Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Phát triển du lịch cộng đồng tại huyện Cát Hải, thành phố Hải Phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.44 KB, 9 trang )

VĂN HÓA DU LỊCH

PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
TẠI HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHỊNG
ĐỖ TRẦN PHƯƠNG*

Tóm tắt
Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch khơng chỉ hướng tới mục tiêu thỏa mãn tối đa nhu cầu của
du khách về khám phá, thẩm nhận những giá trị văn hóa vật thể cũng như cảnh quan thiên nhiên,
mà cịn quan tâm đến tác động của du lịch đến cộng đồng và tài nguyên môi trường. Huyện đảo Cát
Hải, thành phố Hải Phịng có nhiều tiềm năng để phát triển loại hình du lịch này. Bài viết này tập
trung phân tích tiềm năng, thực trạng hoạt động du lịch tại Cát Hải từ đó đưa ra một số giải pháp
nhằm phát triển du lịch cộng đồng tại nơi đây.
Từ khóa: Du lịch cộng đồng, phát triển du lịch, huyện Cát Hải
Abstract
Community-based tourism is a type of tourism that not only aims to satisfy the needs of travelers
in terms of discovering and recognizing tangible cultural values as well as natural landscapes, but
also takes care of impact of tourism to the community and environmental resources. Moreover,
comunity-based tourism is used as a tool for local communities to manage tourism resources,
participate in tourism development planning, preserving cultural values and developing themselves.
Cat Hai island district, Hai Phong city has a lot of potential to develop this type of tourism. This article
focuses on analyzing the potential and the real situation of tourism activities in Cat Hai, thereby
offering some solutions to develop community-based tourism there.
Keywords: Community-based tourism, tourism development, Cat Hai island district

1. Du lịch cộng đồng
1.1. Khái niệm
Hiện nay, có nhiều khái niệm về du lịch
cộng đồng (DLCĐ). Các khái niệm này được
sử dụng khá linh hoạt tùy thuộc mục đích,
địa điểm nghiên cứu của từng tác giả. Theo


nhà nghiên cứu Nicole Hauseler và Wolfgang
Strasdas: “DLCĐ là một loại hình du lịch trong đó
chủ yếu là người dân địa phương đứng ra phát
triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch
sẽ đọng lại nền kinh tế địa phương…” [2, tr.149].
Cộng đồng bản địa có vai trị quan trọng trong
hoạt động kinh doanh du lịch. Họ không phải
là người đi làm thuê mà tự đứng ra tổ chức
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của
mình sao cho có hiệu quả nhất. Bên cạnh đó,
* ThS, Khoa Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

lợi ích kinh tế từ hoạt động du lịch sẽ ở lại với
cộng đồng.
Báo cáo của APEC về đặc điểm của DLCĐ
đưa ra cách hiểu: DLCĐ là mội loại hình du lịch
bền vững thúc đẩy các chiến lược vì người nghèo
trong mơi trường cộng đồng. Các sáng kiến
DLCĐ nhằm vào mục tiêu thu hút sự tham gia
của người dân địa phương vào việc vận hành và
quản lý các dự án du lịch nhỏ như một phương
tiện giảm nghèo và mang lại thu nhập thay thế
cho cộng đồng. Các sáng kiến DLCĐ cịn khuyến
khích tơn trọng các truyền thống và văn hóa địa
phương cũng như các di sản thiên nhiên [1, tr.9].
Quan điểm về DLCĐ của APEC nhấn mạnh góc
độ phát triển du lịch phải theo hướng du lịch
bền vững. Phát triển du lịch khơng chỉ hướng

tới đạt được những mục đích kinh tế mà cịn
phải đạt được những mục tiêu về văn hóa và
mơi trường.

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

95


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

Tại Việt Nam, các tổ chức và các học giả
cũng đưa ra nhiều khái niệm về DLCĐ khác
nhau. Trong Tài liệu hướng dẫn phát triển du
lịch cộng đồng của Viện Nghiên cứu và phát
triển ngành nghề nông thôn Việt Nam, DLCĐ
được hiểu là một loại hình du lịch do chính cộng
đồng người dân phối hợp tổ chức, quản lý và làm
chủ để đem lại lợi ích kinh tế và bảo vệ được môi
trường chung thông qua việc giới thiệu với du
khách các nét đặc trưng của địa phương (phong
cảnh, văn hóa)… [5, tr.3]. Khái niệm này đề cao
sự hiểu biết về văn hóa một cách sinh động
của cộng đồng địa phương trong việc truyền
tải giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể đến với
du khách. Không gì tốt hơn là chính người dân
địa phương giới thiệu, trao truyền những giá
trị văn hóa của chính cộng đồng họ đến với

du khách. Điều này sẽ giúp du khách được trải
nghiệm những giá trị văn hóa một cách sinh
động nhất.
Hiện nay, DLCĐ có nhiều tên gọi khác nhau
như: Community - Based Tourism (Du lịch dựa
vào cộng đồng); Community - Development
in Tourism (Phát triển cộng đồng dựa vào du
lịch); Community - Based Ecotourism (Phát
triển du lịch sinh thái dựa vào cộng đồng);
Community - Participation in Tourism (Phát
triển du lịch có sự tham gia của cộng đồng);
Community - Based Mountain Tourism (Phát
triển du lịch núi dựa vào cộng đồng)… Tuy có
nhiều khái niệm cũng như nhiều tên gọi khác
nhau, nhưng nhìn chung, DLCĐ có các đặc
trưng cơ bản như sau:
- DLCĐ dựa trên sự tò mò, mong muốn của
khách du lịch để tìm hiểu thêm về cuộc sống
hàng ngày của người dân từ các nền văn hóa
khác nhau.
- DLCĐ thường liên kết với người dân
thành thị đến các vùng nông thôn để thưởng
thức, trải nghiệm cuộc sống tại đó trong một
khoảng thời gian nhất định.
- Cộng đồng địa phương tham gia hoặc
chịu trách nhiệm ra quyết định thực thi và điều
hành hoạt động du lịch.
- Cộng đồng dân cư, các đối tác liên quan,
du khách có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên
văn hóa và thiên nhiên địa phương.

- Các thành viên của cộng đồng được chia sẻ
lợi ích kinh tế - xã hội từ hoạt động du lịch. DLCĐ
góp phần nâng cao nhận thức, kiến thức về thế
giới bên ngoài cho cộng đồng địa phương.
96

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

- Các sản phẩm, dịch vụ - du lịch được phát
triển phù hợp với điều kiện tự nhiên, văn hóa
địa phương.
Tuy nhiên, nghiên cứu của chúng tôi không
chỉ tiếp cận DLCĐ dưới góc độ là một loại hình,
mơ hình mà cịn ở khía cạnh rộng hơn, đó là
mức độ tham gia của cộng đồng trong hoạt
động du lịch tại địa phương (cụ thể là ở thị trấn
Cát Bà và làng chài Việt Hải) để tìm hiểu cộng
đồng dân cư nơi đây tham gia vào hoạt động
du lịch như thế nào và thu được lợi ích gì từ
hoạt động du lịch.
1.2. Những thành phần cơ bản tham gia
du lịch cộng đồng
* Cộng đồng dân cư địa phương: Cộng đồng
dân cư có nhiệm vụ tổ chức mơ hình DLCĐ tại
địa phương. Họ là trọng tâm của phát triển
DLCĐ. Khơng có yếu tố này thì khơng thể phân
biệt được DLCĐ với các loại hình du lịch khác.
Cộng đồng dân cư làm chủ nguồn tài nguyên
du lịch và trực tiếp phục vụ du khách. Lối
sống của mỗi cộng đồng chính là những trải

nghiệm mà du khách sẽ có được. Mặc dù các
cộng đồng đều thân thiện và cởi mở với khách
du lịch nhưng khơng có kỹ năng và thiếu kiến
thức chính là điểm yếu kém và bất lợi lâu dài
của những cộng đồng này.
* Công ty lữ hành: Nhiệm vụ chính là đưa
khách đến với các điểm DLCĐ. Các cơng ty này
có khả năng tiếp cận thị trường tốt hơn nhiều
so với cộng đồng dân cư địa phương. Họ am
hiểu về khách hàng và có các kênh tiếp thị hiệu
quả. Họ có thể khơng chỉ tham gia vào q
trình hoạt động mà cịn có thể có mặt ở khâu
sớm hơn như quá trình chuẩn bị và quy hoạch
nhằm thiết kế và phát triển sản phẩm du lịch
có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Bỏ
qua sự tham gia của thành phần này có thể
cản trở tính khả thi về mặt kinh tế của mơ hình
DLCĐ. Để mối quan hệ giữa công ty lữ hành
và cộng đồng địa phương kinh doanh du lịch
có thể phát triển bền vững, hai bên cũng cần
hoạt động trên cơ sở minh bạch, theo những
điều khoản, hợp đồng kinh tế, tránh làm ăn
theo lối thoả thuận miệng.
* Khách du lịch: Là người có mong muốn
được tìm hiểu mơ hình DLCĐ tại địa phương.
Theo nghiên cứu, khách du lịch tham gia tour
DLCĐ thường mang các đặc điểm sau: quan tâm
và tôn trọng các giá trị tự nhiên, lịch sử và văn
hóa của các điểm tham quan; quan tâm đến tác



VĂN HĨA DU LỊCH

động của du lịch đối với mơi trường và các giá trị
văn hóa truyền thống; ưa thích tìm kiếm những
giá trị chân thực trong cuộc sống của người dân
địa phương như ẩm thực, trang phục, nếp sinh
hoạt, các loại hình biểu diễn truyền thống; có
học vấn và thu nhập tương đối cao.
* Các công ty vận tải: Là đơn vị vận chuyển
khách đến địa phương - thường các cơng ty
vận tải này có quan hệ mật thiết với các công
ty lữ hành hoặc người điều hành du lịch. Các
cơng ty vận tải, ngồi phương tiện hiện đại
cịn phối kết hợp với người dân địa phương
để có thể đưa những phương tiện vận chuyển
truyền thống của địa phương vào kinh doanh
du lịch tạo ra những sản phẩm đặc thù trong
vận chuyển khách du lịch mang lại ấn tượng
tích cực cho du khách.
* Chính quyền địa phương: Chính quyền địa
phương là cơ quan trực tiếp quản lý và điều
hành ở mỗi điểm nhất định. Chính quyền
thuộc các cấp khác nhau đảm bảo cho mơ
hình DLCĐ tại địa phương hoạt động hiệu quả
nhất, chẳng hạn như đề ra các chính sách, hỗ
trợ hạ tầng, cấp giấy phép cho khách nước
ngoài… Chính quyền địa phương đóng vai trị
quyết định nhất trong sự phát triển DLCĐ, bởi
khơng có những đường lối, chính sách đúng

đắn và sự chỉ đạo sát sao của chính quyền địa
phương thì khơng thể phát triển DLCĐ theo
đúng những nguyên tắc tốt đẹp mà loại hình
du lịch này đề ra.
* Cơ sở đào tạo: Các cơ sở đào tạo có nhiệm
vụ cung cấp các dịch vụ đào tạo đến những
đối tượng khác nhau trong mơ hình DLCĐ. Các
lĩnh vực đào tạo có thể là đào tạo kỹ năng vận
hành du lịch, đào tạo kỹ năng bán hàng, kỹ
năng quản lý, đào tạo ngoại ngữ… Cơ sở đào
tạo đóng vai trị quan trọng trong q trình
phát triển DLCĐ, vì xét cho cùng, bản chất của
du lịch là kinh doanh dịch vụ, mà đại đa số dịch
vụ du lịch đều liên quan đến sự phục vụ của
những con người tác nghiệp cụ thể. Bởi vậy,
chỉ khi nâng cao được chất lượng nguồn nhân
lực thì chúng ta mới có thể nâng cao được chất
lượng dịch vụ trong DLCĐ.
* Doanh nghiệp: Là các đơn vị tham gia vào
phát triển các dịch vụ tại địa phương như sản
xuất hàng thủ công, hướng dẫn khách du lịch.
Đây cũng có thể là các doanh nghiệp khơng
nằm ở địa phương nhưng liên kết với ban
quản lý DLCĐ địa phương để cùng phát triển
Số 32 (Tháng 6 - 2020)

DLCĐ và phân chia lợi nhuận. Quy mô phát
triển DLCĐ thường không lớn nên rất phù hợp
với các doanh nghiệp vừa và nhỏ và các doanh
nghiệp khởi nghiệp với những số vốn vừa phải.

* Các tổ chức hỗ trợ phát triển: Các tổ chức
hỗ trợ phát triển có thể là các tổ chức phi
chính phủ trong hoặc ngồi nước. Các tổ chức
phi chính phủ quốc tế thường xuyên hỗ trợ về
mặt chun mơn và một phần nhỏ về mặt tài
chính. Họ đóng vai trị quan trọng trong việc
nâng cao năng lực của cộng đồng địa phương
về phát triển du lịch bền vững. Các cơ quan tài
trợ tham gia hỗ trợ nguồn vốn xây dựng các
mơ hình tại địa phương…
2. Tiềm năng du lịch cộng đồng tại huyện
Cát Hải
Được thành lập từ năm 1977, huyện Cát
Hải, thành phố Hải Phòng gồm đảo Cát Hải
và Cát Bà với diện tích tự nhiên tồn huyện là
345km2, trong đó đảo Cát Hải có diện tích gần
40 km2 và đảo Cát Bà hơn 300 km2. Biển Cát Hải
có gần 200 lồi cá, gần 600 lồi động vật biển,
75 loài thực vật phù du, hàng trăm loài động
vật phù du, 27 loại rừng ngập mặn... Nơi đây có
nhiều vụng, vịnh với dải cát vàng, những quần
thể san hô muôn màu sắc là những tài nguyên
du lịch hấp dẫn thu hút khách du lịch trong
nước và quốc tế.
Các xã được lựa chọn để phát triển DLCĐ
trên đảo như Xuân Đám, Trân Châu, Hiền Hào,
Gia Luận, Việt Hải là những điểm du lịch cách
trung tâm thị trấn từ 10 - 15km có đầy đủ các
yếu tố tiềm năng của du lịch sinh thái cộng
đồng với các nghề chủ yếu là trồng lúa nước,

trồng rau xanh để cung cấp cho đảo, các loại
cây nhiệt đới như na, hồng, cam, chuối,... và các
nghề chăn nuôi gia súc, gia cầm, nuôi ong lấy
mật, khai thác đánh bắt thủy hải sản. Tập hợp
dân cư ở các xã này tương đối nhỏ, thường có
từ 70 - 90 hộ được bố trí xen kẽ các khu vực
đồi, rừng, thung lũng tạo nên cảnh quan đẹp.
Môi trường thiên nhiên ở đây khá hoang sơ,
trong lành, không bị ảnh hưởng bởi tác hại
của các ngành sản xuất độc hại cũng như khí
thải của các khu cơng nghiệp. Đến các xã này,
du khách dễ dàng tiếp cận với các điểm tham
quan thuộc Vườn quốc gia như hang Quân
Y, động Trung Trang, hang Giếng Tiên… Các
điểm này cũng là những nơi rất gần để tổ chức
cho du khách xuống thuyền thăm vịnh Lan Hạ,
trải nghiệm chèo thuyền kayak hoặc tắm trên

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

97


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

các bãi nhỏ của đảo. An ninh xã hội tại các xã
tương đối tốt do tập hợp dân cư nhỏ lại sống
trong các vùng đồi, thung lũng trong rừng nên

vấn đề an ninh được thiết lập bằng sự cố kết
trong cộng đồng, khơng có các tệ nạn như
ma túy, trộm cắp, cướp giật… Các đặc sản chủ
yếu là sản vật được khai thác hoặc nuôi trồng
tại chỗ dựa trên điều kiện tự nhiên của rừng
và biển như các loại hải sản (tơm, ngao, sị, tu
hài…), cam Gia Luận, mật ong hoa rừng, rau
xanh các loại và đặc biệt là giống gà Liên Minh,
một loại gia cầm quý đã được đưa vào danh
sách bảo tồn và phát triển.
Với những điều kiện kể trên cùng với yếu tố
địa lý nằm trong khu dự trữ sinh quyển Cát Bà,
các điểm này có đầy đủ điều kiện để tổ chức
các hoạt động DLCĐ góp phần làm phong phú
các loại hình sản phẩm du lịch trên đảo, giảm
thiểu tính thời vụ và cân bằng lượng khách
giữa khu vực trung tâm với các xã vùng xa.
3. Thực trạng phát triển du lịch cộng đồng
tại huyện Cát Hải
3.1. Lượng khách du lịch và doanh thu
Những năm vừa qua, huyện đảo Cát Hải đã
xác định du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn để
nâng dần tỷ trọng trong cơ cấu phát triển kinh
tế chung của huyện. Trong đó, định hướng
phát triển du lịch sinh thái cộng đồng là một
trong những mục tiêu chính của các hướng
sản phẩm được khai thác tại đây.
Số lượng khách du lịch đến Cát Hải tăng
tương đối đều qua các năm, trong đó số lượng
khách nội địa chiếm tỷ trọng chủ yếu. Khảo

sát cho thấy, lượng khách du lịch đến Cát Hải
thường tập trung nhiều vào mùa hè từ tháng
5 đến tháng 9 trong năm, là mùa cao điểm của
du lịch nghỉ dưỡng biển. Vào mùa này, thời tiết
và khí hậu tại Cát Hải phù hợp cho những kỳ
nghỉ hè của du khách. Tuy nhiên, mùa hè lại
là mùa nhiều bão nên cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến yếu tố vận chuyển đường thủy nói
riêng, hoạt động du lịch nói chung. Từ trung
tâm thị trấn Cát Bà phải di chuyển bằng phà,
tàu hoặc đi xuyên Vườn quốc gia du khách mới
tiếp cận được với các xã đảo, nên thời gian lưu
trú của khách du lịch tại các xã ít nhất là hai
tiếng buổi trưa, dài nhất là hai ngày. Du khách
có thể tự do tham quan tìm hiểu đời sống của
người dân địa phương cũng như tài nguyên
thiên nhiên vô cùng phong phú. Tuy nhiên, cơ
sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật tại các xã
98

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của
du khách. Chính vì vậy, vào mùa cao điểm, du
khách thường lựa chọn tham quan một ngày
và nghỉ qua đêm tại trung tâm Cát Bà.
Thực tế, du lịch Cát Bà chỉ phát triển trong
vụ hè, còn những tháng khác, du lịch nơi đây
chỉ hoạt động mang tính cầm chừng. Vấn đề
đặt ra là phải làm sao để phát triển mạnh DLCĐ

có tính trải nghiệm cao để du khách ưa khám
phá, trải nghiệm văn hóa có thể đến nơi đây
vào những tháng khác với những mức giá hợp
lý để khai thác hết tiềm năng về du lịch sinh
thái và du lịch vịnh biển ở huyện Cát Hải.
3.2. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ
thuật phục vụ du lịch
Khảo sát cho thấy, hiện nay cơ sở hạ tầng
và cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch của
huyện Cát Hải đang ở giai đoạn phát triển. Về
cơ bản, đường giao thơng trên đảo đã hồn
thành và hoạt động khá tốt. Do đặc thù là đảo
xa nên du khách muốn tiếp cận với đảo phải
sử dụng nhiều loại phương tiện khác nhau,
tốn thời gian. Với xã vùng xa như Việt Hải, du
khách lại phải tiếp tục chuyển tàu gây ra nhiều
bất tiện. Chính vì vậy, để tạo điều kiện thuận
lợi cho du khách, con đường xun đảo Hải
Phịng - Đình Vũ - Cát Hải - Cát Bà dài 31km
đã được khánh thành và đưa vào hoạt động.
Đây là con đường huyết mạch, đóng vai trị
chính trong mọi sự phát triển của Cát Bà, Cát
Hải gồm kinh tế biển, quốc phòng và cả hoạt
động du lịch.
Tại huyện Cát Hải, ngày càng có nhiều khách
sạn hiện đại, đạt tiêu chuẩn gắn sao theo cách
phân hạng của Tổng cục Du lịch. Hệ thống cơ
sở lưu trú và dịch vụ ăn uống phục vụ du lịch
phát triển khơng đồng bộ và có sự chênh lệch
giữa khu vực trung tâm thị trấn với các xã vùng

xa. Sự không đồng bộ trong cách xây dựng và
các tiêu chuẩn chất lượng xuất phát từ việc đại
đa số các cơ sở do người dân tự đầu tư, xây
dựng mà thiếu sự quy hoạch đồng bộ, nhất
quán. Các resort, các khách sạn lớn như Sea
Pearl, Hùng Long, Thảo Minh,… đều được đầu
tư xây dựng ở khu vực trung tâm thị trấn. Các
xã thuộc địa bàn Vườn quốc gia chủ yếu gồm
các hộ gia đình kinh doanh homestay hoặc các
nhà nghỉ nhỏ. Ngồi ra, ở xã Việt Hải cịn có mơ
hình bungalow nằm ở phía cuối làng.
Với hệ thống nhà hàng, khách sạn nêu
trên, huyện Cát Hải đã đáp ứng được phần


VĂN HÓA DU LỊCH

lớn nhu cầu của du khách. Hệ thống cơ sở vật
chất phục vụ được cho các đối tượng khách
đa dạng, có nhu cầu và khả năng chi trả khác
nhau. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho du
khách đến tham quan nghỉ ngơi, vui chơi giải
trí. Tuy nhiên, với cơng suất sử dụng phịng
chưa lên đến 60%, cho thấy Cát Hải vẫn chưa
khai thác được hết tiềm năng dẫn đến lãng
phí nguồn lực này. Địa bàn này chú trọng tăng
về số lượng hơn đẩy mạnh chất lượng, nâng
hạng các cơ sở lưu trú vốn có. Các cơ sở lưu trú
của khối kinh doanh tư nhân phát triển nhanh
chóng đã có những đóng góp tích cực vào việc

cải thiện hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật du
lịch của Cát Hải, tuy nhiên, cũng đã tạo thêm
“gánh nặng” cho du lịch Cát Hải về đội ngũ lao
động vốn đã hạn chế về chất lượng. Phần lớn
các chủ doanh nghiệp du lịch và các nhân viên
phục vụ tại những cơ sở này chưa qua đào tạo
cơ bản về quản lý và nghiệp vụ.
3.3. Công tác quảng bá du lịch
Trong những năm gần đây, bên cạnh việc
quảng bá hình ảnh chung cho các hoạt động
du lịch biển của đảo ngọc Cát Bà, UBND huyện
Cát Hải đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền
quảng bá về du lịch sinh thái cộng đồng tại
một số xã. Công tác quảng bá về du lịch được
mở rộng trên nhiều kênh thông tin. Cùng với
việc quảng bá thông qua panô, tờ rơi, huyện
Cát Hải đã cho ra mắt cuốn cẩm nang “Du lịch
sinh thái cộng đồng” đầu tiên về xã Gia Luận.
Phối hợp mở nhiều chương trình quảng bá
hình ảnh huyện đảo Cát Hải cũng như các xã
làm du lịch sinh thái cộng đồng. Chương trình
quảng bá được thực hiện trên Đài Truyền hình
Việt Nam, Phim tài liệu Đảo Cát Bà hương vị của
biển trên kênh VTC4, phim tài liệu quảng bá
ẩm thực Cát Bà trên HTV9. Các sản phẩm đặc
trưng của huyện đảo như nước mắm Cát Hải,
mật ong Gia Luận, Cam Gia Luận cũng được
tham gia triển lãm tại Hà Nội nhân Ngày Di sản
văn hóa Việt Nam 23/11/2013.
Bên cạnh đó, cơng tác quảng bá DLCĐ

huyện Cát Hải còn tồn tại những mặt hạn
chế. Hoạt động quảng bá, giới thiệu du lịch
sinh thái cộng đồng thông qua các hoạt động
xúc tiến du lịch trong và ngoài huyện Cát Hải
tuy đã phát triển trong những năm gần đây
nhưng vẫn chưa thực sự hiệu quả. Việc cung
cấp những ấn phẩm, tập gấp nhằm quảng bá
hình ảnh DLCĐ cho khách du lịch chưa được
Số 32 (Tháng 6 - 2020)

phát hành một cách chuyên nghiệp, thường
xuyên và kịp thời. Chỉ vào những đợt tham gia
chiến dịch hành động nào đó, ví dụ như năm
du lịch quốc gia đồng bằng sông Hồng 2013
việc in tập gấp, tờ rơi mới được chú ý. Trên thực
tế, du khách biết đến hoạt động DLCĐ tại Cát
Hải trên các phương tiện đại chúng cịn ít, một
số biết tới qua bạn bè, người thân, thậm chí có
khách du lịch chỉ tình cờ biết tới DLCĐ ở Cát
Hải do đi du lịch Cát Bà. Nhiều khách du lịch tại
khu vực trung tâm Cát Bà, khi được hỏi tại sao
không lựa chọn các xã vùng xa hay loại hình
du lịch sinh thái, DLCĐ, đã trả lời là do khơng
biết. Họ chỉ biết ở đây có Vườn quốc gia với
một số điểm du lịch, nếu đi tham quan thì phải
đi bộ nhiều và xa nên có tâm lý e ngại.
Ngồi ra, cơng tác quảng bá, xúc tiến DLCĐ ở
huyện Cát Hải cũng cịn gặp rất nhiều khó khăn.
Kinh phí phục vụ cho hoạt động xúc tiến, quảng
bá cịn rất hạn chế, tại các xã chưa có nguồn

kinh phí riêng phục vụ cho việc quảng bá nên
ảnh hưởng nhiều đến hiệu quả hoạt động. Trước
thực trạng đó, UBND cùng các cấp chính quyền
huyện Cát Hải cần đưa ra các giải pháp cụ thể
nhằm xúc tiến quảng bá hình ảnh DLCĐ Cát Hải
đến với khách du lịch trong và ngoài nước.
3.4. Sự tham gia của người dân trong hoạt
động du lịch
Trong hoạt động quản lý điều hành du lịch
Hoạt động du lịch tại đây vẫn nằm trong
sự quản lý chung của huyện Cát Hải. Tháng
7/2006, UBND huyện Cát Hải đã thành lập
Trung tâm hướng dẫn và phát triển du lịch.
Tháng 5/2009, Phịng VH,TT,TT&DL tham mưu
cho UBND huyện kiện tồn Ban chỉ đạo hoạt
động du lịch năm 2009 và thành lập Đội kiểm
tra liên ngành về hoạt động du lịch - dịch vụ
huyện Cát Hải nhằm quản lý, tổ chức các hoạt
động du lịch ngày càng được nâng cao về chất
lượng, du lịch được phát triển cả về bề rộng và
chiều sâu. Đội kiểm tra về hoạt động du lịch dịch vụ đã tích cực hoạt động, kiểm tra, thu giữ
và xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm đổ
nước thải, rác thải ra đường, lấn chiếm vỉa hè,
lòng đường, nơi công cộng làm địa điểm kinh
doanh, buôn bán để đảm bảo an ninh trật tự,
mỹ quan du lịch trên địa bàn.
Thực tế cho thấy sự tham gia của người
dân trong hoạt động DLCĐ ở Cát Hải vẫn còn
nhiều bất cập. Một trong những nguyên nhân


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

99


VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

thiếu đi sự tham gia của cộng đồng dân cư
vào bộ máy quản lý trực tiếp là do nhận thức
của người dân các vùng chưa đồng đều, cũng
không phải ai cũng ý thức được đúng và đầy
đủ về giá trị của hoạt động du lịch đối với địa
bàn sinh sống.
Không chỉ thiếu vắng sự tham gia của
người dân trong công tác điều hành quản lý,
ban quản lý điều hành du lịch tại các xã đảo
còn tồn tại một số hạn chế do đơn vị cấp cơ sở
quản lý du lịch tại các xã được thành lập chưa
lâu, chuyên mơn nghiệp vụ chưa cao nên cơng
tác quản lý cịn mang tính chất vùng và địa
phương, chưa có tính chun nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh du lịch
Bộ phận lưu trú tại các xã là tập hợp các gia
đình trong xã có điều kiện, được ban quản lý
điều hành lựa chọn, thẩm định, đánh giá để
phục vụ nhu cầu lưu trú của du khách. Bộ phận
này đã thực hiện các nhiệm vụ tương đối tốt và
nhận được sự hài lòng của du khách. Cơ sở lưu

trú được vệ sinh sạch sẽ, trang thiết bị trong
phòng được sắp xếp phù hợp, gọn gàng. Du
khách được nhân viên đón tiếp với thái độ vui
vẻ, ân cần, thân thiện. Vì vậy, mặc dù trình độ
chun mơn nghiệp vụ chưa cao nhưng văn
hóa ứng xử của các hộ gia đình làm du lịch đã
mang đến cảm giác thoải mái cho du khách
mỗi khi đến với huyện đảo Cát Hải.
Đối với bộ phận kinh doanh ăn uống, ban
quản lý lựa chọn những thành viên có điều kiện
chế biến thức ăn, đồ uống để phục vụ khách,
được trang bị các kiến thức vệ sinh an toàn thực
phẩm và các kiến thức căn bản trong phục vụ
ăn uống khách du lịch. Đặc biệt, biết chế biến
thành thạo các món đặc sản của địa phương.
Tuy nhiên, các trang thiết bị phục vụ cho hoạt
động ăn uống của du khách chỉ đảm bảo vấn
đề vệ sinh chứ chưa được đầu tư hiện đại. Các
hộ kinh doanh ăn uống chỉ đơn thuần kê bàn
ghế ở trước cửa để bày món ăn phục vụ khách,
chưa có sự đầu tư đồng bộ, chuyên nghiệp.
Bộ phận dịch vụ hướng dẫn là tập hợp các
thành viên được đào tạo hướng dẫn du lịch cơ
bản, nắm được những di tích lịch sử - văn hóa
cũng như kết cấu địa lý tự nhiên, các thơng tin
văn hóa, kinh tế trong vùng để giới thiệu với
du khách khi tham quan. Tại xã Việt Hải, những
người hướng dẫn được chọn từ chính các hộ
dân, được tham gia một số lớp tập huấn về
cách thức giới thiệu, cách đón tiếp và phục vụ

100

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

du khách do bộ đội biên phòng kết hợp với
UBND huyện Cát Hải tổ chức.
Bên cạnh các dịch vụ cơ bản, tại các xã cịn
có các hoạt động kinh doanh dịch vụ bổ sung.
Điển hình là dịch vụ bán hải sản để khách
mang về làm quà. Tuy nhiên, các loại hải sản
được bán ở đây chủng loại không phong phú,
quy mô cũng không lớn và chuyên nghiệp
như ở trung tâm thị trấn. Các hộ chủ yếu treo
bảng nhỏ hoặc tự giới thiệu tới du khách trong
q trình phục vụ, ngồi ra, có những hộ bày
tủ cấp đông loại nhỏ ở trước hiên để bán. Đối
với dịch vụ kinh doanh hàng lưu niệm, ngoài
những mặt hàng hải sản khô, tươi để bán cho
khách du lịch mang về làm quà, ở Việt Hải đã
dần hình thành một số cửa hàng lưu niệm nhỏ,
bán mũ nón, một số loại đồ lưu niệm như áo,
đồ trang sức. Tuy nhiên, các mặt hàng được
bày bán lại chưa có nét đặc trưng riêng mà
giống với nhiều điểm du lịch khác.
Nhìn chung, do lượng khách đến với Cát
Hải cịn chưa tương xứng với tiềm năng nên
cơ hội mở rộng kinh doanh dịch vụ du lịch cịn
gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy, cơ hội
kinh doanh các dịch vụ du lịch như lưu trú, ăn
uống và các dịch vụ bổ sung khác cũng mới

chỉ tập trung vào một số hộ gia đình chứ chưa
đến được sâu rộng trong cộng đồng.
Trong hoạt động bảo vệ tài nguyên tự nhiên
và văn hóa
Đối với môi trường tự nhiên của Vườn quốc
gia, người dân có ý thức bảo vệ, giữ gìn sinh
cảnh, khơng chặt phá cây rừng. Tuy nhiên, giai
đoạn 2011 - 2012, tại Gia Luận có hiện tượng
sử dụng chim chào mào làm món ăn phục vụ
du khách. Điều này đã đi ngược lại tiêu chí hoạt
động du lịch sinh thái của địa phương. Sau khi
có ý kiến phản hồi và từ chối sử dụng từ du
khách nước ngoài, UBND xã Gia Luận đã có
lệnh cấm săn bắt các lồi động vật trong rừng
để phục vụ cho hoạt động du lịch. Nhìn chung,
cư dân Cát Hải nhận thức rất rõ ràng những gì
mà thiên nhiên ưu đãi cho địa phương và vai
trò của môi trường tự nhiên đối với việc khai
thác, phát triển DLCĐ. Bản thân họ ln có ý
thức giữ gìn tài nguyên tự nhiên và chủ động
tham gia vào các chiến dịch, hoạt động nhằm
bảo vệ môi trường của huyện.
Qua quá trình thực tế ở địa phương, chúng
tơi nhận thấy, mơ hình DLCĐ đang được áp


VĂN HÓA DU LỊCH

dụng phát triển khá hiệu quả và mang lại lợi
ích kinh tế, cải thiện đời sống cho người dân

nơi đây. Ở xã Việt Hải, mơ hình bảo tàng gia
đình mới được hình thành nửa cuối năm 2016
đã giúp phục dựng, triển lãm giới thiệu về
cách sống của cư dân bản địa, những đồ đạc,
nông ngư cụ mà cư dân Việt Hải vẫn thường
dùng trong sinh hoạt và sản xuất. Song mặt
khác, sự phát triển du lịch cũng kéo theo
những hệ quả mang tính tiêu cực. Hiện nay,
xã Việt Hải, xã Gia Luận phần nào khơng cịn
giữ được nét đẹp hoang sơ của ngôi làng cổ
Việt Nam như trước nữa. Nhiều ngôi nhà được
xây mới khang trang, hiện đại nhưng khơng
có quy hoạch cụ thể về kiểu dáng, độ cao nên
đều hướng đến xu hướng hiện đại nhất có thể,
do đó đã phá vỡ cảnh quan vốn có. Thực tế này
dẫn đến cuối năm 2008 UBND huyện Cát Hải
và Sở VH,TT,TT&DL thành phố Hải Phòng đã
đưa Việt Hải ra khỏi danh sách mơ hình DLCĐ,
bởi tại thời điểm này xã không đảm bảo đầy
đủ yêu cầu và điều kiện đáp ứng cho một địa
chỉ DLCĐ. Qua khảo sát, phỏng vấn một số
hộ kinh doanh các lĩnh vực khác nhau tại Cát
Hải, chúng tôi nhận thấy, cư dân ở đây chưa
ý thức được rõ ràng về các giá trị văn hóa cần
được duy trì. Vậy nên, cần phải tun truyền
sâu rộng hơn nữa để chính những người dân,
những hộ kinh doanh DLCĐ nơi đây trở thành
những người tham gia bảo tồn văn hóa và tự
nhiên một cách chủ động nhất, tích cực nhất.
4. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển

du lịch cộng đồng tại huyện đảo Cát Hải
4.1. Cơ chế chính sách
Đây là một trong những giải pháp mang
tính quyết định nhất, bởi nó mang tính pháp
lý để DLCĐ dựa vào đó mà hoạt động và phát
triển. Tuy nhiên, cũng là một trong những giải
pháp rất khó để đưa ra. Để có được những giải
pháp đúng đắn về cơ chế, chính sách, cần phải
có sự họp bàn kỹ lưỡng của các bên liên quan
trong hoạt động DLCĐ để đảm bảo giải pháp
mang tính tồn diện và thiết thực.
Các cơ quan quản lý, các nhà khoa học
cũng như các bên liên quan trong hoạt động
DLCĐ cần sớm ngồi lại với nhau, bàn thảo, tìm
ra một cơ chế chính sách thoả đáng trong phát
triển DLCĐ để đáp ứng được quyền lợi tối đa
của các bên tham gia: Doanh nghiệp sẽ được
hưởng ưu đãi như thế nào khi sử dụng nguồn
lực chính cho doanh nghiệp mình là người dân
Số 32 (Tháng 6 - 2020)

địa phương; nguồn thu từ bán vé tham quan sẽ
được phân chia lại như thế nào cho người dân,
cho bảo tồn, cho duy trì cơ sở vật chất kỹ thuật
và nộp ngân sách nhà nước; nguồn thu từ thuế
thông qua các hoạt động du lịch sẽ được phân
chia ra sao; những chính sách cụ thể về bảo vệ
di sản văn hóa và tài nguyên du lịch; người dân
địa phương được tham gia vào quá trình quản
lý du lịch ở mức độ nào; chính sách ưu đãi cho

người dân phát triển mơ hình kinh doanh DLCĐ,
chính sách đào tạo nâng cao nguồn nhân lực tại
chỗ; chính sách hỗ trợ cho hoạt động xây dựng
sản phẩm du lịch mới; chính sách, cơ chế trong
xúc tiến quảng bá...
4.2. Đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực
Đối với đội ngũ cán bộ quản lý: Đây là lực
lượng rất quan trọng trong nguồn nhân lực du
lịch. Để có thêm những kiến thức về quản lý du
lịch cũng như về DLCĐ, các cán bộ quản lý nên
được trang bị, đào tạo thêm những mảng kiến
thức như sau: Khối kiến thức về quản lý nhà
nước, kiến thức về kinh tế du lịch, kiến thức về
DLCĐ.
Đối với đội ngũ trực tiếp kinh doanh du lịch:
Đây là nhóm lao động rất đơng đảo, chủ yếu
bao gồm những vị trí như lễ tân, buồng, bàn,
bar, bếp, lái xe và hướng dẫn viên du lịch. Cần
bồi dưỡng cho họ những chuyên môn, nghiệp
vụ cụ thể như nghiệp vụ lễ tân, giao tiếp ứng
xử, thao tác phục vụ bàn, xử lý các tình huống
phát sinh trong quá trình phục vụ khách.
Đối với hướng dẫn viên địa phương: Đây
chính là bộ mặt của cộng đồng, thay mặt cộng
đồng giới thiệu những giá trị văn hóa vật thể
và phi vật thể của địa phương mình đến với
du khách. Du khách có hiểu, có u những
nét văn hóa nơi đây hay khơng chính là quyết
định bởi khả năng của hướng dẫn viên. Cần có

những chuyên đề đào tạo về hướng dẫn viên
như: quy trình tổ chức hướng dẫn, tham quan,
giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể tiêu biểu
của Cát Hải, phương pháp xây dựng bài thuyết
minh, xử lý tình huống...
Đối với cộng đồng địa phương: Cần tăng
cường nhận thức cho cộng đồng, kể cả những
người không trực tiếp tham gia vào hoạt động
kinh doanh du lịch. Chúng tôi dự kiến sẽ phát
hành những tập tài liệu ngắn gọn đến người
dân địa phương nhằm tăng cường nhận thức
cho cộng đồng dân cư về những vấn đề: vai

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

101


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

trị của du lịch; tác động của du lịch đến kinh
tế, văn hóa, xã hội; bảo vệ mơi trường trong
du lịch; giao tiếp văn minh với khách du lịch…
Trong quá trình phát triển ban đầu, hướng
dẫn viên của các hãng lữ hành vẫn phải là cầu
nối quan trọng giữa du khách và nguồn nhân
lực du lịch địa phương. Trong tương lai, tùy
theo vào tính chất cơng việc cụ thể, nguồn

nhân lực du lịch địa phương cần phải được đào
tạo, bồi dưỡng nhiều hơn về kiến thức và kỹ
năng, bao gồm cả ngoại ngữ, để đáp ứng nhu
cầu phục vụ du khách trong nước và quốc tế.
4.3. Xây dựng sản phẩm du lịch
Sản phẩm du lịch mà chúng tôi xây dựng
dưới đây chủ yếu nhắm đến đối tượng khách
vào mùa thấp điểm, từ tháng 9 đến tháng 5.
(Bởi vào những tháng cao điểm trong mùa hè,
huyện đảo Cát Hải ln ở trong tình trạng q
tải. Các biện pháp kích cầu, quảng bá, hay xây
dựng những sản phẩm du lịch mới gần như
không quá quan trọng, bởi vào những tháng
này, du khách đến với Cát Hải chủ yếu là du
lịch biển).
Chúng tơi xây dựng những chương trình
du lịch hướng tới những khách lẻ, có thể tự đi
đến Cát Hải để trải nghiệm, hoặc đây cũng là
gợi ý để các công ty lữ hành có thể tổ chức cho
những đồn khách lớn đến tham quan, du lịch
Cát Hải vào mùa thấp điểm, vừa giảm được chi
phí và vừa có thêm những trải nghiệm mới mẻ
về Cát Bà. Sau đây là một chương trình du lịch
điển hình:
KHÁM PHÁ BIỂN ĐẢO CÁT HẢI (3 ngày/2 đêm)
Ngày 1:
7h20: Đón xe chuyên tour Cát Bà tại Phố Cổ
Hà Nội. Khởi hành đi Cát Bà
12h00: Check in tại khách sạn. Ăn trưa tại
khách sạn

15h00: Tham quan pháo đài thần công
19h00: Ăn tối tại khách sạn
21h00: Nghỉ đêm tại khách sạn
Ngày 2:
6h00: Ăn sáng buffet tại khách sạn
7h00: Thăm Vịnh Lan Hạ - một kỳ quan giữa
đất trời với khoảng gần 400 hòn đảo lớn nhỏ
được phủ đầy cây xanh hay những thảm thực
vật đa dạng
11h00: Ăn trưa trên tàu
102

Số 32 (Tháng 6 - 2020)

13h00: Thăm làng Việt Hải một làng cổ còn
tương đối nguyên sơ nằm lọt thỏm giữa biển
khơi và được bao bọc bởi núi cao và rừng già
của vườn quốc gia Cát Bà.
16h00: Quay trở về bến Cái Bèo/bến tàu
khách
19h00: Ăn tối tại khách sạn. Tự do. Nghỉ
đêm tại khách sạn
Ngày 3:
8h00: Ăn sáng buffet tại khách sạn
8h00 - 11h00: Tự do mua sắm
11h00: Ăn trưa tại khách sạn
13h00: Check out, trở về Hà Nội. Kết thúc
chương trình.
4. 4. Xúc tiến quảng bá
Thành phố Hải Phòng và huyện đảo Cát

Hải cần xác định rõ thế mạnh cũng như những
sản phẩm đặc trưng để từ đó đưa ra những nội
dung quảng bá sao cho phù hợp và hiệu quả
nhất đến với du khách. Cùng với đó là việc xác
định đối tượng khách du lịch tiềm năng, điều
này rất quan trọng trong việc đưa ra những
chương trình du lịch cụ thể, hấp dẫn và phù
hợp với đối tượng khách để chào bán ra thị
trường. Bên cạnh đó, cũng có thể dựa vào lợi
thế liên kết vùng với Hạ Long của Quảng Ninh
để lên kế hoạch xúc tiến, quảng bá như một
điểm đến chung của vùng duyên hải Đông
Bắc thông qua một số hoạt động sau: đặt các
liên kết website giữa hai vùng, thơng tin hình
ảnh về du lịch Cát Hải trên Vịnh Hạ Long, và
ngược lại, đặt các hình ảnh về Hạ Long tại sân
bay quốc tế Cát Bi của Hải Phòng, sử dụng các
diễn đàn, các liên kết phát triển kinh tế - xã hội
và du lịch giữa hai vùng để thúc đẩy hoạt động
xúc tiến, quảng bá.
Thực tế hiện nay, việc quảng bá cho du lịch
huyện đảo Cát Hải vẫn chưa được chú trọng,
điển hình cho thấy trong cuốn sách Non nước
Việt Nam, một trong những cuốn sách gối
đầu giường của nhiều khách du lịch, thì Cát
Bà vẫn khơng được nhắc đến như một điểm
đến nổi tiếng và hấp dẫn của thành phố Hải
Phòng. Đây thực sự là một thiếu sót rất lớn. Vì
vậy, chúng ta cần chủ động ký kết hợp đồng
quảng bá trên các báo, tạp chí. Hiện nay, trên

thị trường có rất nhiều tạp chí hay liên quan
đến du lịch, có thể điểm qua một số tạp chí
viết bằng tiếng Việt như: Tạp chí Du lịch Việt


VĂN HÓA DU LỊCH

Nam, Báo Du lịch, Sành Điệu, và rất nhiều báo
khác như Tiền Phong, Lao Động, Thanh Niên,
Tuổi trẻ,... đều có những bài viết liên quan đến
lĩnh vực du lịch. Các tạp chí du lịch bằng tiếng
nước ngồi có: The Guide, Discovery, TVGuide,
Travel Tip, Travellive… Bước đầu, nên cộng tác
với 2 tạp chí tiếng Việt và tiếng Anh uy tín nhất
để đặt bài viết và tiến hành đăng quảng cáo
dài kỳ trên Tạp chí Du lịch Việt Nam và Tạp chí
Travellive (song ngữ).
Quảng cáo trên truyền hình là một phương
tiện rất hữu hiệu nhất là đối với những sản
phẩm du lịch hiện nay. Tuy nhiên, quảng cáo
trên tryền hình thường có chi phí rất cao. Chính
vì vậy, khơng nên quảng bá du lịch Cát Bà ở
chuyên mục quảng cáo mà nên đưa vào những
chương trình có nội dung liên quan đến du lịch
như: S-Việt Nam, VTVTRIP của VTV1, Việt Nam Đất nước - Con người của VTV2. Đây tuy khơng
phải là các chương trình quảng cáo du lịch
nhưng lại có tính chất của một chương trình
giới thiệu về nét đẹp thiên nhiên, ẩm thực, lịch
sử, văn hóa đặc trưng của các vùng miền trên
dải đất hình chữ S - một dạng quảng cáo ẩn.

Được phát trên khung giờ vàng của VTV
(20h05 trên VTV1 từ thứ Ba đến Chủ nhật)
chương trình S-Việt Nam đang được khán giả
đón nhận rất tích cực. Chúng ta hồn tồn
có thể cộng tác với các chương trình này, xây
dựng một bộ phim giới thiệu về huyện đảo
Cát Hải (khoảng từ 10 đến 20 phút). Đây là các
chương trình mang tính chất miễn phí, do đó,
phải xây dựng nội dung thật đặc sắc, kịch bản
thật hấp dẫn để đề xuất lên chương trình.
Quảng bá du lịch qua internet đang là giải
pháp hiện đại và hiệu quả nhất. Hiện tại, nội
dung về du lịch Cát Bà du khách có thể xem tại
website: , www.haiphong.
org.com.vn, tuy nhiên, những thơng tin trên
website này cịn chưa thực sự phong phú,
khơng được cập nhật liên tục, liên kết website
cịn ít… Do đó cần đầu tư hơn nữa cho giao
diện các website, đồng thời các thông tin cần
phải được cập nhật liên tục để đáp ứng nhu
cầu của du khách. Ngoài ra, hiện nay các trang
mạng xã hội như Facebook, Twitter, YouTube,…
đang rất được ưa chuộng trong giới trẻ, đây
cũng là một kênh quảng cáo nhanh và hiệu
quả nên sử dụng.
Số 32 (Tháng 6 - 2020)

Việc tổ chức các sự kiện, các chương trình
liên hoan chào mừng,… cũng là một cách thức
quảng bá rất hiệu quả. Đây không chỉ là cơ hội

thu hút khách du lịch mà còn là cơ hội tốt để thu
hút các nhà đầu tư đến với huyện đảo Cát Hải.
Thành phố Hải Phòng và huyện đảo Cát Hải
cũng cần chủ động tận dụng thời cơ để tham
gia vào các hội nghị, hội thảo, hội chợ du lịch
trong và ngồi nước để có cơ hội tun truyền,
quảng bá về những sản phẩm đặc trưng của
Cát Bà. Hoặc thành phố có thể tổ chức các hội
thảo về du lịch Cát Bà với chủ đề như sau: “Cát
Bà - Đảo Ngọc vùng Đông Bắc” hoặc “Cát Bà Du lịch xanh”...
Kết luận
Cát Hải là một địa bàn có nhiềm tiềm năng
để phát triển du lịch, đặc biệt là những điều
kiện để phát triển DLCĐ vào mùa thấp điểm.
Những tiềm năng này cần được đánh thức; cần
được chính quyền quản lý; doanh nghiệp, các
tổ chức liên quan, đặc biệt là người dân chung
tay góp sức để biến những tiềm năng đó thành
những sản phẩm du lịch đặc sắc. Đặc biệt hơn
cả, chỉ khi nào người dân được tham gia một
cách sâu rộng vào các hoạt động du lịch thì du
lịch mới có sự phát triển bền vững, đáp ứng tốt
cả nhu cầu của người dân và những hiệu quả
về kinh tế, xã hội, môi trường.
Đ.T.P
Tài liệu tham khảo
1. Dự án EU (2013), Sổ tay du lịch cộng đồng Phương pháp tiếp cận dựa vào thị trường.
2. McKercher and Hillary (2002), Cultural Tourism: the Partnership between Tourism and Cultural
Heritage Management, The Haworth Press, Inc.
3. Võ Quế, Lương Hồng Quang, Võ Chí Cơng

(2006), Du lịch cộng đồng lý thuyết và vận dụng,
tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
4. Viện Nghiên cứu và Phát triển Ngành nghề
Nông thôn (2012), Tài liệu hướng dẫn phát triển
Du lịch cộng đồng.
Ngày nhận bài: 27 - 5 - 2019
Ngày phản biện, đánh giá: 8 - 6 - 2020
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2020

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

103



×