Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số trong xây dựng nông thôn mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.44 KB, 9 trang )

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

BẢO TỒN, PHÁT HUY GIÁ TRỊ VĂN HÓA
CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TRONG XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
CHỬ THỊ THU HÀ*

Tóm tắt
Mục tiêu xây dựng nơng thơn mới mà Đảng và Nhà nước ta đề ra thực chất là xây dựng các làng,
xã, ấp, bản có cuộc sống no đủ, văn minh, mơi trường văn hóa lành mạnh. Vì vậy, đi đơi với nâng cao
đời sống kinh tế - xã hội, việc nâng cao đời sống văn hóa tinh thần, bảo tồn và phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống có ý nghĩa rất quan trọng. Việt Nam là đất nước của 54 dân tộc, trong đó 53 dân tộc
thiểu số hầu hết sinh sống ở vùng nông thôn nơi biên viễn xa xôi của Tổ quốc. Vậy nên, bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa của các dân tộc thiểu số có vai trị vơ cùng quan trọng đối với công cuộc xây dựng
nông thôn mới nói riêng và trong sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam nói chung.
Từ khóa: Bảo tồn, phát huy, giá trị văn hóa, xây dựng nơng thơn mới, dân tộc thiểu số
Abstract
The goal of new rural development set by the Party and Government means building villages,
communes and hamlets with well-fed, civilized life and healthy cultural environment. Therefore, along
with improving the social and economic life, improving the cultural and spiritual life, preserving and
promoting the traditional cultural values are very important. Vietnam is a country with 54 ethnic
groups, of which 53 ethnic minorities live mostly in rural areas where are almost located at the remote
borders of the country. So preserving and promoting the cultural values of ethnic minorities plays an
extremely important role in the process of new rural development in particular and in the cause of
national development in Vietnam in general.
Keywords: Preservation, promotion, cultural values, new rural development, ethnic minorities

1. Sự cần thiết phải bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa của các dân tộc thiểu số trong xây
dựng nông thôn mới


N

ghị quyết số 26-NQ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khẳng
định: “Nơng nghiệp, nơng dân, nơng
thơn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, là cơ sở và lực lượng quan trọng để phát
triển kinh tế - xã hội bền vững, giữ vững ổn định
chính trị, đảm bảo an ninh, quốc phịng; giữ gìn,
phát huy bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi
trường sinh thái của đất nước” [2]. Xuất phát từ
nhận thức đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiệm vụ thực hiện Chương trình xây dựng
* TS., Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số, Trường ĐHVHHN

26

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

nông thôn mới nhằm phục vụ yêu cầu phát
triển của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Sẽ khơng có
một nước cơng nghiệp nếu nơng nghiệp và
nơng thơn cịn lạc hậu và đời sống nhân dân
còn thấp kém. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà Đảng
và Nhà nước ta hướng tới mãi chỉ là khẩu hiệu
nếu đời sống vật chất và tinh thần của già nửa
dân số của đất nước sống nơi nông thôn, vùng

sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo không được cải
thiện và nâng cao. Chính vì vậy, để Nghị quyết
số 26-NQ/TW của Đảng đi vào hiện thực, ngày
4/6/2010, Chương trình mục tiêu quốc gia về xây
dựng nông thôn mới đã được Thủ tướng Chính
phủ chính thức phê duyệt; cùng với đó, Bộ tiêu
chí quốc gia xây dựng nơng thơn mới với 19


DI SẢN VĂN HĨA

tiêu chí được ban hành. Mục tiêu hướng đến là
một nông thôn mới với đời sống kinh tế phát
triển, đời sống vật chất và tinh thần của cư dân
nông thôn được nâng cao; bộ mặt nông thôn
được xây dựng theo quy hoạch với cơ cấu hạ
tầng hiện đại, môi trường cảnh quan xanh sạch - đẹp; trật tự an ninh được giữ vững; dân
trí nâng cao; bản sắc văn hóa dân tộc được
giữ gìn và phát huy… Như vậy, nhìn một cách
tổng thể, Chương trình xây dựng nơng thơn
mới hướng đến mục tiêu cải thiện tồn diện
bộ mặt nông thôn Việt Nam để các vùng nông
thôn trên đất nước ta trở thành những miền
quê đáng sống, cả về đời sống vật chất và
hưởng thụ tinh thần.
Đi đôi với việc nâng cao đời sống kinh tế
xã hội, việc nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa
truyền thống trong cơng cuộc xây dựng nơng
thơn mới có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy, xây

dựng văn hóa nơng thơn cần được xác định là
trọng tâm của q trình xây dựng nơng thơn
mới. Xây dựng văn hóa nơng thơn mới chính là
góp phần xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước trong thời kỳ hội nhập.
Văn hóa Việt Nam là nền văn hóa của 54
dân tộc cùng chung sống trên dải đất hình
chữ S. Đặc trưng của văn hóa Việt Nam chính
là sự thống nhất trong đa dạng các sắc màu
văn hóa của 54 dân tộc, trong đó khơng thể
khơng nói tới những giá trị văn hóa độc đáo
của 53 dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Giá trị văn
hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số có
thể ví như những sợi chỉ màu lấp lánh cùng
dệt nên tấm thảm rực rỡ của nền văn hóa Việt
Nam. Và hơn thế, bản sắc văn hóa của các dân
tộc thiểu số cịn tạo nên sức hấp dẫn lạ kỳ cho
du khách quốc tế khi đặt chân đến Việt Nam.
Chính vì vậy, giữ gìn và phát huy bản sắc văn
hóa của các dân tộc thiểu số trong xây dựng
nông thôn mới không chỉ là giữ gìn hồn cốt
cho các bản làng vùng nơng thơn miền núi nói
riêng và cho đất nước nói chung, mà cịn góp
phần quan trọng làm thay đổi tình hình kinh
tế - xã hội của các địa phương, nâng cao thu
nhập cho người dân nếu chính quyền và cộng
đồng biết khai thác hiệu quả giá trị văn hóa
truyền thống của đồng bào các dân tộc.
Số 32 (Tháng 6 - 2020)


2. Thực trạng bảo tồn, phát huy giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số trong phong trào
xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 2020
Để thực hiện xây dựng đời sống văn hóa
nơng thơn mới, trong đó giá trị, bản sắc văn
hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc
thiểu số được bảo tồn và phát triển, thời gian
qua, Đảng và Nhà nước ta thể hiện sự quan
tâm sâu sắc tới với đề này. Ngày 6/5/2009, Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 581/
QĐ-TTg về việc phê duyệt Chiến lược phát triển
văn hóa đến năm 2020, trong đó, xác định một
trong những mục tiêu quan trọng là: Tiếp tục
đẩy mạnh công tác bảo tồn, kế thừa và phát huy
các giá trị tốt đẹp của văn hóa dân tộc, vừa phát
huy mạnh mẽ tính đa dạng, bản sắc độc đáo
của văn hóa các dân tộc anh em, vừa kiên trì
củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa
dạng của văn hóa Việt Nam, tập trung xây dựng
những giá trị văn hóa mới, đi đơi với việc mở
rộng và chủ động trong giao lưu quốc tế, tiếp
nhận có chọn lọc tinh hoa văn hóa thế giới, làm
phong phú thêm nền văn hóa dân tộc, bắt kịp
sự phát triển của thời đại. Tiếp đó, nhiều đề án
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt như: “Đề
án Bảo tồn, phát triển văn hóa các dân tộc thiểu
số Việt Nam đến năm 2020” (theo Quyết định số
1270/QĐ-TTg ngày 27/7/2011); “Đề án bảo tồn,
phát huy giá trị tác phẩm văn học, nghệ thuật các

dân tộc thiểu số Việt Nam” (theo Quyết định số
1558/QĐ-TTg ngày 5/8/2016); “Đề án kiểm kê,
sưu tầm, bảo quản, trưng bày, tuyên truyền di sản
văn hóa truyền thống điển hình của các dân tộc
thiểu số Việt Nam giai đoạn 2017 - 2020” (theo
Quyết định số 2493/QĐ-TTg ngày 22/12/2016);
Quyết định số 18/2011/QĐ-TTg ngày 18/3/2011
của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với
người có uy tín trong đồng bào dân tộc thiểu
số,… nhằm hướng đến mục tiêu bảo tồn, phát
huy bản sắc văn hóa truyền thống của các dân
tộc thiểu số trong bối cảnh hiện nay.
Là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức
năng quản lý nhà nước về cơng tác văn hóa,
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (VHTTDL) cũng
đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn các địa
phương trong công tác xây dựng đời sống văn
hóa ở cơ sở. Ngày 21/1/2011, Bộ VHTTDL ban

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

27


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

hành Thơng tư số 04/2011/BVHTTDL quy định
về việc thực hiện nếp sống văn minh trong

việc cưới, việc tang, lễ hội; ngày 18/1/2019 Bộ
trưởng Bộ VHTTDL ra Quyết định số 209/QĐBVHTTDL phê duyệt Đề án Bảo tồn, phát huy
trang phục truyền thống các dân tộc thiểu số Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay. Các địa phương
trong cả nước cũng kịp thời xây dựng, ban
hành văn bản hướng dẫn, chỉ đạo, triển khai
thực hiện tiêu chí 06 (về cơ sở vật chất văn hóa)
và tiêu chí 16 (về văn hóa) trên địa bàn quản
lý. Công tác tuyên truyền được tăng cường với
nhiều hình thức phong phú, đa dạng, các giải
pháp bảo tồn, phát huy văn hóa truyền thống
được triển khai; từ đó tác động đến nhận thức
của các cấp ủy Đảng, chính quyền, ban ngành,
đồn thể và mọi tầng lớp nhân dân về trách
nhiệm, nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa
nơng thơn mới phong phú, lành mạnh; giữ
gìn, phát huy những tinh hoa văn hóa dân tộc
trong cuộc sống hiện nay. Nhiều nét đẹp văn
hóa dân tộc trong thời gian qua được phục hồi
và phát huy.
Tính từ thời điểm Thủ tướng Chính phủ ban
hành Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới vào năm 2010 cho đến nay,
Chương trình đã đi được 2 chặng đường (giai
đoạn 2010 - 2016 và giai đoạn 2016 - 2020).
Trải qua chặng đường 10 năm, phong trào
“Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”
đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp các địa phương
trên cả nước, tạo ra nhiều thay đổi tích cực đối
với diện mạo vùng nông thôn, đặc biệt là vùng

đồng bào dân tộc thiểu số. Riêng đối với tiêu
chí văn hóa gắn với xây dựng nơng thơn mới,
theo đánh giá của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn [4], kết quả của phong trào đã
tạo dựng môi trường văn hóa lành mạnh, đa
màu sắc trong đời sống văn hóa tinh thần của
người dân nơng thơn, góp phần gìn giữ, bảo
tồn bản sắc văn hóa dân tộc. Các địa phương
đã quan tâm hơn đến nâng cao hiệu quả hoạt
động của các thiết chế văn hóa cơ sở1 hoặc
theo mơ hình xã hội hóa các khu trung tâm thể
thao - giải trí2; hoặc theo hướng giao cho cộng
đồng quản lý, vận hành. Một số địa phương
đã tổ chức các tuyến du lịch trải nghiệm làng
quê nông thôn mới gắn với giữ gìn văn hóa
28

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

truyền thống. Nhiều lễ hội truyền thống lành
mạnh được phục hồi, góp phần gìn giữ, phát
huy bản sắc văn hóa dân tộc, đồng thời gắn
kết mối quan hệ cộng đồng, bảo vệ bản làng,
bảo vệ rừng và các tài nguyên thiên nhiên
của đất nước. Các trò chơi dân gian như ném
còn, ném pao, đánh yến, đẩy gậy, kéo co, đi cà
kheo, đi xe cút kít, chơi quay,… được các địa
phương đưa vào thành nội dung thi đấu trong
các hội thao, hội diễn các cấp và trở thành
mơn ngoại khóa trong nhiều trường học. Các

câu lạc bộ (CLB) văn nghệ như hát then, đàn
tính, hát dân ca,… được thành lập tới cấp xã,
thôn như: CLB hát then - đàn tính của dân tộc
Tày, Nùng; hát Soong cộ của dân tộc Sán Dìu;
hát Sình của người Cao Lan; hát Páo Dung của
dân tộc Dao, múa khèn của người Hmơng, xịe
của dân tộc Thái; sơang, cồng chiêng của các
dân tộc Tây Nguyên; nhạc ngũ âm của người
Khmer; múa Lăm vông của người Lào,… được
thành lập ở nhiều địa phương đã thu hút mọi
lứa tuổi, giới tính tham gia. Các nghề thủ công
truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu số
cũng được khuyến khích khơi phục vừa giúp
bảo tồn vốn tri thức tộc người, vừa góp phần
tăng thu nhập, tạo công ăn việc làm cho người
dân để họ gắn bó lâu dài với quê hương, xứ sở.
Theo tư liệu điền dã của tác giả bài viết tại
xã Ba Vì, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội - nơi có
98% dân số là người Dao Quần chẹt sinh sống,
từ khi địa phương triển khai chương trình xây
dựng nơng thôn mới, không chỉ bộ mặt trụ sở
UBND xã Ba Vì và diện mạo cảnh quan 3 thơn
người Dao (Hợp Nhất, Hợp Sơn, Yên Sơn) đều
thay đổi khang trang, sạch đẹp, mà nhiều bản
sắc văn hóa truyền thống của người Dao nơi
đây cũng được khơi phục, gìn giữ như: Lễ cầu
bình an (niêu dụ nhắt), lễ tạ ơn (bủa phẳn chiu),
lễ cúng mụ (xíp pèng miến), lễ cúng vía (chua
vần), lễ sinh nhật (xuốt xiển hoi), hôn nhân
theo phong tục người Dao (chìn cha), đám

tang (phủng kèn tạy/bùa địi), lễ cấp sắc (chẩu
đàng), tết nhảy (nhiàng chầm đao), tiếng nói,
trang phục, nghề thuốc nam truyền thống...
Để thực hiện xây dựng nơng thơn mới, xây
dựng đời sống văn hóa mới, chủ trương bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa truyền thống
được đưa vào Nghị quyết của Đảng ủy xã Ba Vì


DI SẢN VĂN HÓA

và vào nội dung các cuộc họp thơn, xã; các tổ
chức chính trị - xã hội như Hội phụ nữ, Đồn
thanh niên,... đang tìm biện pháp để tiếp tục
tuyên truyền hiệu quả đối với người dân trong
việc khơi phục và phát huy bản sắc văn hóa
truyền thống. Hội người cao tuổi động viên
hội viên mặc trang phục truyền thống khi đi
họp. Một số dòng họ người Dao nhắc nhở con
cháu mặc trang phục truyền thống trong các
ngày lễ của dịng họ… Cho đến nay, dù xã Ba
Vì chưa hồn thành được 19 tiêu chí trong xây
dựng nơng thôn mới và mặc dù đang sống tại
một địa bàn chịu tác động mạnh mẽ của q
trình đơ thị hóa, nhưng cộng đồng người Dao
nơi đây ngày càng có ý thức trong việc bảo tồn
văn hóa tộc người.
Những biểu hiện đáng mừng trên không
phải là duy nhất đối với cộng đồng người dân
tộc thiểu số ở thành phố Hà Nội, mà còn phổ

biến ở nhiều địa phương trong cả nước. Mọi
cấp chính quyền từ tỉnh đến xã, thơn đều nhận
thức được tầm quan trọng của việc bảo tồn,
phát huy giá trị văn hóa truyền thống các dân
tộc thiểu số. Chính vì vậy, nhiều di sản văn hóa
q báu của đồng bào có điều kiện được tơn
vinh, nhân rộng trong cộng đồng. Tiêu biểu
như huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh với trên
96% dân số là đồng bào dân tộc, nơi đây, sau
gần 10 năm triển khai Chương trình xây dựng
nơng thơn mới, một đời sống văn hóa nơng
thơn đậm đà bản sắc văn hóa của các dân tộc
anh em sinh sống trên địa bàn huyện ngày
thêm khởi sắc. Nhiều môn thể thao, trò chơi
dân gian của đồng bào các dân tộc trong toàn
huyện được quan tâm phục hồi. Các CLB văn
nghệ được thành lập tại 8/8 xã, thị trấn trong
toàn huyện, trong đó chú trọng nội dung sinh
hoạt là truyền dạy các làn điệu dân ca đặc
trưng. Ủy ban nhân dân huyện Bình Liêu có
chính sách hỗ trợ hàng năm cho mỗi CLB văn
nghệ cấp xã là 30 triệu để đảm bảo cho hoạt
động tập luyện, biểu diễn, giao lưu. Các lễ hội
truyền thống (hội đình Lục Nà, hội tháng Ba,
hội Kiêng gió) và lễ hội mới hình thành (hội
hoa Sở) được tổ chức đúng quy định; phù hợp
với thuần phong mỹ tục địa phương; phần hội
diễn ra phong phú, hấp dẫn nhờ việc khai thác
các trò chơi, dân nhạc, dân vũ đặc trưng của
Số 32 (Tháng 6 - 2020)


cộng đồng các dân tộc, đã tạo được sức lan
tỏa, lôi cuốn, góp phần thu hút đơng đảo nhân
dân và du khách tham gia [9, tr.131-132].
Đó là một số minh chứng cho thấy sự nỗ
lực của các địa phương trong công cuộc bảo
tồn, phát huy các giá trị văn hóa tộc người, xây
dựng đời sống văn hóa nơng thơn mới, từng
bước đưa văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần của xã hội, góp phần xây dựng một
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc theo tinh thần của Nghị quyết
Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII).
Tuy vậy, cơng cuộc xây dựng văn hóa nơng
thơn mới, đặc biệt, sự nghiệp bảo tồn, phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống cũng gặp
những thách thức không nhỏ. Sự biến đổi và
mai một bản sắc văn hóa đang là nguy cơ đối
với nhiều tộc người, kể cả những tộc người cư
trú nơi vùng biên viễn xa xơi của tổ quốc như
huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng Ninh. Đồng bào
các dân tộc thiểu số nơi đây đã và đang chịu
tác động của kinh tế thị trường, của tồn cầu
hóa và hội nhập quốc tế nên nhiều giá trị văn
hóa truyền thống bị biến đổi nhanh chóng.
Điều dễ nhận thấy nhất là sự thay đổi về kiến
trúc nhà ở truyền thống của đồng bào. Những
ngôi nhà gạch đất của người Tày, người Sán
Chỉ, nhà trình tường của người Dao đã tồn tại

từ nhiều đời nay trở nên khơng đạt tiêu chuẩn
theo tiêu chí về nhà ở. Có thể nói, nhà ở dân cư
là một trong những tiêu chí khó đối với nhiều
địa phương, đặc biệt là các xã có nhiều đồng
bào dân tộc ở các thơn bản miền núi như Bình
Liêu. Nhiều gia đình có tâm lý ỷ lại sự hỗ trợ
của nhà nước; những ngôi nhà truyền thống
không được tôn tạo, tu sửa mà bị phá đi xây
bằng gạch bê tơng, khơng có mẫu thiết kế đặc
thù. Điều đó làm mất đi nét đặc trưng văn hóa
về kiến trúc nhà ở truyền thống trên địa bàn
huyện. Đi đến các thơn bản, dù là những nơi
có 100% đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống,
nhưng nếu không được giới thiệu thì khó có
thể phát hiện ra đó là thôn/bản của người Dao,
người Tày hay người Sán Chỉ vì nét đặc trưng
văn hóa về nhà ở của từng dân tộc đã khơng
cịn. Cùng với sự biến đổi của ngôi nhà truyền
thống là sự biến đổi tập quán trong sinh hoạt

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

29


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

như: cách chế biến thức ăn, tổ chức bữa ăn

trong nhà bếp, cách bảo quản hạt giống và
lương thực, thực phẩm... Một số tập quán tốt
đẹp trước kia nay đã mất, như các sinh hoạt
bên bếp lửa: hát then, kể chuyện cổ tích... Vai
trị của già làng, trưởng bản trong việc trao
truyền các giá trị văn hóa khơng cịn thấy rõ
nét khi thực hiện nhất thể hóa chức danh Bí
thư chi bộ đồng thời là trưởng thơn/bản. Việc
tìm một người đủ tiêu chuẩn vừa là bí thư chi
bộ, trưởng bản, vừa nắm vững phong tục,
tập quán và các giá trị văn hóa truyền thống
của cộng đồng vẫn cịn gặp nhiều hạn chế [9,
tr.131-132].
Một biểu hiện biến đổi và mai một văn hóa
truyền thống rõ nét mà nhiều địa phương,
nhiều tộc người đang gặp phải, đó là trang
phục truyền thống. Dù trang phục truyền
thống ngày càng được người dân ý thức rõ
hơn về vai trò trong nhận diện bản sắc tộc
người; được người dân mặc nhiều hơn trong
những ngày lễ tết truyền thống, nhưng nguy
cơ biến đổi, thậm chí mai một bản sắc đối với
trang phục truyền thống vẫn đang diễn ra. Sự
biến đổi được thể hiện trong quá trình làm ra
bộ trang phục truyền thống, trong kiểu dáng
và cách trang trí trang phục. Đặc biệt, một
số dân tộc quá ít người với dân số chưa đến
1.000 người như Rơ Măm, Ơ Đu, Thổ, Chứt,...
khơng thấy bóng dáng của trang phục truyền
thống [10, tr.52]. Chia sẻ về những khó khăn

gặp phải trong việc sưu tầm trang phục truyền
thống của người Dao Quần Chẹt, ơng Lê Khắc
Nhu - Trưởng phịng Dân tộc huyện Ba Vì cho
biết: “Chúng tơi đặt một bà thợ thêu ở thôn Yên
Sơn làm bộ quần áo xưa của nam giới Dao, khi
đến lấy thì phàn nàn rằng chiếc cổ áo này phải
là cổ đứng, hình trịn, nhưng bà nói áo của đàn
ơng Dao Ba Vì vẫn mặc như vậy. Chúng tôi muốn
lưu giữ chiếc quần xưa của đàn ơng Dao nhưng
chẳng ai cịn. Chúng tơi phải vào tận Huế, đặt
người ta làm chiếc quần vải tấm trắng, may kiểu
chân què, cạp lá tọa” [Tài liệu PVS, 2014]. Chiếc
quần chẹt nữ của người Dao ở Ba Vì nay được
may cải tiến theo kiểu bổ đũng nên khoảng
cách hai ống thu hẹp lại chỉ khoảng 900, giống
như chiếc quần “ngố” của thanh niên hiện nay.
30

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

Váy của một số thầy cúng chỉ khâu ghép bởi
4 đến 5 mảnh vải thay vì 7 mảnh tượng trưng
cho 7 thánh sư như trước kia... Ở nhiều địa
phương như Thái Nguyên, Điện Biên, Lai Châu,
Sơn La, Quảng Trị, Kon Tum, Phú Yên,... đều có
chung thực trạng nhiều bộ trang phục sản
xuất ra được cải biên khác xa với trang phục
truyền thống về chất liệu, màu sắc, cách thức
cắt may. Hình ảnh các đồ vật thời hiện đại
cũng đã xuất hiện trên các môtip hoa văn của

trang phục dân tộc Bru - Vân Kiều và Pa Cô ở
Quảng Trị như máy bay, tên lửa, cây cột điện...
[11, tr.111]. Việc sử dụng trang phục lại càng
biến đổi. Hiện nay, rất nhiều tộc người thiểu
số ở các địa phương trong cả nước đều mặc
trang phục hàng ngày theo kiểu Âu hóa như
người Kinh. Họ chỉ mặc trang phục truyền
thống trong các dịp lễ tết theo phong tục của
cộng đồng, nhưng thường thêm hoặc bớt đi
một vài thành tố. Tuy nhiên, sự biến đổi và mai
một cần lưu tâm hơn hết đó là một bộ phận
không nhỏ người dân, nhất là lớp trẻ khơng
thích mặc quần áo truyền thống, thậm chí
cảm thấy không tự tin khi mặc quần áo truyền
thống để tiếp xúc với người khác tộc. Đơn cử
như trong đám cưới hỗn hợp dân tộc, đặc biệt
với người Kinh, khi đi đón dâu hoặc đưa dâu về
nhà thơng gia người Kinh, người Dao ở Ba Vì
thường khơng mặc trang phục truyền thống
mà mặc quần áo Âu hoá hoặc áo dài của người
Kinh. Theo họ, đến cộng đồng người Kinh nên
mặc áo dài cho tiện giao tiếp với người Kinh;
mặc quần áo Dao sẽ khơng phù hợp, khơng
thích khách khứa của thơng gia người Kinh
nhìn bằng con mắt khác lạ. Tình trạng này
diễn ra phổ biến ở nhiều dân tộc khác, chẳng
hạn như dân tộc Tà Ôi/PaKo và Bru - Vân Kiều
ở Quảng Trị, “trong ngày cưới, chúng ta khơng
cịn thấy cơ dâu, chú rể khốc trên mình những
bộ trang phục truyền thống mang đậm bản

sắc của dân tộc mà thay vào đó là những bộ
comple, váy nhiều tầng, đi giày da như người
Việt... Điều này, vơ hình trung chính các thanh,
thiếu niên này đang giấu đi nguồn gốc dân tộc
mình bằng việc ăn mặc theo những mốt quần
áo hiện đại đang thịnh hành ở giới trẻ trong cả
nước, ứng xử theo lối của người Kinh, nói tiếng
phổ thơng (tiếng Việt), thậm chí một số người


DI SẢN VĂN HĨA

cịn quan niệm càng “Kinh hóa” bao nhiêu thì
càng hiện đại bấy nhiêu” [11, tr.111].
Nguy cơ biến đổi, mai một không chỉ biểu
hiện ở các thành tố văn hóa vật chất mà cịn
hiện diện trong các thành tố văn hóa tinh
thần. Sự suy giảm ngơn ngữ mẹ đẻ của nhiều
tộc người thiểu số ở nước ta hiện nay đang
ở mức báo động. Dưới tác động của công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và quan hệ dân tộc,
việc giao lưu, tiếp xúc ngôn ngữ và sử dụng
những ngôn ngữ có ưu thế trong đời sống
chính trị, kinh tế, xã hội ngày càng trở nên phổ
biến. Trong bối cảnh đó, ngơn ngữ tộc người,
nhất là những tộc người có dân số ít dễ rơi
vào tình trạng yếu thế và có nguy cơ bị tiêu
vong. Hiện nay, ngôn ngữ Phù lá, Pà Thẻn, Lơ
lơ, Bố y đang thuộc nhóm các ngơn ngữ suy
yếu với số lượng người nói chỉ vài nghìn hoặc

hơn nghìn người và đang chịu áp lực mạnh
của các ngôn ngữ trong vùng như tiếng Thái,
tiếng Tày, tiếng Hmông. Ngôn ngữ của người
Cống, Sila, Rơmăm, Brâu, Pu Péo thuộc nhóm
các ngơn ngữ nguy cấp với số người sử dụng
chỉ trên vài nghìn người và có xu hướng bị mất
ở thế hệ trẻ. Và có những ngơn ngữ hầu như đã
chết như tiếng Clao (Tung Xán, Hồng Su Phì,
Hà Giang), tiếng Tống (Yên Sơn, Tuyên Quang),
tiếng Thủy (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), tiếng Ơ
đu (huyện Con Cuông và huyện Tương Dương,
Nghệ An), tiếng Tu Dí (Mường Khương, Lào
Cai). Trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hóa
hiện nay, thực trạng đáng báo động này sẽ
tiếp tục diễn ra và có thể đẩy nhanh các ngôn
ngữ suy yếu đến sự tiêu vong. Đây là một điều
đáng tiếc, bởi đối với một dân tộc, mất tiếng
mẹ đẻ ngang với mất linh hồn.
Là một sinh hoạt văn hóa tinh thần khơng
thể thiếu trong đời sống nhân dân, lễ hội
truyền thống của đồng bào các dân tộc thiểu
số đang được nhiều địa phương chú trọng
khôi phục, gìn giữ và phát triển nhằm tạo ra
đời sống tinh thần phong phú cho người dân
và tăng sức hấp dẫn cho du lịch địa phương.
Tuy nhiên, dưới tác động của giao lưu, hội
nhập, lễ hội truyền thống của các tộc người
thiểu số cũng đang có sự biến đổi theo hướng
mở rộng về quy mô tổ chức từ cấp thôn/
Số 32 (Tháng 6 - 2020)


bản thành lễ hội cấp xã/huyện/tỉnh/vùng. Sự
biến đổi này khiến nhiều lễ hội khơng cịn là
của riêng một dân tộc cụ thể mà có sự tham
gia của nhiều tộc người quanh vùng, của du
khách thập phương. Vì vậy, tính chất của lễ hội,
khơng gian thiêng của lễ hội phần nào bị ảnh
hưởng bởi sự can thiệp sâu của chính quyền
địa phương, của truyền thơng, thị hiếu của
du khách... Bên cạnh đó, hiện tượng “Kinh hóa”
lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc
thiểu số không phải là hiếm. Địa phương này
bắt chước địa phương kia dẫn đến kịch bản lễ
hội của vùng này, dân tộc này na ná giống với
vùng khác, dân tộc khác. Một số cuộc thi đương
đại như thi ẩm thực, thi trang phục, thi người
đẹp,… được đưa vào các lễ hội truyền thống
mang yếu tố trình diễn chứ khơng phải là lễ hội
tự nhiên vốn có. Sự biến đổi này phần nào làm
mất đi nét đặc trưng văn hóa trong lễ hội của
từng tộc người, từng vùng miền.
Xây dựng đời sống văn hóa nơng thơn mới
là xây dựng đời sống văn hóa lành mạnh, tích
cực, đậm bản sắc dân tộc. Trong xây dựng
đời sống văn hóa mới cho đồng bào dân tộc
thiểu số, việc chú trọng gìn giữ các hình thức
tín ngưỡng dân gian là vô cùng quan trọng.
Bởi mọi phong tục, lễ thức của đồng bào như
các nghi lễ trong chu kỳ đời người, các lễ thức
trong năm,… đều gắn với tín ngưỡng, và có

thể nói, đời sống tín ngưỡng chi phối hầu hết
mọi lĩnh vực văn hóa tinh thần của tộc người.
Để xây dựng đời sống văn hóa nơng thơn mới
đậm đà bản sắc dân tộc, nhiều địa phương
trong thời gian qua đã khuyến khích, tạo điều
kiện cho các hình thức tín ngưỡng dân gian
của đồng bào các dân tộc thiểu số phát triển.
Tuy vậy, trong xu thế phát triển của đời sống
tâm linh không tránh khỏi những hiện tượng
tiêu cực như mê tín dị đoan, thương mại hóa
đời sống tâm linh với những biểu hiện cụ thể
như xem bói, giải hạn, nhập hồn, đốt vàng mã
tràn lan… Nguy hại hơn, lợi dụng chính sách tự
do tín ngưỡng tơn giáo của Đảng và Nhà nước
ta, nhiều tôn giáo mới, giáo phái lạ lành ít dữ
nhiều đã xuất hiện và len lỏi tới các xóm làng,
thơn bản vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Sự
khác biệt trong giáo lý và sinh hoạt tơn giáo đã

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

31


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

tác động khơng nhỏ làm thay đổi lối sống và
các mối quan hệ trong gia đình, dịng họ, cộng

đồng. Những tín đồ theo đạo đã bỏ đi nhiều
phong tục tập quán truyền thống tốt đẹp của
tộc người mình, làm nảy sinh mâu thuẫn trong
gia đình, dịng họ; thậm chí gây ra điểm nóng
về an ninh chính trị cho địa phương.
Như vậy, trong 10 năm qua, các địa phương
trên cả nước đều tích cực triển khai xây dựng
nơng thơn mới theo Bộ tiêu chí được Chính phủ
ban hành nhằm kiến tạo bộ mặt nông thôn văn
minh, sạch đẹp, hạ tầng hiện đại nhằm đáp ứng
yêu cầu của sự phát triển đất nước trong thời kỳ
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong xây dựng
nơng thơn mới, xây dựng đời sống văn hóa cho
cư dân nơng thơn được coi là nền tảng tinh
thần, là động lực cho sự phát triển kinh tế xã hội
của mỗi địa phương. Bảo tồn, phát huy giá trị
văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc
ln được đề cao bởi đó là hồn cốt, là bản sắc
của mỗi làng quê Việt Nam. Thời gian qua, cơng
tác bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc
thiểu số trong xây dựng nông thôn mới đã đạt
được nhiều thành tựu quan trọng, nhưng vẫn
còn một số hạn chế, bất cập cần giải quyết để
việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa truyền
thống thực sự hiệu quả trong thời gian tới.
3. Một số vấn đề đặt ra đối với bảo tồn, phát
huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số gắn với
xây dựng nơng thôn mới trong thời gian tới
Một vấn đề phổ biến hiện nay là sự biến
đổi văn hóa đã và đang diễn ra mạnh mẽ ở

hầu hết các tộc người trên đất nước ta. Văn
hóa truyền thống của các tộc người biến đổi
dưới tác động của sự thay đổi môi trường tự
nhiên, kinh tế - xã hội, trong đó có sự lựa chọn
thay đổi của chính các chủ thể văn hóa. Biến
đổi là cần thiết, nó giúp cho các tộc người
thiểu số thích ứng với mơi trường sống mới,
thốt khỏi đói nghèo, lạc hậu để phát triển và
hội nhập. Tuy nhiên, nếu biến đổi theo hướng
phai nhạt dần bản sắc riêng, biến đổi theo
hướng hịa lẫn với văn hóa của các tộc người
láng giềng thì điều đó thật đáng tiếc đối với
chính tộc người và đối với quốc gia dân tộc
bởi đất nước mất đi những tài sản văn hóa vơ
giá khơng gì bù đắp được.
32

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

Rõ ràng, trong tiêu chí xây dựng nơng thơn
mới có nội dung phải giữ gìn và phát huy bản
sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, muốn bảo tồn
và phát huy hiệu quả thì trước hết cần phải xác
định được các giá trị văn hố nào được coi là
tốt đẹp, cịn phù hợp với thời đại. Đi đôi với
việc bảo tồn cũng cần loại bỏ những yếu tố
văn hóa khơng phù hợp với thuần phong mỹ
tục, làm hạn chế sự phát triển chung của tộc
người. Ngoài ra, cũng cần quan tâm đến việc
tiếp thu những yếu tố văn hóa mới phù hợp

với sự phát triển chung của đất nước, của thời
đại. Chính vì vậy, việc nhận diện các yếu tố
văn hóa nào là tích cực để bảo tồn, phát huy;
những yếu tố nào là lỗi thời khơng cịn phù
hợp với điều kiện mới là một vấn đề cần đặt
ra đối với các cấp chính quyền, các nhà quản
lý văn hóa và cộng đồng tộc người trong quá
trình xây dựng đời sống văn hóa nơng thơn
mới. Bởi, nếu nhận diện đúng, thì tài sản văn
hóa dân tộc khơng những được gìn giữ mà cịn
ngày càng giàu có hơn; nhưng nếu nhận diện
sai thì hậu quả vô cùng tai hại, chúng ta sẽ mất
đi những di sản văn hóa q báu mà cha ơng
đã dày công tạo dựng. Bài học sâu sắc về một
giai đoạn trước đổi mới, do nhìn nhận sai về
các loại hình tín ngưỡng của các dân tộc vì cho
là hoạt động mê tín dị đoan, phản văn hóa,
cản trở đến việc xây dựng đời sống văn hóa xã
hội chủ nghĩa, nên nhiều loại hình tín ngưỡng
dân gian của cả người Kinh và người dân tộc
thiểu số bị hạn chế, thậm chí cấm đốn. Kết
quả đã làm nghèo, thui chột đi nhiều loại hình
tín ngưỡng dân gian, mà kéo theo đó là những
sinh hoạt cộng đồng, nghệ thuật diễn xướng
vô cùng quý giá.
Vấn đề thứ hai đặt ra là xác định phải làm
gì để bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống.
Bảo tồn khơng có nghĩa phải giữ ngun vẹn
cái truyền thống. Bảo tồn cần gắn với phát
triển, bảo tồn đi liền với phát huy. Phát huy giá

trị văn hóa nghĩa là làm cho những tinh hoa
của nền văn hóa tộc người được nảy nở, phát
triển cả bề rộng và chiều sâu trong môi trường
sống của tộc người ở xã hội đương đại. Vì vậy,
biến đổi văn hóa khơng mâu thuẫn với bảo
tồn và phát huy bản sắc văn hóa của tộc người
nếu có chiến lược và giải pháp hữu hiệu gắn


DI SẢN VĂN HÓA

với sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương và gắn với lợi ích của tộc người. Trong
q trình xây dựng nơng thơn mới, việc bảo
tồn, phát huy giá trị văn hóa gắn với phát triển
kinh tế - xã hội đã được triển khai ở tất cả các
địa phương trong cả nước, nhưng trong thực
tế có địa phương làm tốt, cũng có nơi làm chưa
tốt, thậm chí chưa đúng định hướng hoặc rập
khn theo một mô thức chung dẫn đến mất
cái riêng, cái đặc trưng về bản sắc văn hóa của
từng vùng miền.
Thời gian qua, có nhiều giải pháp được các
nhà quản lý, nhà nghiên cứu đưa ra nhằm thực
hiện hiệu quả công tác bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa truyền thống của các tộc
người thiểu số như: giải pháp về tuyên truyền,
vận động; về cơ chế, chính sách; về đào tạo,
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đặc biệt
cán bộ văn hóa cấp cơ sở; về đẩy mạnh cơng

tác nghiên cứu, sưu tầm các giá trị văn hóa
truyền thống; về tăng cường môi trường sống
cho các thực hành văn hóa truyền thống... Các
giải pháp nêu ra rất quan trọng và cần thiết.
Tuy nhiên, quan trọng hơn hết là làm sao để
nâng cao ý thức, trách nhiệm, sự chung tay
góp sức của cả cộng đồng đối với công tác
bảo tồn, phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc
trong xây dựng nông thôn mới. Tôn trọng sự
quyết định, động viên sự tham gia của chủ thể
văn hóa là rất cần thiết bởi họ chính là người
sáng tạo, thực hành, thụ hưởng nền văn hóa,
và xây dựng nơng thơn mới kết quả cuối cùng
chính là phục vụ lợi ích của nhân dân. Vì vậy,
vấn đề nữa cần đặt ra là làm sao lôi kéo được
sức dân trong xây dựng nông thôn mới và mấu
chốt là phải xây dựng con người văn hóa theo
tinh thần Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9,
khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con
người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển
bền vững đất nước.
Hịa cùng xu thế cả nước đang đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập
quốc tế sâu rộng, các vùng nông thôn Việt Nam
đang được xây dựng, chỉnh trang tồn diện để
xây dựng nơng thơn mới bắt kịp sự phát triển
của thời đại và trở thành những miền q
“đáng sống”. Vì vậy, bên cạnh các tiêu chí cần
đạt được về cơ sở vật chất, đời sống kinh tế - xã
Số 32 (Tháng 6 - 2020)


hội thì bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân
tộc trong phong trào xây dựng nơng thơn mới
có vai trị quan trọng như là mạch nguồn để
giữ gìn bản sắc, như cội rễ để đảm bảo sự phát
triển bền vững. Phát huy tính sáng tạo và vai
trị của người dân nơng thơn trong phong trào
xây dựng nơng thơn mới chính là chìa khóa
của sự thành cơng để nơng thơn mới thật sự
“của dân, do dân, vì dân”.
Thay lời kết
Trong 10 năm thực hiện xây dựng đời sống
văn hóa nơng thơn mới, với 2 trên 19 tiêu chí
(tiêu chí thứ 6 về cơ sở vật chất văn hóa và tiêu
chí 16 về văn hóa) đã bao qt khá tồn diện
mọi lĩnh vực đời sống văn hóa của nơng thơn
mới từ u cầu đạt chuẩn về cơ sở hạ tầng như
xây mới các thiết chế văn hóa, sử dụng cơ sở
vật chất văn hóa nhằm củng cố và phát triển
hệ thống thiết chế văn hóa cơ sở; cho đến yêu
cầu đạt chuẩn các nội dung mềm của đời sống
văn hóa, biểu hiện trong các phong trào cụ thể
về xây dựng “gia đình văn hóa”, “thơn văn hóa”,
“làng văn hóa”, “bản văn hóa”, “tổ dân phố văn
hóa”, “khu dân cư văn hóa”…
Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc
chỉ là một nội dung nhỏ nằm trong tiêu chuẩn
xây dựng đời sống văn hóa tinh thần lành
mạnh, phong phú, thuộc tiêu chí 16 về văn
hóa nhưng lại có vai trị và ý nghĩa lớn trong

xây dựng đời sống văn hóa mới tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc cho các vùng nông thôn
trên cả nước, đặc biệt là vùng dân tộc thiểu số
và miền núi, bởi đó là những giá trị cốt lõi của
đời sống văn hóa dân tộc.
Cơng tác bảo tồn, phát huy các giá trị văn
hóa truyền thống của đồng bào dân tộc thiểu
số ở các địa phương trên cả nước trong thời
gian qua đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, mà trước hết biểu hiện ở nhận thức và
ý thức ngày càng cao của các cấp chính quyền
cùng người dân về giá trị, vai trị của văn hóa
truyền thống trong xây dựng đời sống văn hóa
nơng thơn mới. Nhiều yếu tố văn hóa truyền
thống đã và đang được khơi phục, gìn giữ và
phát huy tốt trong đời sống đương đại, làm
lành mạnh, phong phú đời sống văn hóa tinh
thần cho người dân vùng nơng thơn và góp

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

33


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

phần xây dựng con người Việt Nam mới xã hội
chủ nghĩa. Tuy nhiên, trên con đường hội nhập

và phát triển, văn hóa truyền thống của các tộc
người đang biến đổi mạnh mẽ. Biến đổi để loại
bỏ cái lỗi thời và tiếp thu những tinh hoa văn
hóa của các tộc người láng giềng nhằm tránh
tụt hậu là điều cần thiết. Nhưng loại bỏ gì, tiếp
thu gì, để khơng đánh mất mình, mà ngược
lại, cịn phát huy, phát triển được những giá trị
văn hóa riêng biệt, độc đáo, những đặc trưng
văn hóa của mỗi tộc người, đó mới là điều cốt
yếu. Giao lưu và tiếp biến theo kiểu hòa trộn
đến mức khó nhận diện bản sắc, thậm chí dẫn
đến mai một bản sắc tộc người là điều cần suy
ngẫm và đặt ra trong phong trào xây dựng
nông thôn mới thời gian tới.

4. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
(2017), Báo cáo tổng kết tình hình thực hiện
Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng Nông
thôn mới năm 2017, số 10658/BNN-VPĐP ngày
25/12/2017.

C.T.T.H

8. Chử Thị Thu Hà (2014), Văn hóa vật chất của
người Dao ở Ba Vì, Hà Nội trong bối cảnh hiện nay,
Luận án Tiến sĩ Nhân học.

Chú thích
Hải Dương đã triển khai chương trình 10
năm xây dựng nhà văn hóa thơn, khu dân cư giai

đoạn 2006 - 2016; Vĩnh Phúc, Lạng Sơn, Phú Thọ,
Hà Tĩnh có chính sách hỗ trợ về xây dựng cơ sở
vật chất đối với thiết chế văn hóa cấp xã, thơn...
1

Nhiều địa phương đã hình thành khu thể
thao - văn hố giải trí theo hướng xã hội hóa bao
gồm sân bóng đá mini, bể bơi, sân chơi thiếu nhi,
sân bóng chuyền, câu lạc bộ thể hình, cầu lơng...
2

Tài liệu tham khảo
1. Ban Chấp hành Trung ương (1998), Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII) về xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,
Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 16/7/1998.
2. Ban Chấp hành Trung ương (2008), Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung
ương khóa X về nơng nghiệp, nơng dân, nông
thôn, Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 5/8/2008.
3. Ban Chấp hành Trung ương (2014), Nghị
quyết Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành Trung
ương Đảng (khóa XI) về xây dựng và phát triển văn
hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát
triển bền vững đất nước, Nghị quyết số 33-NQ/
TW, ngày 9/6/2014.

34


Số 32 (Tháng 6 - 2020)

5. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch (2018), Dự
thảo Báo cáo hội nghị sơ kết thực hiện tiêu chí văn
hóa trong Bộ tiêu chí quốc gia xây dựng xã nơng
thơn mới và cơng tác xây dựng đời sống văn hóa
nơng thơn mới.
6. Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (2013), Tài liệu nghiệp vụ Văn hóa cơ sở,
Lưu hành nội bộ, Nxb. Hà Nội.
7. Cục Văn hóa cơ sở, Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch (2019), Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong
xây dựng nơng thơn mới, Hải Phịng.

9. Tơ Đình Hiệu (2019), “Bảo tồn giá trị văn
hóa các dân tộc thiểu số trong bối cảnh xây dựng
nơng thơn mới ở huyện Bình Liêu, tỉnh Quảng
Ninh”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa trong đồng bào dân tộc
thiểu số, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Viện Văn
hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam.
10. Nguyễn Thị Ngân (2013), “Trang phục
truyền thống tại Bảo tàng Văn hóa các dân tộc
Việt Nam và sự thay đổi trang phục trong xã hội
hiện đại”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Giải
pháp để bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống
các dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay, Bộ
Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
11. Thanh Tùng, Thanh Trâm (2013), “Trang

phục truyền thống dân tộc Tà ôi/PaKo và Bru Vân Kiều Quảng Trị - Thực trạng và giải pháp bảo
tồn”, in trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học Giải pháp
để bảo tồn, phát huy trang phục truyền thống các
dân tộc thiểu số trong giai đoạn hiện nay, Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch.
Ngày nhận bài: 2 - 3 - 2020
Ngày phản biện, đánh giá: 10 - 5 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020



×