làm trước thời
kỳ đổi mới đất nước mà nguyên nhân gốc rễ của vấn đề này chính là thiếu sự đầu tư
giáo dục cho phụ nữ nông thôn. Vì vậy, mục đích của việc nghiên cứu đề tài này là
nhằm kêu gọi sự quan tâm hơn nữa từ phía Chính phủ, các ngành, các cấp, các tổ chức
và các bên liên quan cần phải nhìn xa hơn nữa về vai trò quan trọng của người phụ nữ
nông thôn ngày nay cũng như thấy được những hạn chế của họ so với nam giới cùng
với việc đưa ra được những chính sách, thể chế và chương trình cho phù hợp, đảm bảo
cho phụ nữ và nam giới được hưởng lợi như nhau trong quá trình tăng trưởng kinh tế
trong điều kiện phát triển nhanh chóng như hiện nay.
Phụ nữ sẽ nhận thức được rõ hơn về giá trị của bản thân mình cũng như quyền ra
quyết định của họ trong hộ gia đình, ở nơi làm việc và trong cộng đồng thông qua một
số yếu tố tác động đến vị thế của phụ nữ, đó là các yếu tố hạn chế về giáo dục, chăm
sóc sức khỏe, khả năng tiếp cận thông tin, các nguồn lực và gánh nặng công việc đồng

án và gia đình (Báo điện tử Việt Nam Media, 2005). Chính điều này đã tạo nên bất lợi
trong việc tìm kiếm việc làm của phụ nữ nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng
trước những thách thức của quá trình đổi mới đất nước và hội nhập với nền kinh tế
quốc tế.
Trước tình hình phát triển năng động của nền kinh tế như hiện nay, đất nước
đang cần có một đội ngũ lao động tri thức cao, sức khỏe tốt, tầm nhìn rộng, tính linh
hoạt, sáng tạo trong công việc,…nhằm phục vụ cho công cuộc xây dựng và phát triển
nền kinh tế nước nhà. Điều này cho thấy, cơ hội việc làm cũng ngày càng được mở
rộng nhiều hơn, làm giảm bớt nhanh hơn tình trạng thất nghiệp (đặc biệt ở vùng nông
thôn). Tuy nhiên, đối với phụ nữ sống ở các khu vực nông thôn thì đây lại là một
thách thức lớn đối với họ mà những biểu hiện cụ thể dưới đây sẽ làm sáng tỏ hơn vấn
đề đó:
- Với phong tục tập quán truyền thống từ ngàn đời nay cùng với tư tưởng “trọng nam
khinh nữ” ở một số gia đình sống tại vùng nông thôn vẫn còn là một vấn đề phổ biến.
Với tư tưởng này thì đứa con trai được coi là có triển vọng nghề nghiệp tốt hơn so với
đứa con gái có cùng trình độ học vấn khi xem xét ở góc độ học vấn như nhau giữa
nam và nữ (Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc, 2002). Hiện nay, tại các vùng
sâu, vùng xa và vùng dân tộc tỷ lệ trẻ em đi học còn ở mức thấp, đặc biệt là trẻ em gái.
Tỷ lệ trẻ em gái chưa đi học tiểu học là 16% và chưa đi học trung học phổ thông cơ sở
là 32%. Có tới 70% trong tổng số học sinh là trẻ em gái phải bỏ học
(5)
với nhiều lý do
khác nhau nhưng suy cho cùng với quan niệm “trọng nam khinh nữ” vẫn là nguyên
nhân chủ yếu làm cho tỷ lệ trẻ em gái được đến trường thấp hơn nam giới. Ví dụ: Một
2
gia đình có hai con (trai và gái) đang ở độ tuổi đi học nhưng do điều kiện kinh tế khó
khăn, gia đình chỉ đủ nuôi một con đi học thôi còn một con phải ở nhà giúp đỡ bố mẹ
làm kinh tế thì chắc chắn là gia đình đó sẽ đầu tư cho con trai và tất nhiên là con gái
phải ở nhà để giúp đỡ cho gia đình như bế em, dọn dẹp việc nhà, phụ giúp những công
việc khi mùa vụ đến, cách giải quyết này của các vị phụ huynh có lẽ cũng xuất phát từ

quan niệm “Con gái là con người ta” (Ngọc Trân và Nguyệt Minh, 1999). Chính cách
nhìn sai lệch như vậy đã làm cho tương lai của người phụ nữ về lâu dài gặp nhiều khó
khăn và thiệt thòi trước những đòi hỏi ngày càng cao của nhu cầu công việc và cuộc
sống trong thời kỳ hội nhập hiện nay.
- Một khi chúng ta bước vào một cuộc sống trong một môi trường hội nhập năng động
hiện nay thì đòi hỏi phụ nữ phải đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công việc và
ngang bằng với nam giới về mặt tri thức. Hiện nay, tỷ lệ nữ giới chiếm tới khoảng
49% trong lực lượng lao động, tương đương với 21.,1 triệu nữ (Bộ Kế hoạch và Đầu
tư - Ủy Ban Quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ, 2006). Con số này cũng đủ nói lên
được vai trò quan trọng của người phụ nữ trong việc phát triển kinh tế, cải thiện chất
lượng cuộc sống cho họ và gia đình họ ngày một tốt hơn. Tuy nhiên, chỉ có khoảng
26% số phụ nữ làm việc trong lĩnh vực làm công ăn lương (Ngân hàng thế giới,
2006), còn đa phần họ tập trung nhiều ở các công việc kinh tế thấp, lương thấp, đặc
biệt là trong khu vực không chính thức
(6)
(Kabeer et al, 2005). So với nam giới thì họ
có thể làm việc trong nhiều ngành nghề hơn như làm thợ hồ trong ngành xây dựng,
làm nghề chạy xe ôm hay đạp xích lô trong khi phụ nữ phải làm những công việc có
thu nhập thấp như thợ may, bán hàng rong, giúp việc nhà hay làm trong các ngành
nghề thủ công mỹ nghệ và chế biến thực phẩm (Kabeer và Vân Anh, 2001). Vì vậy,
các yếu tố gây nên tình trạng này là do phụ nữ nông thôn bị hạn chế về trình độ học
vấn, khả năng tiếp cận với công nghệ thấp, đồng thời do sự thiếu sót hay bỏ quên đi
vai trò của người phụ nữ trong việc đào tạo nghề tạo thêm việc làm phục vụ cho mục
đích xóa đói giảm nghèo ở vùng nông thôn từ các dự án, chương trình, chính sách của
các cấp lãnh đạo. Bằng chứng cụ thể là chỉ có khoảng 25% phụ nữ nông thôn được
đào tạo tay nghề (Kabeer et al, 2005), còn đối với vấn đề “kỹ năng chuyên môn” thì
con số này ở nữ là 10% (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, 2006). Những đối tượng
phụ nữ được đào tạo thì cơ hội tìm được việc làm của họ dễ dàng hơn, họ có thể đi
làm tại các tỉnh khác hay xuất khẩu lao động ra nước ngoài hoặc có thể làm trong các
ngành nghề tiểu thủ công nghiệp mà đặc thù ở từng địa phương sẵn có (Ví dụ: dệt

chiếu, đan lát, thêu ren, đính hạt cờm,…). Kết quả là phụ nữ không chỉ có được việc
làm ổn định mà phần nào cũng nâng cao được kiến thức, có thể mở rộng tầm nhìn của
họ ra thế giới bên ngoài và đây cũng chính là điều kiện để có thể nâng cao vị thế của
người phụ nữ ở tương lai trong tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội - văn hóa. Tuy
nhiên, đối với phụ nữ chưa qua đào tạo, học vấn thấp thì thiếu việc làm có thu nhập
cao là điều tất nhiên không thể tránh khỏi trong thời đại ngày nay. Những công việc có
thu nhập thấp của họ thường gắn liền với việc làm thuê, làm mướn thậm chí do học
3
vấn thấp họ còn có thể bị rơi vào các ổ chứa gái mại dâm hoặc bị bán sang các nước
khác. Đây là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất trong xã hội ngày nay và cần có
những giải pháp phù hợp để đưa họ thoát khỏi tình trạng này luôn là việc cần làm từ
phía các tổ chức, các cơ quan ban ngành có liên quan.
- Thách thức trong tìm kiếm việc làm của phụ nữ còn thể hiện ở chỗ có sự phân biệt
đối xử
(7)
giữa nam và nữ trong tuyển dụng và đây vẫn còn là vấn đề tồn tại phổ biến ở
Việt Nam (Nhóm công tác của Ngân hàng thế giới, 2006). Chính điều này đã làm cho
phụ nữ tìm việc làm khó khăn hơn so với nam giới khi xét ở cùng một độ tuổi, cùng ở
một mức độ học vấn như nhau. Hiện nay, các nhà tuyển dụng đã thông qua báo chí
Việt Nam thường xuyên đăng quảng cáo về việc làm và trong nội dung có nêu rõ yêu
cầu giới tính của ứng cử viên được tuyển chọn, trong đó tiêu chuẩn tuyển dụng cho
nam giới và nữ giới cũng có yêu cầu khác xa nhau hay phụ nữ phải thỏa mãn các tiêu
chuẩn như cao hơn nam giới khi được giao phó cho thực hiện cùng một công việc với
nam giới (Nhóm công tác của Ngân hàng thế giới, 2006). Nguyên nhân mà các nhà
tuyển dụng hiện nay đang có xu hướng không muốn tuyển, đào tạo hoặc đề bạt lao
động nữ là do họ phải chi trả một khoản phí khá lớn cho hàng loạt những chính sách
“bảo hộ” lao động nữ trong Luật lao động Việt Nam đã quy định, chẳng hạn như lao
động nữ phải có chế độ về hưu sớm, chế độ thai sản, nữ không được làm việc trong
một số ngành nghề được coi là độc hại hoặc nguy hiểm cho sức khỏe (Ngân hàng thế
giới, 2005). Theo Ủy Ban vì sự tiến bộ của phụ nữ và cộng sự (2005) thì sự thiệt thòi

này lại càng nhận thấy rõ hơn nữa khi có sự phân chia lao động theo giới trong các
ngành: có nghĩa là nam giới thường chiếm số đông trong các lĩnh vực có vị trí cao
hơn, thường đảm nhiệm các loại công việc có thu nhập cao hơn và có nhiều cơ hội ra
quyết định hơn, chẳng hạn như nam giới chiếm khoảng 81% ở vị trí lãnh đạo và
chuyên viên cao cấp 58.5% trong khi phụ nữ thường có xu hướng tập trung đông ở
những ngành nghề có địa vị thấp trong xã hội, chiếm những công việc ít có cơ hội
được thăng tiến hơn và ít có điều kiện ra quyết định hoặc được đề bạt, đó thường là
những công việc như nhân viên chiếm 53.1%; nghề tự do, bảo vệ, bán hàng là 68.7%.
Các số liệu này đã được các tác giả Naila Kabeer, Vân Anh và Mạnh Lợi trích từ
nguồn “Thực hiện các Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ. Báo cáo của Việt Nam”
Nước CHXHCNVN, Hà Nội, 2005 để sử dụng cho bài nghiên cứu của mình.
- Hiện nay, xuất khẩu lao động là một hình thức đang được áp dụng phổ biến ở Việt
Nam, nó không chỉ được xem như là một nguồn tạo thu nhập cho mỗi người lao động
Việt Nam, một giải pháp cho việc làm giảm nhanh tình trạng thất nghiệp tại nơi thừa
lao động mà còn là một nguồn thu ngoại tệ lớn cho nước nhà, đó cũng chính là một
cách để có thể cải thiện mối quan hệ kinh tế, văn hóa, khoa học và kỹ thuật giữa Việt
Nam với các nước tiếp nhận lao động xuất khẩu (Nhóm công tác của Ngân hàng thế
giới, 2006). Theo một cuộc điều tra cho biết cứ mỗi năm người di cư theo chương
trình xuất khẩu lao động có thể gửi về nhà khoảng 1.5 tỷ đô la Mỹ, tương đương với
đóng góp của lĩnh vực du lịch vào GDP (Kabeer et al, 2005). Tuy nhiên, thủ tục hợp
4
đồng trong xuất khẩu lao động lại là một vấn đề cản trở cơ hội tìm được việc làm của
người lao động với các yêu cầu của các công ty xuất khẩu lao động đòi hỏi cao về
trình độ học vấn của người lao động và việc công nhân phải chi trả thêm các khoản chi
phí khi xuất cư
(8)
ra nước ngoài và như vậy yêu cầu này gần như đã vượt quá khả năng
của người lao động nghèo học vấn thấp, trong đó kể cả phụ nữ nông thôn cũng bị ảnh
hưởng nhiều bởi những hạn chế trong việc tiếp cận giáo dục. Bên cạnh đó, đối tượng
xuất khẩu lao động đang bị rơi vào tình trạng dễ bị tổn thương do trước khi lên đường

họ bị hạn chế trong việc cung cấp các thông tin, các qui định hay do thiếu các dịch vụ
hỗ trợ ở nước nhận lao động cho lao động xuất khẩu và điều này đang đặt họ vào tình
trạng dễ bị tổn thương. Đặc biệt, nữ lao động làm trong các khu vực không chính thức
có thể gặp nguy cơ bị cô lập hoặc bị quấy rối (Nhóm công tác của Ngân hàng thế giới,
2006). Mặt khác, do hạn chế về trình độ học vấn nên đa phần nữ lao động được xuất
khẩu sang nước khác chiếm tới 64% với các công việc chủ yếu là giúp việc nhà, làm
việc trong các tiệm ăn hoặc công nghiệp dịch vụ (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam,
2006).
- Các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu tài sản (chủ yếu là đất đai) đối với phụ nữ
Việt Nam nói chung và phụ nữ nông thôn nói riêng cũng là điều gây ra tính tổn thương
ở họ khi họ phải đối mặt với những khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng
mà không có tài sản gì thế chấp. Trong một nghiên cứu gần đây cho thấy, có tới 20%
phụ nữ bị từ chối không được vay vốn để làm kinh tế do họ không có vật thế chấp
(Quỹ phát triển khu vực tư nhân Mekong, 2006). Mặc dù, Nhà nước đã có sự điều
chỉnh trong Luật đất đai năm 2003 (theo Bản sửa đổi) quy định rằng tất cả giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất mới bao gồm tên của cả hai vợ chồng, việc làm này đã tạo
điều kiện cho người phụ nữ tiếp cận được với đất đai cùng với việc nâng cao sự an
toàn cho bản thân họ trong các trường hợp ly hôn hay thừa kế, tuy nhiên Luật lại
không có bất cứ yêu cầu nào cho việc sửa đổi các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
đã được cấp từ trước (Nhóm công tác của Ngân hàng thế giới, 2006) và nó còn đang là
vấn đề bức xúc của những phụ nữ vùng nông thôn. Ví dụ: Bảng 1 dưới đây sẽ cho
chúng ta thấy sự phân chia các loại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo người
đứng tên chủ sử dụng đất.
Bảng 1. Nếu chỉ có một người đứng tên chủ sử dụng đất trong giấy tờ, thì đó
thường là nam giới
Đơn vị tính: %
Loại đất
Chủ sử dụng đất
Chỉ nam giới Chỉ phụ nữ
Đất nông nghiệp hàng năm 66 19

Đất ở 60 12
5

×