Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRONG NGÀNH Y TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (200.34 KB, 21 trang )

TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ TRONG NGÀNH Y TẾ
I. ĐẦU TƯ VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ ĐỐI VỚI NGÀNH Y TẾ
1. Đầu tư - khái niệm và đặc điểm
a/ Khái niệm đầu tư
Đầu tư nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt
động nào đó nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai
lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài
sản vật chất (nhà máy, đường xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ (trình
độ văn hoá, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có đủ điều kiện
để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt được kể trên, những kết quả là các tài sản vật chất,
tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi lúc, mọi
nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế xã hội. Những
kết quả này không chỉ người đầu tư mà cả nền kinh tế và cả cộng đồng được thụ
hưởng.
Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, chúng ta có các
loại đầu tư sau:
Đầu tư tài chính là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay
hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua lãi
suất Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh
của công ty phát hành. Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền
kinh tế mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân người đầu tư.
Tuy nhiên, đầu tư tài chính là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát
triển.
Đầu tư thương mại là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua
hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận chênh lệch. Loại đầu
tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế mà chỉ làm tăng tài sản tài
chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao sở hữu hàng
hoá. Đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất


do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách,
tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh dịch vụ nói riêng và cho nền
sản xuất xã hội nói chung.
Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động là đầu tư trong đó người có tiền bỏ
ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng
năng lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu
để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là
việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm
trang thiết bị ...
Theo nghĩa hẹp, đầu tư chỉ bao gồm các hoạt động sử dụng các nguồn lực ở
hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn
các nguồn đã sử dụng để đạt được những kết quả đó.
Như vậy, nếu xét trên phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng các
nguồn lực ở hiện tại để trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực và
tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt động của các tài sản và nguồn nhân lực sẵn có
thuộc phạm trù đầu tư theo nghĩa hẹp hay phạm trù đầu tư phát triển.
Tóm lại, đầu tư phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,
nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và
cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực
hiện chi phí thường xuyên gắn liền với hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì
tiềm lực hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế
xã hội, tạo việc làm và nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội.
Đầu tư trong ngành y tế là một lĩnh vực đầu tư đặc biệt. Nếu như trong các
đơn vị sản xuất kinh doanh, mục đích của đầu tư là lợi nhuận, là thu nhập của
người đầu tư; trong giáo dục đào tạo, mục đích của đầu tư là trí tuệ, là kiến thức, là
trình độ tăng thêm thì trong y tế, mục tiêu của đầu tư là sức khoẻ cộng đồng. Kết
quả của hoạt động đầu tư y tế là số người được cứu chữa, giảm mắc và chết do
bệnh tật, ốm đau, là chất lượng sức khoẻ người dân được tăng lên. Tuy nhiên, khi
nói đến vai trò y tế, ta phải nói đến vai trò gián tiếp của nó, đó là cái mà nền kinh
tế xã hội được nhận do sức khoẻ con người đem lại, là năng suất lao động tăng

thêm, là việc giảm các chi phí mà xã hội phải bỏ ra nếu như có quá nhiều người
dân mắc bệnh và chết vì bệnh tật.
Xuất phát từ khái niệm chung về đầu tư phát triển ta thấy đầu tư cho y tế
cũng là một lĩnh vực hoạt động của đầu tư phát triển. Đầu tư y tế là hoạt động sử
dụng các nguồn lực tài chính, nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để
xây dựng cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, bồi dưỡng, đào tạo nhân lực,
thực hiện các chi phí thường xuyên khác nhằm mục đích nâng cao sức khoẻ cộng
đồng. Đây là một lĩnh vực đầu tư đặc biệt vì nó ảnh hưởng đến sự phát triển của tất
cả các ngành khác và ảnh hưởng trực tiếp đến trình độ phát triển của cả nền kinh tế
xã hội.
Bảo vệ sức khoẻ cộng đồng vừa là biện pháp, vừa là mục đích của quá trình
phát triển kinh tế, xã hội. Trong mọi hoạt động, từ lao động chân tay đến lao động
trí óc, từ việc học tập nghiên cứu đến sản xuất kinh doanh con người đều cần đến
sức khoẻ. Có sức khoẻ, con người mới có khả năng lao động tạo ra của cải, vật
chất, nâng cao chất lượng cuộc sống. Nếu không có sức khoẻ thì không những họ
không thể làm việc và cống hiến cho xã hội mà còn trở thành gánh nặng của xã
hội. Trong khi đó, con người lao động sản xuất và tạo ra của cải vật chất là để phục
vụ những nhu cầu của mình, để nâng cao chất lượng cuộc sống mà một trong
những tiêu chuẩn quan trọng nhất để đánh giá chất lượng cuộc sống đó là sức khoẻ.
Như vậy, sức khoẻ vừa là phương tiện, vừa là mục đích của quá trình phát triển
kinh tế, xã hội. Do đó, ngành y tế là một ngành đặc biệt quan trọng vì nó có chức
năng bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ cộng đồng. Nói cách khác, ngành y tế vừa tạo
điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội vừa tạo ra kết quả trực tiếp cho
quá trình đó.
b/ Vốn đầu tư.
Đối với đầu tư của một quốc gia nói chung, vốn đầu tư được hiểu là tiền tích
luỹ của xã hội, của các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ, là tiền tiết kiệm của dân
cư và vốn huy động từ các nguồn khác được đưa vào sử dụng trong quá trình tái
sản xuất xã hội nhằm duy trì tiềm lực sẵn có và tạo ra các tiềm lực mới cho nền sản
xuất xã hội. Đối với các nước nghèo, để phát triển kinh tế, và từ đó thoát khỏi cảnh

nghèo thì một vấn đề nan giải ngay từ đầu là thiếu vố gay gắt và thiếu các điều
kiện khác cho sự phát triển như công nghệ, cơ sở hạ tầng... Do đó trong những
bước đi ban đầu, để tạo ra được cái “hích” đầu tiên cho sự phát triển, để có được
tích luỹ ban đầu từ trong nước, không thể không huy động vốn nước ngoài. Không
có một nước chậm phát triển nào trên con đường phát triển lại không tranh thủ
nguồn vốn đầu tư nước ngoài, nhất là trong điều kiện nền kinh tế mở.
Đối với một quốc gia, vốn đầu tư được hình thành từ hai nguồn chính, đó là
nguồn trong nước và nguồn nước ngoài. Nguồn trong nước bao gồm: vốn tích luỹ
từ ngân sách, vốn tích luỹ từ doanh nghiệp và tiền tiết kiệm của dân cư. Đây là
nguồn vốn quan trọng và khá ổn định, đóng vai trò trọng yếu trong việc thực hiện
các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vốn nước ngoài bao gồm:
vốn đầu tư trực tiếp và vốn đầu tư gián tiếp. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp có các
hình thức như: hợp đồng hợp tác kinh doanh, công ty 100% vốn nước ngoài, công
ty liên doanh; vốn đầu tư gián tiếp bao gồm các hình thức: viện trợ không hoàn lại,
hợp tác, vay ưu đãi, vay thương mại... Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh
tế nước ta còn chưa phát triển, tích luỹ trong nước còn nhỏ thì vốn đầu tư nước
ngoài là đòn bẩy quan trọng để phát triển kinh tế và xã hội. Tuy nhiên, để có thể
phát huy tác dụng cơ sở vật chất kỹ thuật của vốn đầu tư nước ngoài đối với sự
phát triển kinh tế, ta lại cần một khối lượng vốn đầu tư trong nước đủ lớn. Tỷ lệ
giữa vốn đầu tư huy động được ở trong nước để tiếp nhận và sử dụng có hiệu quả
vốn nước ngoài tuỳ thuộc vào đặc điểm và điều kiện phát triển kinh tế xã hội của
mỗi nước. ở Việt Nam theo các nhà kinh tế, tỷ lệ này phải là 2:1.
Trong y tế, vốn đầu tư cũng được hình thành từ hai nguồn: trong nước và
ngoài nước, trong đó vốn đầu tư trong nước là chính, đặc biệt là nguồn ngân sách
Nhà nước. Hiện nay nguồn ngân sách Nhà nước chiếm khoảng 70% tổng vốn đầu
tư cho ngành y tế. Nguồn vốn từ bảo hiểm y tế và viện phí cũng ngày càng tăng và
giữ vai trò khá quan trọng. Vốn đầu tư từ nước ngoài cho đến nay bao gồm vốn
vay, viện trợ, liên doanh, 100% vốn nước ngoài...
Hoạt động đầu tư cho y tế bao gồm:
- Đầu tư xây dựng hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh.

- Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực y tế.
- Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế.
- Đầu tư thực hiện các chương trình y tế quốc gia.
- Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách y tế, các biện
pháp quản lý y tế, hành lang pháp lý cho ngành y tế...
Đầu tư xây dựng hệ thống phòng bệnh và khám chữa bệnh là hoạt động đầu
tư nhằm xây dựng các cơ sở y tế từ trung ương đến địa phương bao gồm hệ thống
phòng bệnh như: các viện vệ sinh dịch tễ, các cơ sở y tế dự phòng và hệ thống
chữa bệnh như các bệnh viện, viện điều dưỡng và các y tế cơ sở. Hệ thống y tế
được sắp xếp khoa học, gần gũi với người dân sẽ tạo điều kiện cho người dân dễ
dàng sử dụng các dịch vụ y tế, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đầu tư đào tạo nguồn nhân lực là một lĩnh vực đầu tư quan trọng trong
ngành y tế. Đội ngũ cán bộ y tế giỏi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, có khả
năng tiếp cận với những kỹ thuật y tế hiện đại và có y đức cao là điều kiện tiên
quyết đối với kết quả của hoạt động y tế. Nguồn nhân lực y tế đủ về số lượng,
mạnh về chất lượng đang là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển ngành
y tế Việt Nam.
Đầu tư mua sắm trang thiết bị y tế là hoạt động đầu tư nhằm cung cấp trang
thiết bị cho các cơ sở y tế. Trong thời đại hiện nay, khoa học công nghệ phát triển
với một tốc độ chóng mặt và có tác động không nhỏ đến hoạt động y tế. Nhờ có
khoa học công nghệ mà rất nhiều bệnh dịch bị đẩy lùi, nhiều bệnh trước đây không
phát hiện ra hoặc không có khả năng chữa trị nay đã được chẩn đoán và điều trị kịp
thời. Vì vậy, khi lập kế hoạch đầu tư cho y tế cần xem xét và giành một phần kinh
phí thoả đáng cho mua sắm trang thiết bị y tế.
Đầu tư thực hiện các chương trình y tế quốc gia là đầu tư của Nhà nước, lấy
kinh phí từ ngân sách Nhà nước (bao gồm cả nguồn viện trợ). Mục đích của các
chương trình y tế quốc gia là tiêu diệt hoặc đẩy lùi các bệnh dịch lớn, các bệnh lây
truyền hoặc bệnh xã hội có ảnh hưởng trên diện rộng. Đây là một lĩnh vực hoạt
động quan trọng của ngành y tế bởi vì nó có tác dụng rộng rãi và ảnh hưởng mạnh
đến các chỉ số về sức khoẻ của cộng đồng trong một quốc gia.

Đầu tư nghiên cứu, xây dựng và ban hành các chính sách y tế là việc đầu tư
cho các cơ quan chức năng nhằm nghiên cứu và đưa ra hành lang pháp lý cho
ngành y tế bao gồm các chính sách về biện pháp quản lý trong ngành y tế, các
chính sách về viện phí, chế độ thu viện phí và bảo hiểm y tế, các chính sách về thu
nhập đối với nhân viên y tế, chế độ quản lý bệnh viện, phát triển y tế tư nhân,
chính sách về quản lý thuốc...
c/ Đặc điểm của hoạt động đầu tư phát triển.
• Hoạt động đầu tư phát triển thường đòi hỏi khối lượng vốn lớn, vốn này
nằm khê đọng trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Khác với hoạt động
đầu tư tài chính và đầu tư thương mại, vốn nhỏ, ít rủi ro và có thể nhanh
chóng sinh lời, vốn cho đầu tư phát triển thường lớn và không sinh lời
trong suốt quá trình thực hiện đầu tư. Khi rủi ro trong hoạt động đầu tư
phát triển xảy ra thì mất mát rất lớn.
• Hoạt động đầu tư phát triển là hoạt động có tính chất lâu dài. Thời gian
cần thiết để tiến hành một công cuộc đầu tư cho đến khi các kết quả của
nó phát huy tác dụng thường kéo dài nhiều năm và chịu ảnh hưởng của
các biến đổi của môi trường tự nhiên cũng như môi trường kinh tế xã hội.
Thời gian vận hành các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn hoặc đến khi
thanh lý tài sản cũng kéo dài và chịu tác động của nhiều yếu tố không ổn
định.
• Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng sẽ hoạt
động ngay ở nơi mà chúng được tạo nên. Do đó, các điều kiện về địa lý,
địa hình sẽ ảnh hưởng không chỉ đến quá trình thực hiện đầu tư mà còn
ảnh hưởng đến sự hoạt động của các kết quả đầu tư sau này.
• Do yêu cầu về vốn lớn, thời gian thực hiện kéo dài nên hoạt động đầu tư
phát triển dễ gặp rủi ro trong quá trình thực hiện và gây hậu quả lớn cho
nền kinh tế xã hội.
2. Vai trò của đầu tư phát triển
a/ Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế quốc dân
Hoạt động đầu tư có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế xã hội của

một quốc gia. Đối với nền kinh tế xã hội, đầu tư góp phần thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế cũng như của toàn xã hội.Trong một nền kinh tế, hoạt động đầu tư
có thể được coi là việc cung cấp các chất bổ dưỡng cần thiết cho một cơ thể sống.
Nếu không có hoạt động đầu tư, cơ thể ấy sẽ trở nên què quặt, ốm yếu và không có
sức sống.
Vai trò của đầu tư phát triển đối với nền kinh tế được thể hiện trong các mặt
sau đây:
Đầu tư vừa có tác động đến tổng cung, vừa có tác động đến tổng cầu của nền
kinh tế. Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền
kinh tế. Theo số liệu của Ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm khoảng 24 -
28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Khi thành quả của đầu
tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là
tổng cung dài hạn tăng lên làm thúc đẩy sản lượng của nền kinh tế.
Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế. Sự tác động không đồng
thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung của nền kinh tế làm
cho mỗi sự thay đổi của đầu tư, dù là tăng hay giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố
duy trì sự ổn định, vừa là yếu tố phá vỡ sự ổn định nền kinh tế của mọi quốc gia.
Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Kết quả nghiên
cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ phát triển kinh tế ở mức trung
bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được từ 15- 25% so với GDP tuỳ thuộc vào ICOR của
mỗi nước.
Từ đó suy ra:
Nếu ICOR không thay đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu
tư.
Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Kinh nghiệm của các
nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để tăng trưởng nhanh là tăng cường
đầu tư nhằm tạo ra sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Như
vậy, chính sách đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc
gia nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh ở toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh
thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng

lãnh thổ. Đưa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, phát huy
tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế, chính trị,... của những
vùng có khả năng phát triển nhanh hơn làm bàn đạp cho những vùng khác phát
triển.
Đầu tư góp phần tăng cường khả năng khoa học và công nghệ của đất nước.
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự
phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Chúng ta đều
biết rằng có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu phát minh ra
công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước
ngoài đều cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công
nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi.
ICO
Vốn
Mức
Vốn
Mức tăng
ICO

×