Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Vai trò của cộng đồng trong phục dựng và thực hành lễ hội truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.52 KB, 7 trang )

DI SẢN VĂN HĨA

VAI TRỊ CỦA CỘNG ĐỒNG TRONG PHỤC DỰNG
VÀ THỰC HÀNH LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG
NGUYỄN THỊ PHƯƠNG CHÂM

Tóm tắt
Trong bối cảnh các lễ hội truyền thống được phục dựng và thực hành sôi nổi ở khắp nơi trên cả
nước như hiện nay, vấn đề xác định các chủ thể nào liên quan đến quá trình phục dựng và thực hành lễ
hội cũng như họ có vai trị ra sao trong quá trình ấy là vấn đề nghiên cứu thú vị và có khả năng mang
đến những đóng góp quan trọng cho việc nhìn nhận và hiểu sâu hơn về bức tranh lễ hội truyền thống
trong xã hội đương đại. Trên cơ sở quan sát và nghiên cứu về các lễ hội truyền thống trong nhiều năm
qua, bài viết tìm hiểu vai trị của cộng đồng làng1 trong q trình phục dựng và thực hành lễ hội truyền
thống hiện nay để chỉ ra các cách thức và mức độ tham gia khác nhau của cộng đồng làng vào lễ hội
mà họ vốn được xem là chủ nhân, từ đó khẳng định lễ hội chỉ thực sự được phục dựng và thực hành tốt
nhất khi cộng đồng làng thực sự có được vai trị chủ đạo đối với lễ hội của chính họ.
Từ khóa: Vai trị cộng đồng, phục dựng, thực hành, lễ hội truyền thống
Abstract
In the context of traditional festivals being restored and practiced vigorously throughout the
country today, the issue of determining which subject is involved in the restoration and practice process
of the festival as well as the roles they play in that process is an interesting research and is able to make
important contributions to the recognition and deeper understanding of the traditional festival picture
in contemporary society. Based on observations and research on traditional festivals over the years,
the paper explores the role of village communities in the process of restoring and practicing traditional
festivals today to show the ways and different level of participation of the village community in the
festival, in which, they are considered to be the owner, thereby asserting that the festival is only really
restored and best practices when the village community actually has the main role in their own festival.
Keywords: Community roles, restoration, practices, traditional festivals

1. Nhu cầu phục dựng lễ hội truyền thống


T

rong khoảng hơn hai thập kỷ trở lại
đây, cùng với sự thay đổi chung của
đất nước, chúng ta chứng kiến sự

thay đổi mạnh mẽ của đời sống tín ngưỡng
và lễ hội. Các di tích (đình, chùa, đền, miếu,
phủ,…) được phục dựng, trùng tu hoặc xây
mới ở khắp nơi (từ nông thôn đến đô thị, từ
miền núi đến miền biển, từ các cộng đồng
trong nước đến các cộng đồng người Việt Nam
Số 29 (Tháng 9 - 2019)

ở nước ngồi,…) và đi cùng với đó là sự phục
hồi lại các lễ hội truyền thống. Nhiều thông
điệp truyền thơng đã nói tới sự “nở rộ lễ hội”,
“bùng nổ lễ hội”, “được mùa lễ hội”, “phục hưng
lễ hội”,… trong khoảng gần 30 năm trở lại đây
và con số 7.966 lễ hội trong một năm ở nước ta,
trong đó có 7.039 lễ hội dân gian2 đã là minh
chứng thuyết phục cho điều đó. Rõ ràng, sự trở
lại ngày càng sôi động của các lễ hội truyền
thống trong đời sống xã hội hiện nay không
phải là ngẫu nhiên mà là một hiện tượng hàm

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

25



VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

chứa trong đó nhiều ý nghĩa về chính trị, kinh
tế, văn hóa và xã hội rất cần được nghiên cứu.
Xã hội đương đại gắn với kinh tế thị trường,
với nhịp sống cơng nghiệp và các dịng chảy
thương mại toàn cầu khiến thế giới trở nên
nhỏ bé hơn, “phẳng” hơn, nhất thể hóa nhanh
hơn và hiện hữu rõ nét nguy cơ mai một tính
đa dạng văn hóa, làm mất đi màu sắc văn hóa
các địa phương, con người bị cuốn vào vịng
quay nghiệt ngã của kinh tế, hàng hóa, tiêu thụ
và mưu sinh. Môi trường sống và môi trường
văn hóa cộng đồng trở nên bất ổn, ơ nhiễm,
suy giảm tài nguyên, rồi hiệu ứng nhà kính, rác
thải, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên tai, tai
nạn giao thơng, tệ nạn xã hội, bệnh tật, thực
phẩm độc hại,… tất cả đã khiến cuộc sống con
người hiện nay nhiều bất trắc, trở nên mong
manh hơn. Trong bối cảnh xã hội như vậy, lễ
hội truyền thống với vai trò là sinh hoạt văn
hóa cộng đồng đặc trưng, nơi hình thành, lưu
giữ và trao truyền bản sắc văn hóa với những
nét đẹp của thuần phong mỹ tục, của lối ứng
xử đậm chất nhân văn và cũng là nét văn hóa
trội, phân biệt cộng đồng này với cộng đồng
khác, làng này với làng khác, vùng này với

vùng khác, quốc gia này với quốc gia khác,…
đáp ứng được nhu cầu về văn hóa, tín ngưỡng,
tâm linh, nhu cầu du lịch giải trí, nhu cầu về
nguồn, nhu cầu giữ gìn bản sắc dân tộc,… và
trở thành nét văn hóa truyền thống được con
người trong xã hội đương đại quan tâm ngày
càng nhiều.
Xuất phát từ nhu cầu thực hành tín ngưỡng
ngày càng cao của xã hội đương đại, nhu cầu
hành hương đến các lễ hội ngày càng sôi nổi
của dân chúng mà các lễ hội truyền thống được
phục dựng ở khắp nơi, tạo nên xu hướng hay
một thực tế xã hội không thể phủ nhận trong
bức tranh văn hóa hiện nay. Chúng ta đang
chứng kiến một thực tế là làng quê nào, vùng
miền nào, tộc người nào cũng tìm lại trong vốn
văn hóa truyền thống của mình những yếu tố
liên quan đến lễ hội để phục dựng lễ hội, để
trình diễn nét đặc sắc văn hóa của mình. Nếu
26

Số 29 (Tháng 9 - 2019)

nơi nào lễ hội chưa bị đứt đoạn, mai một thì họ
tiếp tục phát huy, nơi nào đã mai một thì phục
dựng lại, có những địa phương lễ hội đã lùi xa
vào dĩ vãng, người dân cũng vẫn cố gắng phục
dựng từ các nguồn tư liệu cổ, từ trí nhớ của
những người già, thậm chí nhiều yếu tố được
họ sáng tạo ra, du nhập mới về để thành lễ hội.

2. Các chiều cạnh biểu hiện vai trò cộng đồng
trong phục dựng và thực hành lễ hội truyền
thống
Công ước về bảo tồn di sản văn hóa phi vật
thể được Đại hội đồng UNESCO thơng qua vào
ngày 17/10/2003, có hiệu lực từ tháng 4/2006
đã ghi nhận rằng các cộng đồng, đặc biệt là
các cộng đồng, các nhóm người và trong một
số trường hợp là các cá nhân bản địa đóng
một vai trị hết sức quan trọng trong việc tạo
ra, bảo tồn, duy trì và tái tạo di sản văn hóa phi
vật thể, từ đó làm giàu thêm sự đa dạng văn
hóa và tính sáng tạo của con người. Tổ chức
này nhấn mạnh vai trò của các cộng đồng
trong việc thực hiện các quyền liên quan đến
bảo vệ các di sản văn hóa và thiên nhiên. Vai
trị này được nói tới trong nhiều điều khoản
của các Cơng ước: “Di sản văn hóa phi vật thể
được hiểu là các tập quán, các hình thức thể
hiện, biểu đạt, tri thức và kỹ năng (...) mà các
cộng đồng, các nhóm người và trong một số
trường hợp là các cá nhân, cơng nhận là một
phần di sản văn hóa của họ.” [8, Điều 2.1]; các
cộng đồng sẽ tham gia vào các hoạt động
nhận diện và xác định các loại hình Di sản văn
hóa phi vật thể [8, Điều 11]; khơng thể tiếp cận
với các di sản văn hóa phi vật thể nếu không
tôn trọng tập tục của các cộng đồng [8, Điều
13]; và cuối cùng, cần có “sự tham gia tối đa
của các cộng đồng” vào toàn bộ các hoạt động

bảo tồn di sản văn hóa phi vật thể [8, Điều
15]… Như vậy, cộng đồng ở đây vừa được xem
như một không gian không thể thiếu cho cuộc
sống và sự tồn tại của các giá trị văn hóa, vừa
được nhìn nhận như là môi trường cần thiết
và bền vững cho việc thực hiện các quyền liên
quan đến cuộc sống và biểu đạt văn hóa của


DI SẢN VĂN HÓA

mỗi con người. Những nét đặc trưng của cộng
đồng có thể khác nhau giữa các quốc gia, dân
tộc, song khái niệm cộng đồng trong vai trị
là mơi trường sống, môi trường sáng tạo, thực
hành và trao truyền các giá trị văn hóa là giống
nhau trên tồn cầu.
Với lễ hội truyền thống, mơi trường văn
hóa làng thực sự là môi trường sáng tạo, thực
hành và trao truyền lễ hội và trong bối cảnh
xã hội đương đại, cộng đồng làng vẫn ln có
vai trị quan trọng trong q trình phục dựng
và thực hành lễ hội. Thực tế việc phục dựng và
thực hành lễ hội truyền thống trong bối cảnh
xã hội hiện nay cho thấy vai trò của cộng đồng
làng được thể hiện ở nhiều chiều cạnh khác
nhau, khi thì cộng đồng làng có vai trị hiện
hữu, khi thì có vai trị ẩn, khi thì vai trị đó rõ
nét, khi thì mờ nhạt, có lễ hội thì vai trị của
cộng đồng làng được khẳng định gắn liền với

dấu ấn quyền lực của cộng đồng này trong
quá trình phục dựng và thực hành, song cũng
có lễ hội dù vai trị của cộng đồng làng được
khẳng định nhưng lại hầu như không có tiếng
nói trong tồn bộ q trình phục dựng và thực
hành lễ hội truyền thống. Song có thể thấy rõ
rằng ở đâu mà cộng đồng làng chủ động với
lễ hội truyền thống, có ý kiến quyết định trong
việc phục dựng và thực hành lễ hội truyền
thống thì lễ hội đó thành cơng và trở thành nét
văn hóa trội, là điểm nhấn quan trọng trong
bức tranh văn hóa của địa phương. Ngược
lại, lễ hội truyền thống nào được phục dựng
không bám sát vào nhu cầu của cộng đồng
làng, cũng khơng có sự tham gia một cách chủ
động và tích cực của cả cộng đồng cũng như
các cá nhân trong làng thì lễ hội đó dù được tổ
chức lớn đến thế nào cũng trở thành xa lạ với
cộng đồng, thậm chí cộng đồng khơng chấp
nhận và đứng ngồi lễ hội. Có thể khái qt vai
trị của cộng đồng làng trong q trình phục
dựng và thực hành lễ hội truyền thống ở ba
dạng biểu hiện cơ bản là: Vai trò chủ động, vai
trò thụ động và vai trò kết hợp, chia sẻ.
Số 29 (Tháng 9 - 2019)

Lễ hội đền Hùng, cụ thể là lễ Giỗ tổ Hùng
Vương hiện nay là một trường hợp mà việc
phục dựng, làm mới và thực hành lễ hội chưa
thực sự gắn kết hợp lý với nhu cầu của người

dân, của cộng đồng vốn là chủ thể của lễ hội
này. Khu di tích đền Hùng ở thơn Cổ Tích, xã Hy
Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ (ngày
nay thuộc thành phố Việt Trì) với tổng diện
tích tự nhiên trên 1.000ha, thuộc địa giới hành
chính của 7 xã: Hy Cương, Chu Hóa, Thanh
Đình, Tiên Kiên, Phù Ninh, Kim Đức, Vân Phú,
là một quy mơ hồn tồn mới. Vốn dĩ ban đầu
khu di tích này thờ các vị thần núi của dân làng
ở đây. Các vị thần núi này vốn được các làng
thuộc Cổ Tích, Hy Cương phụng thờ như các vị
thành hồng làng. Vua Hùng với vai trị là một
vị Tổ của tồn dân tộc thực sự được tơn vinh
từ cuối những năm 90 của thế kỷ XX. Từ năm
2000, lễ hội đền Hùng được tổ chức theo nghi
thức Quốc giỗ vào những năm chẵn (5 năm
một lần) do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ
chức, cịn vào các năm lẻ do Ủy ban nhân dân
(UBND) tỉnh Phú Thọ đứng ra tổ chức. Từ đây,
toàn bộ việc thực hành lễ Giỗ tổ Hùng Vương
được quy định chặt chẽ theo kịch bản của nghi
thức quốc gia. Có thể thấy rõ rằng, lễ hội đền
Hùng hiện nay là do Nhà nước quản lý, tổ chức
và quyết định hầu như tất cả các thực hành
nghi lễ trong lễ hội này. Người dân ba làng Vi,
Trẹo, Cổ Tích vốn xưa được coi là “trưởng tạo lệ”
có trách nhiệm đứng ra tổ chức lễ hội theo “lệ”
làng, người dân có nghĩa vụ đóng góp cơng
sức, thời gian và tài chính thì nay họ tham gia
vào lễ hội theo sự chỉ đạo và phân công nhiệm

vụ từ “cấp trên”. Người dân ba làng không cịn
đóng vai trị “trưởng tạo lệ” nên khơng có trách
nhiệm tổ chức lễ hội và chủ tế cũng khơng cịn
là đại diện của ba làng. Các làng xã tổ chức
rước kiệu, dâng hương theo yêu cầu của ban
tổ chức lễ hội, họ tham gia các hoạt động tại
các đền ở khu đền Hùng theo nhiệm vụ được
phân cơng từ chính quyền địa phương. Nhìn
vào lễ hội đền Hùng hiện nay thì UBND tỉnh là
cơ quan quyền lực cao nhất điều hành lễ Giỗ tổ

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

27


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

Hùng Vương tại khu di tích lịch sử đền Hùng.
Với sự tham gia của các sở, ban ngành trong
toàn tỉnh, lễ Giỗ tổ được tổ chức một cách bài
bản, chặt chẽ và theo quy định của pháp luật.
Các cấp chính quyền tham gia và can thiệp
sâu vào việc xây dựng kịch bản lễ hội, tham
gia thực hiện nghi lễ (lãnh đạo làm vai trò làm
chủ lễ), việc phân cơng các đồn rước và cả các
chương trình nghệ thuật, thể thao. Thực tế này
đã làm giảm tính chủ động của cộng đồng đối

với lễ hội của họ. Cộng đồng thực hiện “mệnh
lệnh” của cấp trên bằng những chỉ thị, văn bản,
kế hoạch, phân công nhiệm vụ. Mọi hoạt động
của lễ hội đều do các cấp quản lý phân cơng,
cịn cộng đồng chỉ là những người thực hiện
khiến cho người dân khơng phát huy vai trị
chủ động vốn có của mình trong tổ chức lễ
hội. Sự chỉ đạo về mặt hành chính bằng văn
bản từ các cấp lãnh đạo trong các nội dung
“truyền thống” như rước kiệu, làm bánh chưng,
trò chơi, thi nấu cơm, gói bánh, v.v... cũng làm
giảm tính chủ động và sự tích cực của cộng
đồng. Hơn thế nữa, sự can thiệp và chỉ đạo của
Nhà nước dường như đã làm mất đi cảm giác
thuộc về lễ hội đó của người dân, điều này dẫn
đến việc cộng đồng các làng cũng như mỗi
người dân làng khơng cịn coi lễ hội đền Hùng
là của họ mà là của Nhà nước.
Lễ hội đền Trần (Nam Định) lại là một ví
dụ khác về sự suy giảm vai trò của cộng đồng
làng trong tổ chức lễ hội hiện nay. Nổi lên từ
những năm 2000 với việc phát ấn, lễ hội đền
Trần có sự can thiệp chính thức của Nhà nước
vào cơng tác tổ chức lễ hội một cách đồng bộ,
từ việc giao các cơ quan chức năng lo các công
việc chuẩn bị, đảm bảo trật tự, an ninh, việc
quảng bá cũng như phân bổ thời gian hợp lý
cho việc thực hành các nghi lễ. Điều này khiến
nhiều người dân làng Tức Mặc, phường Lộc
Vượng - cộng đồng chủ nhân của lễ hội truyền

thống thấy rằng họ dường như đã mất đi lễ
hội của làng mình, lễ hội truyền thống của họ
đã bị thay đổi đến mức chính họ cũng khơng
28

Số 29 (Tháng 9 - 2019)

còn quen thuộc nữa. Trước kia, lễ Khai ấn chỉ
diễn ra trong phạm vi làng Tức Mặc, ấn đóng
trong dịp đầu năm đủ để phát cho dân làng,
mỗi nhà đều sẽ có một lá ấn. Theo người dân
trong làng cho biết, trước kia mỗi lá ấn phát về
cho mỗi gia đình trong làng Tức Mặc (chủ yếu
con cháu họ Trần) thì cơng đức cho mỗi tờ ấn
là khoảng 2.000 đồng; hiện nay mỗi gia đình
cũng được phát một lá ấn nhưng tiền cơng
đức đã là 20.000 đồng. Cịn riêng đối với du
khách đến lễ hội, có thể đăng ký trước, sau đó,
đóng tiền cơng đức với giá tối thiểu là 20.000
đồng và nhận biên lai, đến chính hội sẽ được
nhận ấn. Việc lá ấn được phát ra quá nhiều, lá
ấn trở thành quà tặng cho các cơ quan, đoàn
thể ở xa, lá ấn trở thành vật trao đổi, mua bán,
thật giả lẫn lộn, chất lượng khác nhau,… đã
khiến cho sự linh thiêng của lễ Khai ấn cũng
như lá ấn suy giảm và đồng thời lễ hội truyền
thống của cộng đồng làng Tức Mặc đã trở
thành lễ hội mang nặng tính chất hành chính
và thương mại.
Khác với hai lễ hội trên, hội Gióng lại là một

ví dụ sống động thể hiện vai trị chủ động,
tích cực của cộng đồng làng trong phục dựng,
quản lý và tổ chức lễ hội. Lễ hội được tổ chức
bởi Ban quản lý di tích lịch sử xã Phù Đổng, với
sự tham gia trực tiếp của các cụ có am hiểu về
lễ hội truyền thống. Các cụ và dân làng tổ chức
hội Gióng theo những quy định chặt chẽ được
ghi trong Sổ hội lệ. Cụ thể, mọi công việc như
trông coi, quản lý, bảo vệ di tích, đèn nhang
hương khói và thực hiện các cơng việc tế lễ, lễ
hội là do các cụ trong Ban quản lý di tích cùng
với các cụ trong Ban khánh tiết đền thực hiện.
Một công việc quan trọng trong công tác tổ
chức hội Gióng là tuyển các vai diễn trong hội
rồi tập luyện cho họ việc đi đứng, lễ nghi như
thế nào đều do các cụ trong Ban quản lý phân
công người hướng dẫn, luyện tập và thực
hành theo Sổ hội lệ. Như vậy, các công việc
điều hành, tổ chức các hoạt động chính trong
lễ hội là do đại diện cộng đồng trong Ban quản


DI SẢN VĂN HĨA

lý di tích thực hiện. Cộng đồng làng tham gia
và chủ động trong công việc này vừa đảm bảo
được chức năng và tính thiêng vốn có của lễ
hội truyền thống, lại vừa giữ được sự cố kết
cộng đồng chặt chẽ. Nhà nước vẫn thực hiện
các hình thức quản lý của mình song việc thực

hiện đó chủ yếu chỉ ở đường hướng chỉ đạo,
ở sự trợ giúp “vòng ngồi” với các cơng tác an
ninh trật tự, truyền thơng, cơ sở hạ tầng,… mà
không can thiệp sâu vào quá trình thực hành
lễ hội. Vì vậy, vai trị của cộng đồng được phát
huy tối đa và lễ hội Gióng đã chứng tỏ một
điều rằng dù đã trở thành một lễ hội lớn mang
tầm quốc gia song cộng đồng làng vẫn có thể
đảm nhiệm được việc thực hành các nghi lễ
theo đúng lệ truyền thống, tức là đảm nhiệm
phần cốt lõi, phần hồn của lễ hội và người dân
thực sự xem lễ hội là của họ, của cộng đồng
họ nên họ có trách nhiệm, có nghĩa vụ và cả
quyền lợi trong đó.
Một trường hợp khác là lễ hội đền Bà Chúa
Kho (Cổ Mễ, Bắc Ninh), từ một ngôi miếu nhỏ
trở thành một ngôi đền lớn, từ một vị Thánh
được người dân tơn thờ vì có cơng chiêu dân
lập làng, mở mang sản xuất đến một vị Thánh
có quyền năng đặc biệt trong việc quản lý
kho tiền bạc, tài lộc để dân chúng có thể “vay
- trả”, từ quy mơ lễ hội là lễ giỗ Bà diễn ra trong
một ngày với sự tham gia của cộng đồng địa
phương đến quy mô lễ hội diễn ra trong suốt
3 tháng với sự tham gia của rất đông khách
thập phương, lễ hội đền Bà Chúa Kho đã trải
qua cả một quá trình phục dựng, làm mới với
những sự thay đổi căn bản. Tuy nhiên, dù lễ hội
lớn như vậy nhưng các thành viên trong cộng
đồng làng Cổ Mễ đã đứng ra lo liệu và quản

lý hiệu quả lễ hội này, họ đã tối ưu hóa được
lợi ích của cộng đồng làng và duy trì được sự
cố kết bền chặt các thành viên trong làng, tạo
ra một quy trình quản lý và tổ chức khép kín
trong cộng đồng theo kiểu tự quản mà người
bên ngoài và cả các cấp chính quyền khó có
thể can thiệp được.
Số 29 (Tháng 9 - 2019)

Ban quản lý di tích đền Bà Chúa Kho được
dân cử ra có nội quy hoạt động một cách rõ
ràng, quy định cụ thể trách nhiệm và nghĩa vụ
của các thành viên. Có thể nói rằng, việc phân
bổ công việc, tổ chức công việc tại khu di tích
và lễ hội được cộng đồng làng Cổ Mễ triển
khai là hết sức khoa học và hợp lý, ai cũng có
quyền lợi ở trong đó và quyền lợi được phân
chia hết sức công bằng. Hội người cao tuổi của
làng bầu và lựa chọn người cho các ban: Ban
quản lý di tích, Ban an ninh, Ban bảo vệ, Ban
xây dựng, Ban tài chính, Ban kiểm sốt, các ban
này có nhiệm vụ rõ ràng. Mỗi ban lại tiếp tục
chia ra thành các tổ và công việc được phân
công đến từng người cụ thể theo ca, theo
ngày, theo các đầu công việc từ việc nhỏ đến
việc lớn. Đi cùng với sự phân công ấy là quyền
lợi mỗi người cũng được quy định rõ ràng,
minh bạch. Có thể thấy cộng đồng này cố kết
chặt chẽ để bảo vệ di sản quan trọng nhất của
họ là lễ hội đền Bà Chúa Kho, họ thể hiện rõ

vai trị chủ nhân của mình nên chủ động trong
mọi công việc liên quan đến lễ hội. Lễ hội đền
Bà Chúa Kho đã cho thấy một mơ hình quản
lý cộng đồng rất hiệu quả đã và đang được
duy trì, ở đây vai trò của cộng đồng làng được
phát huy tối đa. Lễ hội đền Bà Chúa Kho khơng
cịn là lễ hội làng nữa mà đã là lễ hội lớn thu
hút rất đông khách thập phương, lại diễn ra
trong suốt 3 tháng cao điểm và rải rác trong cả
năm, Ban quản lý cũng lên đến cả 500 người,
song dân làng vẫn đảm nhiệm được tồn bộ
cơng tác quản lý và tổ chức lễ hội. Điều này
cho thấy sức mạnh của cộng đồng làng và khi
mà quyền lợi và trách nhiệm gắn kết hài hịa
được với nhau, khi mà mục đích bảo vệ di sản
đồng hành được với mục đích kinh tế và thể
diện của cộng đồng thì việc quản lý, tổ chức
lễ hội hồn tồn có thể đặt vào tay cộng đồng
chủ nhân. Chính họ sẽ biết cách quản lý và tổ
chức lễ hội của họ một cách tốt nhất, phù hợp
nhất với họ.

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

29


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU


Lễ Khao lề thế lính Hồng Sa3 đang được
thực hành hiện nay ở đảo Lý Sơn, Quảng Ngãi
lại thể hiện rõ vai trò của cộng đồng làng trong
sự kết hợp, chia sẻ với vai trò của Nhà nước. Từ
lễ hội của tộc họ, của làng đã mai một gần nửa
thế kỷ đến lễ hội của quốc gia, lễ hội này đã
thực sự trải qua một quá trình phục dựng và
làm mới ngoạn mục với sự đầu tư trọng điểm
của Nhà nước và sự in dấu đậm nét của đời
sống chính trị đương đại, song việc thực hành
lễ hội, nhất là các nghi lễ quan trọng trong lễ
hội, vẫn hoàn toàn do cộng đồng làng thực
hiện. Lễ hội được tổ chức hồn tồn do kinh
phí của Nhà nước song chương trình tổ chức
lễ hội được Nhà nước và cộng đồng các làng
thống nhất thành lệ để thực hành. Lễ hội vẫn
được thực hành trong đúng khơng gian tín
ngưỡng của hai làng An Vĩnh và An Hải - vốn
là cộng đồng chủ nhân của lễ hội này từ trong
quá khứ. Lễ Khao lề thế lính Hồng Sa là một lễ
hội mang tính cộng đồng, thậm chí cịn mang
tính dịng họ do các chức dịch và các tộc họ
tiền hiền và hậu hiền tại hai làng An Vĩnh, An
Hải đứng ra tổ chức. Từ năm 2010 đến nay,
việc thực hành nghi lễ do nhiều thành phần
khác nhau đảm nhiệm, tuy nhiên, vai trị chính
trong việc tổ chức lễ Khao lề thế lính Hồng
Sa vẫn do chính bà con các tộc họ ở An Vĩnh,
An Hải đảm nhiệm. Các tộc họ trong làng lo

chuẩn bị lễ vật (đặc biệt là chuẩn bị thuyền
câu (có gắn buồm) mà các binh phu đi Hồng
Sa, Trường Sa thuở trước dùng đi biển, trong
mỗi thuyền có gắn hình nhân các binh phu đi
Hồng Sa) và thực hành các nghi thức lễ yết, lễ
chánh tế, lễ khao lề (cúng trong nhà) và lễ thế
lính (hay tế lính, cúng ngồi sân) cũng như hội
đua thuyền. Bằng cách đó, chủ thể của lễ Khao
lề thế lính Hồng Sa vẫn là bà con nhân dân Lý
Sơn tổ chức thực hiện, Nhà nước chỉ có vai trị
khuyến khích phục hồi, bảo tồn, hỗ trợ những
điều kiện cần thiết, như kinh phí, phương tiện
di chuyển cho đại biểu dự lễ, mời thêm các
30

Số 29 (Tháng 9 - 2019)

thành phần tham dự… Nhà nước chỉ hỗ trợ
kinh phí cho lễ Khao lề thế lính Hồng Sa tại
Âm Linh tự như một lễ thức riêng, còn lại, lễ
cúng thanh minh, cầu mùa từ trước đến nay
vẫn do dân làng tự đóng góp để tổ chức.
Thay lời kết
Qua các trường hợp cụ thể trên, chúng
ta có thể thấy rõ vai trị quan trọng của cộng
đồng trong suốt quá trình phục dựng và thực
hành lễ hội truyền thống. Khi Nhà nước can
thiệp quá sâu vào quá trình này sẽ đẩy cộng
đồng làng và những người dân làng từ chỗ
là chủ nhân của lễ hội, tham gia tự nguyện

và vô tư, trở thành những người làm thuê để
lấy tiền, dẫn đến làm mất đi sự đa dạng, tính
dân dã và bản sắc văn hóa địa phương, điều
mà lễ hội truyền thống đã bồi đắp từ bao đời
mới có được. Do vậy, xu hướng nhà nước hóa
việc phục dựng và thực hành lễ hội truyền
thống nói riêng, thực hành văn hóa nói chung
là rất nên tránh. Cơng ước UNESCO năm 2003
đã nhấn mạnh điều này: “Trong khuôn khổ
các hoạt động bảo vệ di sản văn hóa phi vật
thể, mỗi Quốc gia thành viên cần phải nỗ lực
để đảm bảo khả năng tham gia tối đa của
các cộng đồng, nhóm người và trong một số
trường hợp là các cá nhân đã sáng tạo, duy trì
và chuyển giao loại hình di sản này và cần phải
tích cực lơi kéo họ tham gia vào công tác quản
lý” [8, Điều 15].
Trong bức tranh phục dựng và thực hành
lễ hội hiện nay, cộng đồng làng giữ vai trò chủ
động hay bị động, hay kết hợp, chia sẻ phụ
thuộc vào từng cộng đồng làng và từng lễ hội
cụ thể. Tuy nhiên, chỉ khi vai trò của cộng đồng
làng được đảm bảo, cộng đồng chủ nhân của
lễ hội được tôn trọng và được chủ động với lễ
hội của họ, được thực hành lễ hội theo cách
mà họ cho là tốt nhất với họ, phù hợp nhất
với họ, thì khi đó lễ hội được phục dựng, được
thực hành mới có sức sống lâu bền trong đời
sống văn hóa của cộng đồng.



DI SẢN VĂN HĨA

Nhìn vào các lễ hội truyền thống đang
được thực hành hiện nay, chúng ta đã thấy
nhiều bài học thất bại từ việc lễ hội được tổ
chức không dựa trên nhu cầu và ước muốn
thực sự của cộng đồng làng, không huy động
được nguồn lực của cộng đồng làng và lễ hội
trở nên xa lạ với chính cộng đồng chủ nhân.
Muốn nâng cao vai trò của cộng đồng trong
phục dựng và thực hành lễ hội, có lẽ cần nhất
sự nhìn nhận bình đẳng giữa các cộng đồng,
khơng định kiến, không áp đặt, tôn trọng sự
khác biệt, sự đa dạng văn hóa của các cộng
đồng, từ đó tơn trọng sự lựa chọn khác nhau
của các cộng đồng và tôn trọng các thực hành
văn hóa của họ. Các cơ quan nhà nước, các
chương trình dự án hỗ trợ phát triển hay phục
dựng, bảo vệ phát huy các di sản văn hóa chỉ
nên tư vấn, giúp đỡ về vốn, về ý tưởng cơng
việc, về phương pháp ứng dụng,… cịn thực
thi thế nào, lựa chọn ra sao, phục dựng và thực
hành theo cách nào nên để cho cộng đồng tự
quyết. Có như vậy, năng lực của cộng đồng
mới được nâng cao, các giá trị văn hóa mới
được sáng tạo, làm giàu, lưu giữ và trở thành
nguồn lực quan trọng cho phát triển.

Tài liệu tham khảo

1. Nguyễn Chí Bền (chủ biên) (2010), Hội
Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc, Nxb. Thế giới,
Hà Nội.
2. Nguyễn Thị Hiền, Hoàng Cầm (2013), “Sáng
tạo truyền thống: nghiên cứu trường hợp Giỗ Tổ
Hùng Vương vào ngày mồng 10-3 âm lịch hàng
năm”, in trong Kỷ yếu hội thảo quốc tế Tín ngưỡng
thờ cúng tổ tiên trong xã hội đương đại (nghiên
cứu trường hợp thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam),
Nxb. Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Hiền (2014), “Bảo tồn di sản Hội
Gióng ở đền Phù Đổng và đền Sóc sau khi được
Unesco vinh danh”, in trong Kỷ yếu hội thảo quốc
tế 10 năm thực hiện cơng ước bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể của Unesco (bài học kinh nghiệm và
định hướng tương lai), Nxb. Khoa học và kỹ thuật,
Hà Nội.
4. Đinh Gia Khánh (1993), “Hội lễ dân gian
truyền thống trong thời hiện đại”, Văn hóa dân
gian, số 2.
5. Lê Hồng Lý (2008), Sự tác động của kinh tế
thị trường vào lễ hội tín ngưỡng, Nxb. Văn hóa Thơng tin & Viện Văn hóa, Hà Nội.
6. Ngơ Đức Thịnh (2001), “Những giá trị của lễ
hội cổ truyền trong đời sống xã hội hiện đại”, Văn
hóa nghệ thuật, số 3.

N.T.P.C

7. Ngơ Đức Thịnh (2007), Về tín ngưỡng và lễ
hội cổ truyền, Nxb. Văn hóa - Thơng tin & Viện Văn

hóa, Hà Nội.

(PGS.TS, Viện trưởng Viện Nghiên cứu văn hóa,
Viện Hàn lâm KHXHVN)

8. UNESCO (2003), Cơng ước bảo vệ di sản văn
hóa phi vật thể.

Chú thích
1
Ở bài viết này chúng tơi giới hạn phạm vi
quan tâm ở cộng đồng làng mà không phải là
các dạng cộng đồng khác và tương ứng với đó
các lễ hội truyền thống mà chúng tôi quan tâm
cũng là những lễ hội vốn là lễ hội làng.
2
Theo số liệu của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du
lịch năm 2018.
3
Khao lề thế lính: Làm lễ sống cho những
người đi biển khơng biết có về được hay khơng.
Nếu khơng về thì hơm đó là ngày giỗ của người
đi, vì khơng biết ngày chết của họ là ngày nào
nếu họ không về và cũng là thực hiện việc tế lễ
những người đã khuất trong những đợt đi trước.
Số 29 (Tháng 9 - 2019)

9. Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt
Nam (2013), Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên trong xã
hội đương đại (nghiên cứu trường hợp thờ cúng

Hùng Vương ở Việt Nam), Nxb. Văn hóa - Thơng
tin, Hà Nội.
Ngày nhận bài: 14 - 8 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 26 - 8 - 2019
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 9 - 2019

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

31



×