Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Phong cách trang trí trên chuông đồng thời Chúa Nguyễn tại Cố đô Huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (579.07 KB, 7 trang )

NGHỆ THUẬT

PHONG CÁCH TRANG TRÍ TRÊN CHNG ĐỒNG
THỜI CHÚA NGUYỄN TẠI CỐ ĐƠ HUẾ
PHAN LÊ CHUNG

Tóm tắt
Khi tiến hành mở cõi phương Nam, Nguyễn Hoàng và các chúa Nguyễn đời sau đã sử dụng Phật
giáo để an dân trị quốc. Dấu ấn văn hóa Phật giáo với hệ thống chùa được xây dựng và nghệ thuật
đúc chuông đồng tại cố đô Huế đã tạo nên phong cách nghệ thuật độc đáo trong dịng chảy văn hóa
dân tộc. Bài viết nghiên cứu, giới thiệu nghệ thuật đúc chuông đồng và phong cách tạo hình trên
chng đồng thời các chúa Nguyễn mà trong đó mơ-típ trang trí chủ đạo theo tư tưởng “tam giáo
đồng ngun”, trong đó Phật giáo đóng vai trị chủ đạo, thể hiện tư tưởng khoáng đạt, nhân văn của
mỹ thuật thời các chúa Nguyễn tại Cố đô Huế.
Từ khóa: Trang trí, chng đồng, thời chúa Nguyễn, Cố đơ Huế.
Abstract
When the south was in enlarged process, Nguyen Hoang and the later Nguyen lords used Buddhism
as a way to pacify the nation. The Buddhist culture mark with the system of pagodas and the ancient
art of bronze bell casting in Hue former capital that has created a unique art style in the flow of national
culture. The research article introduces the art of bronze bell casting and the style of shaping at the
time of the Nguyen lords, in which the main decorative motifs are followed “three teachings” thinking
and Buddhism plays the main role, this reflects the idea of freedom, humanity in fine arts of the Nguyen
lords in Hue former capital.
Keywords: Decoration, bronze bell, Nguyen Dynasty, Hue Imperial

1. Tạo hình trên một số chuông đồng thời
chúa Nguyễn tại Huế

cần được quan tâm, khai thác trong lĩnh vực
nghiên cứu.


ác chúa Nguyễn đã ghi dấu ấn lịch
sử không chỉ với việc mở rộng bờ cõi
về phía Nam mà cịn có nhiều đóng
góp to lớn về văn hóa nghệ thuật, trong đó
nghệ thuật đúc và chạm khắc trên đồ đồng
được xem là một trong những tinh hoa đặc
sắc tạo nên một nét riêng trong dòng chảy
chung của văn hóa và nghệ thuật dân tộc. Trên
hành trình văn hóa đó, nghệ thuật đồ đồng xứ
Đàng Trong đã có một thời gian dài chưa thực
sự được ghi nhận của giới phê bình cũng như
các nhà nghiên cứu. Và cho đến nay vẫn chưa
có tài liệu nào đi sâu giải nghĩa các đặc tính
tạo hình của các hoa văn trang trí đồ đồng thời
chúa Nguyễn, đây là những hiện vật quý giá

Với chính sách an dân trị quốc, các chúa
Nguyễn rất xem trọng sự ổn định về xã hội bởi
bối cảnh xã hội trong thời kỳ này khá phức tạp.
Để dung hoà xã hội thực tại, các chúa Nguyễn
đã rất khéo léo trong việc sử dụng “tam giáo
đồng nguyên” trong đó lấy Phật giáo làm chủ
đạo. “Trong hồn cảnh của các chúa Nguyễn,
con đường tam giáo rõ ràng, là sự lựa chọn hợp
lý để xây dựng chính quyền (Nho giáo); hồ nhập
vùng đất vốn xa lạ, huyền bí của người mới đến
(Lão giáo); thu hút nhân tâm, trấn an dân tình,
xố nhồ những dị biệt, khoảng cách và hồi
nghi giữa đồn người Nam tiến với người tiền trú
vốn có chung một niềm tin (Phật giáo). Với con

đường này, nhà Chúa đã từng bước tạo nên đối

C

Số 24 - Tháng 6 - 2018

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

47


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

trọng nhưng khơng hề đoạn tuyệt với xứ Đàng
Ngoài về mặt tư tưởng” (4, tr.32).
Trong những ngày đầu đặt chân đến Quảng
Trị, Nguyễn Hoàng đã tiên liệu về việc sử dụng
tín ngưỡng để thu phục lịng dân và Phật giáo
đã được Nguyễn Hoàng cũng như các chúa đời
sau chú trọng phát triển để làm chính sách an
dân trị quốc. Cũng chính bởi vậy, trong thời
gian này, nhiều ngơi chùa đã được thành lập.
Trên tinh thần đó, năm 1601, ngôi chùa Thiên
Mụ đã được xây dựng với sự gửi gắm ước vọng
về một cuộc sống an lành của chúa Nguyễn
cũng như người dân địa phương, Năm 1607,
chùa Bảo Châu ở Quảng Nam cũng được xây
dựng... Nhiều cơng trình liên quan đến Phật

giáo đã được chú trọng xây dựng trong thời
kỳ này. Trải qua hàng nghìn năm dựng nước và
giữ nước, ngơi chùa là sự kết tinh của văn hố.
Hệ thống biểu tượng trang trí tại các ngơi chùa
Việt là một trong những minh chứng tái hiện
rất rõ hiện thực của xã hội, sự giao thoa của
các hệ tư tưởng của Nho giáo, Lão giáo và Đạo
giáo ở một dạng giao lưu tiếp biến mà chúng
ta có thể gọi là “Tam giáo đồng nguyên”. Sự tác
động và giao thoa với các nền văn hóa khác
như Champa, Ấn Độ, Trung Hoa cũng đã ảnh
hưởng đến hệ tư tưởng này trên hành trình
vận động và phát triển, các yếu tố khởi nguyên
thuần Việt cũng ít nhiều có phần bị tác động.
Xét ở mỗi góc độ khác nhau thì các giá trị biểu
tượng ấy cũng có phần thay đổi và biến thể,
song tựu chung thì nó cũng mang đến những
giá trị hiện hữu cho ước vọng của con người
trong hệ tư tưởng minh triết của đạo Phật.
Những giá trị biểu tượng này được thể hiện
phong phú trên các chất liệu như: Gỗ, khảm
sành sứ, nề vữa, đồng, đá,... trong đó những
chiếc chng đồng trong các ngôi chùa được
xem là những minh chứng cho phong cách
tạo hình và trang trí của mỗi thời kỳ. Đây cũng
là một trong những yếu tố nhận diện về đặc
trưng văn hoá và nghệ thuật của mỗi quốc gia
và từng vùng miền.
1.1. Chuông đồng chùa Thiên Mụ (Huế)
Được xây dựng vào năm 1601 dưới thời của

chúa Nguyễn Hoàng, chùa Thiên Mụ được biết
đến như là một câu chuyện huyền thoại của
sự hiển linh báo mộng có sự xuất hiện chân
chúa của một bà già áo đỏ quần xanh, nơi bà
48

Số 24 - Tháng 6 - 2018

cụ xuất hiện chúa đã cho dựng một ngôi chùa
đặt tên là Thiên Mụ (có nghĩa là bà chúa trời).
Đến năm 1710 chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho
đúc một quả Đại Hồng Chung bằng đồng kích
thước rất lớn cao khoảng 2,5m, ngồi ra, chùa
cịn có một cái khánh bằng đồng được đúc vào
năm 1677 dài khoảng 160cm cao 80cm. Đây
được xem là 2 bảo vật của nhà chùa và cũng là
những minh chứng cho nghệ thuật đúc đồng
đỉnh cao thời các chúa Nguyễn. Đại Hồng
Chung chùa Thiên Mụ đã được công nhận là
bảo vật quốc gia Việt Nam.“Đại Hồng Chung là
một cơng trình mỹ thuật rất đặc sắc về mặt trình
bày nhiều mơ-típ của ngành điêu khắc, hội hoạ,
ngồi ra cịn đặc sắc về kỹ thuật đúc đồ đồng cỡ
lớn nữa. So với chuông Gia Long ở gác chuông
cao, ta thấy Đại Hồng Chung của chúa Nguyễn
đã có kỹ thuật đúc đồng láng lẩy tốt hơn rồi. Nếu
so với Đại Hồng Chung của vua Thiệu Trị đúc vào
năm Thiệu Trị thứ 6, Bính Ngọ (1846) hiện còn để
tại chùa Diệu Đế, người ta lại thấy rõ kỹ thuật đúc
đồng dưới thời Minh Vương Nguyễn Phúc Chu đã

đạt tới trình độ tinh xảo nổi bật. Đại Hồng Chung
của chúa Nguyễn rất lớn, hình dáng cân đối, hoa
văn và những mơ-típ trình bày nơi thân chng
được chạm tinh vi, sắc nét” (1, tr.52-53). Nếu
chia theo bố cục ngang thì Đại Hồng Chung
được chia thành 3 phần: Quai chuông, thân
chuông và miệng chuông. Phần đầu tiên là
quai chng được tạo hình bằng đơi rồng nối
đi vào nhau tạo thành phần móc chng.
Riêng phần thân chng cũng có thể chia tiếp
thêm 3 phần nữa, phần trên là 8 chữ Thọ được
viết theo lối chữ triện rất sắc nét.
1.2. Chuông đồng chùa Thiền Tôn (An Tây,
Huế)
Chùa tọa lạc tại phường An Tây, thành phố
Huế. Chùa do Thiền sư Liễu Quán (1667-1742)
khai sáng vào đầu thế kỷ XVIII. Ngôi chùa nằm
ẩn sâu gần chân núi Thiên Thai, lối vào chùa là
một con đường nhỏ. Chùa được trùng tu năm
1746 do ngài trụ trì Tế Hiệp - Hải Điện khởi cơng.
Chưởng Thái giám Đoán tài hầu pháp danh Tế
Ý đứng ra vận động xây dựng ngôi chùa khang
trang, “cũng trong dịp này, mơn đồ và Phật tử do
Đốn tài hầu Mai Văn Hoan làm hội chủ, đã hợp
lực đúc đại hồng chung nặng 855kg, lạc khoản
ở chuông năm Cảnh Hưng bát niên (1747)” (2,
tr.49). Với chiều cao 162cm, chiếc chuông được


NGHỆ THUẬT


tạo dáng lá bồ đề, có 8 ký tự lớn chia đều có 4
ơ với nội dung cầu chúc cho đất nước thịnh
vượng, triều đại trường tồn, phật pháp phát
triển, cuộc sống an lành hạnh phúc. Ơ thứ nhất
có nội dung: 皇圖鞏固 (Hoàng đồ củng cố - Cơ
đồ Vua bền vững), ơ thứ 2 có nội dung: 帝道遐
昌 (Đế đạo hà xương - Đường lối Đế rạng ngời),
ô thứ 3 có nội dung 佛日增輝 (Phật nhật tăng
huy - Mặt trời Phật sáng thêm), ơ thứ 4 có nội
dung: 法輪常轉 (Pháp luân thường chuyển Bánh xe Pháp chuyển mãi). Ngoài ra, trên thân
chng cịn khắc 2 bài kệ là “Khai chung kệ” và
“Khấu chung kệ”. Mơ-típ trang trí trên chng
là các hoa văn theo dạng dây, vành miệng
chng trang trí hoa sen, thân trang trí lá bồ
đề và các chấm hạt, khơng trang trí hoa văn
Thuỷ ba (sóng nước).
1.3. Chng đồng làng An Lưu (Phú Vang,
Huế)
Chuông đồng ở chùa làng An Lưu có lạc
khoản năm 1678, chiều cao tổng thể là 119cm,
trong đó thân chng cao 87cm, quai chng
cao 32cm. Chu vi thân chng là 146,5cm,
đường kính thân chng là 60cm, vành miệng
chuông là 8cm. Phần quai chuông được tạo
dáng cặp bồ lao (một dạng biến thể của rồng)
quay đầu về hai hướng đối xứng nhau, ở giữa
hai điểm nối của cặp bồ lao này là hoa văn kết
hợp chữ vạn và thẻ càn. Đây là chiếc chuông
thuộc vào cỡ trung được đúc dưới thời chúa

Nguyễn Phúc Tần (năm Mậu Ngọ 1678). Theo
lời ông Hà Văn Hùng, một người trông nom
ngôi chùa, chiếc chuông như là một báu vật
của làng, đã được dân làng gìn giữ qua bao
thế hệ. Thân chuông được chia thành 4 múi
bằng nhau thông qua 5 đường chỉ chạy dọc
theo thân chuông tạo thành khối. Quanh vành
dưới gần miệng chng được tạo hình bởi 4
cặp rồng theo bố cục lưỡng long chầu nhật,
phía vị trí gần thân chng được trang trí các
hình chấm theo dạng bố cục hình trịn như
kiểu hoa cúc (có 8 hình bố trí so le chia thành 2
tầng), ở giữa quai chng là hoa văn hình chữ
vạn kết hợp với thẻ càn. Một trong những thủ
pháp nghệ thuật tạo hình trên chiếc chng
này chính là sự kết hợp giữa yếu tố điêu khắc
tượng trịn và phù điêu thơng qua sự kết hợp
các vân mây dạng mảng và phần thân và đầu
rồng ở quai chng, bởi vậy phần tạo hình của

Số 24 - Tháng 6 - 2018

Chuông đồng chùa Sùng An Tự - Thừa Thiên Huế

quai chuông tạo nên một sự sinh động khá
lý thú của hình ảnh rồng vờn mây lúc ẩn lúc
hiện. Giải nghĩa cho việc sử dụng hình tượng
con rồng hoặc bồ lao trên các chng đồng có
nhiều ý kiến cho rằng bồ lao là một con vật có
tiếng gầm lớn nhưng lại rất sợ cá Kình ở biển.

Hình tượng bồ lao đặt trên các đỉnh chuông
đồng và các chày gỗ đánh chng thường
được tạo hình con cá Kình sẽ làm cho bồ lao
sợ quá mà gầm lên với ngụ ý mong muốn rằng
tiếng chuông sẽ kêu to và ngân vang.
2. Một số đặc điểm về phong cách tạo hình
trên chng đồng thời các chúa Nguyễn
2.1. Bố cục tạo hình
Phân chia ơ hộc và tạo hình theo bố cục
hình trịn là một trong những đặc điểm chung
nổi bật của thời kỳ này. Về cấu trúc tổng thể,
chúng ta dễ nhận thấy các hoa văn trang trí
trên đồ đồng thời các chúa Nguyễn thường
được đóng khung trong các dạng ơ hộc và trải
dài theo dạng dải, ram hình theo đường ngang
và thường ơm theo dạng hình trụ ống như lối
tạo hình trên chng và vạc. Tuỳ vào mỗi bố

VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

49


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

Chng đồng làng Hạ Lang - Thừa Thiên Huế

cục khác nhau và hình dáng vật thể khác nhau

mà sự bố trí này cũng được sắp xếp một cách
linh động. Lối diễn hoạt này thường bắt gặp
trong trang trí ở các diềm cửa hoặc đậm đặc
ở hai bên lối vào chính tại các tháp Champa.
Điều này cũng phần nào cho chúng ta thấy sự
giao thoa văn hoá của thời kỳ này với văn hố
Champa bản địa. Ngồi ra chúng ta thường
thấy các chi tiết trang trí thường có lối tạo
hình liên quan hình trịn hoặc theo dạng thức
hình trịn, quy tụ điểm chính tại hình trịn. Rõ
nhất chúng ta thấy trên 11 chiếc vạc đồng thời
chúa Nguyễn tại Huế, các mảng trang trí tuy
nằm trong các khn hình chữ nhật phân theo
ô nhưng các hoạ tiết bên trong gần như chủ
yếu được sắp xếp và bố trí theo dạng hình trịn
hoặc chuyển động theo bố cục hình trịn. Điều
này cũng đã cho chúng tơi một vài suy nghĩ có
sự liên quan nào đó về quan niệm trời trịn đất
vng của người Việt cổ. Ở chuông đồng thời
các chúa Nguyễn phần hình trịn thường tập
trung ở phần núm chng, lối tạo hình thường
là các hạt bi hoặc theo dạng cánh sen. Phần
núm đánh chng thường nằm ở vị trí giao
nhau giữa mảng nét ngang và nét dọc ở vị trí ¼
quả chuông. Đây là một điểm quy tụ về thị giác
cũng như là một điểm trang trí nổi bật nhất
của quả chng. Đồng thời cũng là 1 trong 4
mặt chính của quả chng vì đây là các vị trí
để đánh chng. Các hoạ tiết bố cục hình trịn
50


Số 24 - Tháng 6 - 2018

xoay quanh ở các
phần trang trí núm
chng và một vài
hoạ tiết trang trí ở
gần quai chng,
hoặc ở đỉnh của
quai chng. Đây
cũng là nơi có vị trí
dày nhất trên thân
chng. Với quan
niệm của phương
Đơng, hình trịn
thường là đại diện
cho sự quy tụ, sự
viên mãn và đủ đầy,
là cái bất biến của
khơng gian và thời
gian bởi nó khơng
có điểm bắt đầu và
cũng khơng có điểm kết thúc. Trong quan niệm
của Phật giáo, nó được hiển thị thơng qua hình
ảnh của bánh xe luân hồi thể hiện sự chuyển
động của tạo hố. Trong Phật giáo Thiền tơng,
các vịng trịn đồng tâm biểu hiện cho các giai
đoạn của sự hoàn thiện từ bên trong, sự tự
phát triển của tinh thần. Hình trịn đối với Hồi
giáo được xem là hình tồn vẹn nhất, với người

dân da đỏ ở Bắc Mỹ hình trịn là sự thể hiện
của thời gian… Như vậy, xét theo quan niệm
phương Đơng và phương Tây thì hình trịn
đều mang một ý nghĩa quan trọng không chỉ
về quan niệm mà cịn thể hiện thơng qua các
biểu tượng trong trang trí và kiến trúc. Cũng
chính vì vậy mà các họa tiết trang trí theo bố
cục hình trịn trên các di vật đồ đồng thời chúa
Nguyễn có lẽ ít nhiều gắn liền với một quan
niệm về tín ngưỡng và thẩm mỹ nhất định tạo
nên nét riêng trong phong cách tạo hình của
thời kỳ này. Đây cũng có thể được xem là một
điểm mới đáng chú ý dưới góc độ nghệ thuật
tạo hình. Thơng qua các phương pháp khảo
sát và phân tích thực tế trên các các di vật,
đồng thời sử dụng phần mềm đồ hoạ để xử lý
thì chúng ta thấy một điều thú vị là khi vẽ một
hình trịn giả định thì các hoạ tiết ấy thường
nằm ở bên trong chu vi của hình trịn. Các hoạ
tiết này thường lấy hình tròn làm tâm, các chi
tiết phụ thường xoay hoặc chuyển động xung
quanh tâm tạo ra sự vận động. Về mặt tạo hình,
các yếu tố này tạo ra tính chuyển động về thị


NGHỆ THUẬT

bố cục lặp lại theo kiểu
thức trang trí đường
diềm nhưng họa tiết lại

khơng lặp lại. Điều này
thể hiện tính uy nghiêm
và quy tắc của các
mảng đề tài cung đình
nhưng cũng không
kém phần uyển chuyển
linh hoạt do sự biến
tấu của các hình mảng
trang trí độc lập nhờ sự
mở rộng khơng gian
đa chiều và thay đổi về
kết cấu của bố cục. Sự
chuyển động của nhịp
điệu trong các mảng
Hoa văn trên chuông chùa Thiền Tơn - Thừa Thiên Huế
trang trí này được thể
hiện thơng qua việc bố
trí mảng nặng nhẹ khác
giác làm cho chi tiết trang trí mang tính động.
nhau và đặt để rất hợp lý trên ba vòng của
Vậy đây là một sự ngẫu nhiên hay cố ý? Để lý
thân đỉnh. Dù được bố cục mảng trang trí theo
giải được điều này chúng ta cần căn cứ đặc
hình chữ nhật nhưng các mảng nhỏ này ln
điểm tạo hình thời kỳ này thơng qua bối cảnh
có một đường cong chủ đạo giải quyết được
lịch sử, văn hoá, đặc điểm của phường thợ…
sự mềm mại của khn hình. Đi sâu vào phân
Ngồi ra chúng ta cần lưu ý đến yếu tố giao lưu
tích các mảng chi tiết cụ thể ta thấy đa phần

và tiếp biến văn hố, tín ngưỡng bởi đây chính
được bố trí theo kiểu thức khơng gian ước lệ
là những nhân tố ảnh hưởng đến phong cách
vì vậy các đối tượng được khai thác cũng có
tạo hình cho mỗi giai đoạn trong lịch sử. Các
một góc nhìn riêng đầy lý thú mặc dù khơng
thể thức trang trí hình trịn này liệu rằng có
tuân theo tỷ lệ hiện thực hàn lâm. Đây cũng là
liên quan gì tới bối cảnh lịch sử của Đàng Trong
một yếu tố mang đậm tính dân gian trong các
thời kỳ bấy giờ, khi mà đạo Phật được các chúa
cơng trình của triều đình Nguyễn. Ngồi ra yếu
Nguyễn xem là quốc giáo để đối trọng với Nho
tố dân gian cịn được thể hiện thơng qua hình
giáo ở Đàng Ngồi. Bên cạnh đó, các mơ-tip
ảnh các con vật.
hình trịn và xoắn ốc cũng là một trong những
hoa văn chúng ta có thể tìm thấy trên các di
2.3. Yếu tố đường nét trong trang trí
vật đồ đồng Đơng Sơn… Vậy liệu rằng chúng
Diễn hoạt về nét được xem là một trong
có một mối liên hệ hay liên quan nào đó trong
những
điểm mạnh trong trang trí của thời
phong cách tạo hình và quan niệm thẩm mỹ?
kỳ
này.
Đa
phần chúng ta đều thấy trên thân
Tuy nhiên, dù do yếu tố nào chi phối thì hoa

chng
tỉ
lệ
nét chiếm khoảng gần 2/3 diện
văn trang trí theo thể thức hình trịn trên các
tích
của
phần
trang trí. Bên cạnh các loại nét
di vật đồ đồng thời chúa Nguyễn cũng có nét
kỷ

phân
chia
khơng gian trang trí thì cũng
tạo hình riêng, tạo ra tính đặc thù trong phong

nhiều
hoa
văn
được thể hiện bằng dạng
cách thời kỳ này.
nét diễn hình như các hoa văn hình lá đề trên
2.2. Yếu tố nhịp điệu trong trang trí tạo
các thân chng như chng làng An Lưu,
hình
chng chùa Thuyền Tơn. Mật độ trang trí nét
trên các thân chng thời chúa Nguyễn khá
Nhịp điệu là yếu tố quan trọng mà chúng
đơn giản chứ không cầu kỳ và dày đặc như thời

ta cần phải nhắc đến trong các hình mảng
vua Nguyễn sau này. Phần nét ở các chng
trang trí trên thân chng. Xét về lối tạo hình
đồng thời chúa Nguyễn tập trung ở phần trên
tổng quan thì các mơ-típ trang trí này được

Số 24 - Tháng 6 - 2018

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

51


VĂN HĨA
NGHIÊN CỨU

và gần vị trí miệng chng đóng vai trị như
là một đường hình viền chia tách khơng gian
giữa hình và nền. Ở đây, yếu tố đường nét vừa
là yếu tố diễn hình vừa là yếu tố diễn khối. Lấy
ví dụ cụ thể ở chng làng An Lưu ở hai lớp
nét hoa văn gần miệng chng đã có sự khác
nhau về kích cỡ và loại nét, ở vành dưới thì
diễn hình, phần trên là diễn khối. Sự kết hợp
và đan xen các loại nét cho đến kích cỡ thay
đổi tuỳ theo từng vị trí đã tạo cho những chiếc
chng này có một hệ nét khá phong phú và
đa dạng tạo nên yếu tố hài hoà và cân bằng về
thẩm mỹ.

2.4. Yếu tố chuyển động
Trong các đồ án trang trí trên chuông đồng
thời chúa Nguyễn với lối diễn hoạt khá đơn
giản nhưng tính gợi hình được chúng tơi đánh
giá rất cao, nhịp điệu chuyển động được tạo
nên bởi sự biến thiên về nét và hình.
“Tất cả những sản phẩm của các nghệ sĩ An
Nam đều có hình thức gợn sóng và linh động,
có tính chất trơi chảy và biến hành” (3, tr.20).
Chúng ta có thể cảm nhận được yếu tố chuyển
động trên những chiếc chuông đồng thời
chúa Nguyễn thông qua một số thủ pháp
nghệ thuật sau:
- Thủ pháp hiện thực: Điều này có lẽ được
đặc tả rõ nhất qua hình ảnh của hình sóng
nước (thuỷ ba) ở vành miệng chng của Đại
Hồng Chung chùa Thiên Mụ. Sóng nước được
thể hiện rất sinh động thông qua việc kết hợp
rất khéo léo và tinh tế của bộ nét ngang theo
nhịp điệu diễn tả về chiều rộng và bao la của
biển nước, bộ nét cong tròn tự nhiên, tự do
diễn hoạt những ngọn sóng bạc đầu lớp trên
đầy rung cảm.
“Những ngọn nước vươn lên thấp, cao, dợn
sóng và bắn toé ra đều được chạm gọt tinh xảo.
Lại có những giọt nước bị bắn tung xa hơn, vừa
có tính hiện thực lại vừa có tính mỹ thuật cao…
Ở chng này, những sóng nước dội lên và cong
xuống như hình cây dương xỉ cịn non đúng với
hình sóng nước dợn thực tế, lại đẹp. Nhìn hoa

văn ở chng người ta thấy như đang có dợn
sóng ngay trước mắt. Tính chất gợi hình của hoa
văn thuỷ ba ở đây rất cao” (1, tr.58-59).
52

Số 24 - Tháng 6 - 2018

- Sự biến thiên của các lớp nét: Trên các
thân chng trang trí trong thời kỳ này, có thể
nói rằng sự biến thiên của các lớp nét được các
nghệ nhân xưa thể hiện rất tinh tế. Yếu tố biến
dị của các hoa văn cũng làm nên một bố cục.
- Cấu trúc bố cục: Nếu để ý kỹ của các hoa
văn thời chúa Nguyễn ta thấy rõ các bố cục
ln phá vỡ tính đăng đối, các mảng hình
tưởng chừng như đăng đối nhau nhưng lại có
nhiều điểm khác nhau, vì vậy trên thân những
chiếc chng này ln có tính chuyển động. Kể
cả trên những đề tài lưỡng long chầu nhật trên
chiếc chuông đồng An Lưu, Đại Hồng Chung
chùa Thiên Mụ bên cạnh cách tạo hình thời kỳ
này thiên về lối tạo hình đăng đối giả tạo nên
sự linh hoạt về mặt bố cục, chính những yếu
tố này đã tạo nên yếu tố chuyển động của các
lớp nét và hình trang trí trên thân chng. Bên
cạnh đó, sự diễn hoạt về dáng như ở bộ tứ linh
trên chuông đồng La Chữ đã tạo cho người
xem một sự chuyển động về ảo giác.
3. Đôi điều kết luận
Ngay từ khi vào trấn thủ xứ Thuận Hố,

Nguyễn Hồng đã sử dụng Phật giáo làm tín
ngưỡng chủ đạo kết hợp với Nho giáo và Lão
giáo thoáng đạt hơn tư tưởng Nho giáo chúa
Trịnh ở Đàng Ngoài. Đây là một hướng đi rất
“khéo léo” của Nguyễn Hồng trong chính
sách an dân trị quốc. Theo đó nhiều ngôi chùa
được dựng lên tại xứ sở Đàng Trong; số lượng
chng đồng vì vậy mà cũng được hình thành
rất nhiều trong thời kỳ này. Về mặt tạo hình,
trên các chng đồng đều có mơ-típ trang
trí mang hướng tư tưởng “tam giáo đồng
nguyên” mà Phật giáo là chủ đạo. Với đường
lối cai trị thống đạt trong mơi trường mới, các
di dân vào Nam mỗi người từ các địa phương
khác nhau tụ họp lập làng sản xuất, nề nếp
phong tục tập qn đã có những sự giao thoa
phát triển mới khơng bị gị bó cứng nhắc như
ở những địa phương cũ. Nguyễn Hoàng đã tạo
ra nhiều đợt di dân vào Thuận Hố với chính
sách hỗ trợ khai khẩn vùng đất mới. Cái chung
nhất của dân di cư là thờ cúng tổ tiên, Thành
Hồng, lập làng mới, trên cơ sở đó, sự giao lưu
với các dân tộc bản địa như Champa thuộc
ngữ hệ Mahayo - Polynesie, các dân tộc miền
núi Tà Ôi, Pacô, Bru Vân kiều, Cơ Tu,… là điều
kiện để văn hoá người Việt cổ, người Việt đi vào


NGHỆ THUẬT


Đàng Trong hỗn hợp với các dân tộc chung
làm thành một nền văn hố đặc sắc, khác với
Đàng Ngồi. Tính chất của nền văn hố mới đó
thống đạt, nhân văn đã làm tư tưởng chủ đạo
cho những sản phẩm nghệ thuật thời kỳ này.
Đề cập đến đồ đồng thời các chúa Nguyễn có
lẽ đây vẫn là một “khoảng trống” cịn bỏ ngỏ,
đặc biệt dưới góc độ tạo hình thì ít nhiều vẫn
chưa được chú trọng đi sâu phân tích và kiến
giải. Một trong những nét đặc trưng mà chúng
ta có thể nhận diện đó là các dạng thức trang
trí trên đồ đồng thời kỳ này thường bố trí theo
ơ hộc và chạy theo hình dải, điều này được
thể hiện rõ nhất qua các di vật như Đại Hồng
Chung (chùa Thiên Mụ), hệ thống 11 chiếc
vạc đồng thời các chúa Nguyễn. Ngồi ra, việc
khảo cứu thực địa trên các chng đồng thời
kỳ này cho chúng tôi thấy rằng: Phong cách
trang trí đồ đồng ở thời kỳ này chưa mang tính
quy phạm chặt chẽ như thời vua Nguyễn sau
này; chủ đề trang trí mang đậm tính dân gian
bởi phụ thuộc khá nhiều vào các nhóm thợ. Lối
trang trí thường thiên về diễn nét chứ không
theo lối đặc tả về đối tượng, các lớp mảng
cũng đơn giản ít lớp. Khơng gian chính gần
như để trống, chỉ một vài mảng hình là có bố
trí các lớp khơng gian phụ để diễn tả viễn cận.
Đồ đồng thời các chúa Nguyễn Đàng Trong
không lớn - phần lớn đồ đồng thời các chúa
Nguyễn nhằm phục vụ tơn giáo nhất là Phật

giáo và tín ngưỡng thờ cúng của làng xã. Do
đó các hiện vật hiện cịn tồn đọng nhiều nhất
ở các chùa và đồ thờ cúng tại làng và tư gia.
Thời kỳ các chúa Nguyễn được xem là bệ đỡ
cho sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật trang
trí trên đồ đồng thời Nguyễn sau này. Đồ đồng
thời các chúa Nguyễn mang đậm những nét
yếu tố đặc trưng, phản ánh bối cảnh văn hoá
và quan điểm thẩm mỹ của xứ Đàng Trong thời
kỳ bấy giờ.
Trong mối tương quan chung về lĩnh vực
văn hoá nghệ thuật, các chúa Nguyễn đã có
nhiều đóng góp trong cơng cuộc định hình và
phát triển xứ Đàng Trong, nâng cao vị thế và
tầm ảnh hưởng của đất nước với các quốc gia
khác trong khu vực. Việc tìm hiểu các yếu tố
văn hố, xã hội sẽ phần nào lý giải cho chúng
ta biết được ý nghĩa biểu tượng qua các đồ án
trang trí trên các di vật, trong đó nghệ thuật
trang trí trên những chiếc chuông đồng được
Số 24 - Tháng 6 - 2018

xem là một trong những điểm nhấn tiêu biểu
trong bức tranh chung nghệ thuật tạo hình đồ
đồng người Việt. Điều này cung cấp cho chúng
ta những giá trị mỹ cảm, đồng thời phản ánh
được sắc thái về bối cảnh văn hoá xã hội thời
chúa Nguyễn. Từ việc đi sâu nghiên cứu thời
chúa Nguyễn sẽ giúp cho chúng ta mở rộng
hơn về biên độ và phạm vi nghiên cứu về

chiều rộng và chiều sâu, khẳng định nghệ
thuật tạo hình thời chúa Nguyễn đủ tư cách để
khẳng định mình trong bề dày lịch sử văn hố
của dân tộc. Q trình đánh giá và nhận xét
về góc độ tạo hình của thời chúa Nguyễn cần
phải quan sát trên bình diện rộng về tổng thể,
phải nhìn nhận từ nhiều góc độ khác nhau và
tránh đi vào tiểu tiết.
Dẫu vẫn biết cịn đâu đó những ý kiến cá
nhân trái chiều hoặc khác quan điểm, song
dưới góc độ văn hố và nghệ thuật tạo hình,
tác giả nhận thấy rằng nghệ thuật thời kỳ này
chứa đựng nhiều vấn đề thú vị cần bàn luận.
Và trong hành trình này cần có sự chung tay
góp sức của các cơ quan ban ngành, các nhà
nghiên cứu trong các lĩnh vực văn hố, lịch sử,
nghệ thuật trong cả nước. Điều này góp phần
làm sáng tỏ hơn các giá trị văn hoá nghệ thuật
truyền thống dân tộc trong đó có sự đóng góp
của mỹ thuật thời các chúa Nguyễn.
P.L.C
(ThS., Trường ĐH Nghệ thuật - ĐH Huế)
Tài liệu tham khảo
1. Hà Xuân Dương (1999), Kiến trúc chùa Thiên
Mụ, Nxb. Đà Nẵng.
2. Thích Kiên Định (2013), Lược sử chùa Thiền
Tôn và Tổ Liễu Quán truyền thừa, Nxb. Tôn giáo, Hà
Nội.
3. Những người bạn Cố đô Huế (B.A.V.H), tập VI
(1919), Nxb. Thuận Hoá, Huế.

4. Nguyễn Hữu Thông (2014), Mỹ thuật thời
chúa Nguyễn dẫn liệu từ di sản lăng mộ, Nxb.
Thuận Hoá, Huế.
Ngày nhận bài: 10 - 4 - 2018
Ngày phản biện, đánh giá: 16 - 6 - 2018
Ngày chấp nhận đăng: 25 - 6 - 2018

VĂN HÓA
NGHIÊN CỨU

53



×