Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯƠC NGOÀI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.91 KB, 23 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HÌNH THỨC ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯƠC NGOÀI.
I. Khái niệm về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI):
1. Khái niệm về FDI:
Mặc dù không có nhiều tranh luận xung quanh khái niêm FDI, nhưng cho đến
nay chưa có khái niệm nào được coi là hoàn chỉnh. Hiện nay trên nhiều sách báo
tạp chí của các tổ chức quốc tế cũng như Chính Phủ các nước có tương đối nhiều
định nghiã về đầu tư trực tiếp nước ngoài, như định nghĩa của Ngân hàng thế giới
(WB) thì FDI là đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại lãi suất từ 10% trở lên.
Theo giáo trình Kinh tế đầu tư của Trường Đại học Kinh tế quốc dân PGS.TS
Nguyễn Ngọc Mai làm chủ biên thì đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là vốn của
các doanh nghiệp và cá nhân nước ngoài đầu tư sang các nước khác và trực tiếp
tham gia quản lý quá trình sử dụng thu hồi vốn bỏ ra.
Đến nay khái niệm mà nhiều nước và các tổ chức hay dùng nhất là khái niệm do
Quỹ tiền tệ quốc tế đưa ra năm 1977, đó là: ‘Đầu tư trực tiếp nước ngoài là vốn
thực hiện nhằm thu về những lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp hoạt động ở nền
kinh tế khác với nền kinh tế thuộc đất nước của nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu
tư là giành được tiếng nói có hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó’.
Định nghĩa này nhấn mạnh động cơ đầu tư và phân biệt FDI với đầu tư gián tiếp.
Đầu tư gián tiếp có đặc trưng cơ bản là nhằm thu được lợi nhuận từ việc mua bán
tài sản, tài chính nước ngoài, nhưng nhà đầu tư không quan tâm đến quá trình quản
lý doanh nghiệp.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc trung là :
Đầu tư trực tiếp nước ngoài mặc dù chịu chi phối của Chính Phủ, nhưng có
phần ít bị phụ thuộc vào mối quan hệ chính trị giữa hai bên so với hình thức tín
dụng quốc tế.
Bên nước ngoài trực tiếp tham gia quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, nên
họ trực tiếp kiểm soát sự hoạt động và đưa ra những quết định có lợi nhất cho việc
đầu tư. Vì vậy mức độ khả thi của công cuộc đầu tư khá cao, đặc biệt trong việc
tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.
Do quyền lợi của chủ đầu tư nước ngoài gắn chặt với lợi ích do đầu tư đem lại,


cho nên có thể lựa chọn kỹ thuật, công nghệ thích hợp, nâng cao dần trình độ quản
lý, tay ngề cho công nhân ở nước tiếp nhận đầu tư.
Tuy nhiên hoạt động này cũng có những hạn chế nhất định, đó là:
Do hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài diễn ra theo cơ chế thị trường, người
đầu tư nước ngoài lại có nhiều kinh nghiệm sành sỏi trong việc ký kết hợp đồng,
dẫn đến sự thua thiệt cho nước tiếp nhận đầu tư là những nước đang phát triển.
Với đầu tư trực tiếp nước ngoài phía chủ nhà (nước nhận đầu tư) không chủ động
trong việc bố trí cơ cấu ngành, cũng như theo vùng lãnh thổ. Để điều chỉnh hành vi
và trách nhiệm giữa các bên cần dựa trên những cơ sở pháp lý chắc chắn của Luật
đầu tư trực tiếp nước ngoài cũng như các văn bản pháp lý có liên quan của nước
tiếp nhận đầu tư.
Những khái niệm và đặc trưng của FDI ở trên đây sẽ là cơ sở quan trọng để tiếp
tục nghiên cứu tác động của nó đến nước đang phát triển là nước tiếp nhận đầu tư.
2. Vai trò của FDI đối với các nuớc nhận đầu tư là nước đang phát triển:
Sự ảnh hưởng của FDI đối với việc chuyển giao kinh tế ở các nước đang phát
triển là trung tâm thảo luận của các nhà kinh tế thế giới. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cưú nhằm trả lời câu hỏi FDI trợ giúp hay kìm hãm sự phát triển của các
nước đang phát triển?
Hiện đã có nhiều trường phái đã và đang tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi trên.
Trường phái cổ điển (Classical school), trường phái Phụ thuộc (Dependency
school), trường phái thương lượng (Bargining school) và trường phái cấu trúc
(Structuralist school)…Các trường phái này có những quan điểm khác nhau, thậm
chí trái ngược nhau về tác động của FDI đến các nước đang phát triển. Cụ thể là:
Các nhà kinh tế thuộc trường phái cổ điển ủng hộ quan điểm cho rằng FDI có
ảnh hưởng tích cực đến các nước đang phát triển thông qua việc chuyển vốn, ngoại
tệ, kỹ năng quản lý và các yếu tố đầu vầo khác mà các nước đang phát triển còn
thiếu, tăng nhanh quá trình tích lũy vốn trong nước, thúc đẩy xuất khẩu và tăng
trưởng kinh tế. Chẳng hạn Harry Johnson cho rằng: ‘ FDI mang lại cho các nước
tiếp nhận: tư bản trọn gói với giá rẻ, công nghệ tiên tiến, khả năng quản lý và
những kiến thức ưu việt về thị trường nước ngoài cho cả các sản phẩm cuối cùng

lẫn các hàng hoá tư bản, các yếu tố đầu vào trung gian và nguyên liệu thô…’.
Học thuyết của phái phụ thuộc tranh luận rằng đầu tư nước ngoài từ các nước
công nghiệp vào các nước đang phát triển để khai thác nguồn lao động rẻ và nguồn
tài nguên thiên nhiên phong phú của các nước này. Còn các nước nhận đầu tư sẽ
nhận được ít lợi ích từ việc chuyển giao này, thay vì họ trở thành việc phụ thuộc
vào các nước đầu tư.
Tuy nhiên thực tế xảy ra đã không ủng hộ thuyết phụ thuộc: Một số nước đang
phát triển có lượng FDI vào lớn đã có tăng trưởng kinh tế cao, công nghiệp phát
triển mạnh.
Vào những năm của thập kỷ 70, hiện tượng phổ biến của các nước đang phát
triển là vay vốn nước ngoài, tuy nhiên các cuộc khủng hoảng nợ vào những năm
của thập kỷ 80 đã buộc các nước này thay đổi thái độ với đầu tư trực tiếp nước
ngoài, đã xuất hiện một quan điểm mới trong phái “Những nhà kinh tế chính trị
quốc tế” – những người đầu tiên có quan điểm ủng hộ mô hình “Phát triển phụ
thuộc”. Quan điểm mới này gắn với cả hai phái là: Phái các nhà kinh tế học cổ điển
(cho rằng: đầu tư nước ngoài thực sự có có ảnh hưởng tích cực đến các nước đang
phát triển) và phái Macxit (cho rằng xuất khẩu vốn đầu tư như là một tác nhân đến
quá trình tích luỹ vốn phát triển trên thế giới bao gồm cả thế giới thứ ba). Đặc biệt
là, quan điểm mới đã đưa ra một cách nhìn rộng hơn và năng động hơn về đầu tư
nước ngoài, đánh giá sự đóng góp của nó đến sự phát triển chủ nghĩa tư bản nói
chung hơn là đến các chỉ tiêu kinh tế tĩnh và độc lập.
Trường phái thương lượng cho rằng sự phân phối lợi ích giữa các công ty đa
quốc gia và các nước đang phát triển phụ thuộc và sự thương lượng giữa Chính
phủ của nước nhận đầu tư với các công ty nước ngoài. Trường phái này đưa ra sự
giải thích tốt hơn so với truờng phái cổ điển: do những yếu kém về cơ cấu của các
nước kém phát triển, nên đã nẩy sinh những khó khăn trong việc nhận các lợi ích
chuyển giao thông qua FDI. So với trường phái phụ thuộc, thì trường phái thương
lượng có nhận thức tốt hơn về khả năng thực tế của các nước đang phát triển đó là:
để tăng năng lực thương lượng, các nước đang phát triển đã học tập những kỹ năng
quản lý và chuyên môn tiên tiến thông qua FDI, nâng dần trình độ của mình từ việc

làm chủ các ứng xử công nghiệp đến việc mô phỏng lại các chức năng tổ hợp phức
tạp. Tuy nhiên trường phái này chưa giải thích được một cách đầy đủ những vấn đề
phân phối lợi ích nội bộ, chưa trả lời được câu hỏi những tầng lớp nào trong xã hội
thực sự được hưởng lợi ích thu được từ FDI?…
Tóm lại, không thể khẳng định ảnh hưởng chắc chắn của đầu tư trực tiếp nước
ngoài đến các nước đang phát triển theo một khuôn mẫu chung được. ảnh hưởng
này vào từng nước sẽ khác nhau, thậm chí từng ngành , từng doanh nghiệp cũng sẽ
khác nhau. Chẵng hạn như : ảnh hưởng của FDI vào các ngành thay thế nhập khẩu
sẽ rất khác với vào ngành công nghiệp theo hướng xuất khẩu, hoặc là cùng hình
thức đầu tư nhưng có thể ảnh hưởng khác nhau tuỳ thuộc vào chính sách của Chính
phủ và khả năng thu hút của nước tiếp nhận vốn đầu tư qua từng thời kỳ. Nhìn
chung có thể khái quát những lợi thế và hạn chế của FDI đối với các nước đang
phát triển là nước tiếp nhận đầu tư như sau:
2.1.Những lợi thế:
a>FDI là một trong những nguồn quan trọng để bù đắp sụ thiếu hụt vốn và ngoại
tệ:
Hầu hết các nước kém phát triển đều rơi vào cái vòng luẩn quẩn đó là: thu nhập
thấp dẫn đến tiết kiệm thấp, vì vậy đầu tư thấp và rồi hậu quả lại là thu nhập thấp.
Tình trạng luẩn quản này chính là điểm nút khó khăn nhất mà các nước này phải
vượt qua để hội nhập vào quỹ đạo tăng trưởng kinh tế của nền kinh tế hiện đại.
Nhiều nước lâm vào tình trạng trì trệ của sự nghèo đói bởi lẽ không lựa chọn và tạo
ra được điểm đột phá chính xác vào cái vòng luẩn quẩn này. Trở ngại lớn nhất để
thực hiện được điều đó của các nước kém phát triển chính là vốn và kỹ thuật. Vốn
là cơ sở để tạo ra công ăn việc làm trong nước và đổi mới kỹ thuật, tăng năng suất
lao động…từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích luỹ cho nền kinh tế. Tuy nhiên
để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào tích luỹ nội bộ thì hậu quả khó
tránh khỏi là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của taòan thế giới. Do vậy vốn
nước ngoài sẽ là một “cú huých” để đột phá cái “vòng luẩn quẩn” này. Trong đó
FDI là một nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà ít gây nợ nần.
Theo lý thuyết “Hai lỗ hổng” của Cherery và Strout (1966) thì có hai cản trở

chính cho sự tăng trưởng của một quốc gia đó là: Tiết kiệm không đủ đáp ững cho
nhu cầu đầu tư, được gọi là “lỗ hổng tiết kiệm”. Thứ hai là thu nhập của hoạt động
xuất khẩu không đủ đáp ứng nhu cầu ngoại tệ cho hoạt động nhập khẩu gọi là " lỗ
hổng thương mại ". Ở các nước kém phát triển, hai lỗ hổng trên thường rất lớn. Vì
thế FDI là một nguồn quan trọng để bổ xung sự thiếu hụt về ngoại tệ do nó góp
phần làm tăng khả năng cạnh tranh và và mở rộng khả năng xuất khẩu của các
nước tiếp nhận đầu tư.
b> FDI mang lại công nghệ và trình độ kĩ thuật cao, trình độ quản lý tiên tiến cho
nước tiếp nhận vốn đầu tư.
Xét về lâu dài thì đây là một lợi ích căn bản nhất cho nước tiếp nhận đầu tư. FDI
thúc đẩy sự đổi mới vê công nghệ ở các nước tiếp nhận đầu tư như góp phần tăng
năng suất của các yếu tố sản xuất, thay đổi cấu thành sản phẩm và xuất khẩu, thúc
đẩy phát triển các nghành nghề mới, đặc biệt là những nghành đòi hỏi hàm lượng
công nghệ kĩ thuật cao. Như vậy FDI có tác dụng lớn đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng trưởng và phát triển nhanh ở
các nuớc tiếp nhận đầu tư.
Thực tiễn đã cho thấy các nước thành công trong thu hút và sử dụng FDI đã cải
thiện đáng kể trình độ kĩ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như Hàn Quốc đầu
những năm 60 còn kém về sản xuất và lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ tiếp cận công
nghệ tiên tiến của Mĩ, Nhật… cho đến nay Hàn Quốc đã là một trong các nước dẫn
đầu về sản xuất ô tô trên thế giới.
Hơn thế nữa FDI còn đem lại kinh nghiệm quản lý, kĩ năng kinh doanh và trình
độ kĩ thuật cao cho các đối tác trong nước tiếp nhận đầu tư thông qua những
chương trình đào tạo và quá trình vừa học vừa làm. FDI mang lại cho họ những
kiến thức sản xuất phức tạp trong khi tiếp nhận công nghệ của các nước đầu tư,
thúc đẩy các nước nhận đầu tư phải cố gắng đào tạo kĩ sư, những nhà quản lý có
chuyên môn, trình độ để tham gia vào các công ty liên doanh với nước ngoài.
c> FDI tạo ra công ăn việc làm cho nước tiếp nhận đầu tư:
FDI trực tiếp ảnh hưởng đến cơ hội tạo công ăn việc làm thông qua việc thu hút
lao động vào các hãng có vốn đầu tư nước ngoài và các tổ chức trong nước khác

khi các nhà đầu tư nước ngoài mua hàng hoá và dịch vụ từ các nhà sản xuất trong
nước, hoặc thuê họ thông qua những hợp đồng gia công chế biến. Thực tiễn cho
thấy ở một sỗ nước FDI đã góp phần tích cực tạo ra công ăn việc làm trong các
nghành sử dụng nhiều lao động như may mặc, dệt, điện tử, chế biến…
Tuy nhiên sự đóng góp của FDI vào việc tạo công ăn việc làm còn phụ thuộc rất
nhiều vào nước tiếp nhận đầu tư như về phong tục tập quán, văn hoá, chính sách,
khả năng kĩ thuật…
d> FDI thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Để tiến tới sự tăng trưởng và phát triển thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế là một
đòi hỏi của nội tại bản thân nền kinh tế. Mặt khác, hiện nay xu hướng toàn cầu hoá
đời sống kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ thì việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế cũng là
một đòi hỏi tất yếu để phù hợp với thời đại.
FDI là một bộ phận quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại, thông qua đó các
quốc gia sẽ tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân công lao động quốc tế.
Để hội nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia tích cực vào quá trình liên minh
liên kết kinh tế giữa các quốc gia trên thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia phải thay đổi
cơ cấu kinh tế trong nước cho phù hợp với sự phân công lao động quốc tế. Sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mỗi quốc gia phù hợp với trình độ phát triển chung thế
giới sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động FDI.FDI góp phần thúc đẩy nhanh
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi vì FDI làm xuất hiện nhiều lĩnh vực ngành
nghề mới, nâng cao trình độ kĩ thuật, tăng năng xuất lao động…
e> Thông qua FDI các nước tiếp nhận đầu tư có thể tiếp cận với thị trường thế
giới:
Các nước đang phát triển tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh
tranh được nhưung vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập vào thi trường nước
ngoài. Thông qua FDI họ có thể tiếp cận được với thị trường thế giới, và hầu hết
các hoạt động FDI đều do các công ty đaquốc gia thực hiện. Các công ty này có lợi
thế trong việc tiếp cận với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở
uy tín của họ về chất lượng và kiểu dáng sản phẩm…đã có từ lâu.
Như vậy rõ ràng là qua sự phân tích ở trên ta thấy việc tiếp nhận vốn FDI mang

lại những lợi thế cho nước tiếp nhận đầu tư trong quá trình phát triển và tăng
trưởng kinh tế. Tuy nhiên cần phải nhớ rằng vốn nước ngoài dù quan trọng đến đâu
cũng không thể đóng vai trò quyết định đến sự phát triển kinh tế của một quốc gia,
bởi vì xét về lâu dài để xem xét nền kinh tế của một quốc gia có hùng mạnh hay
không thì cần phải xem xét bản thân nội lực của nền kinh tế quốc gia đó.
2.2. Những mặt trái của FDI:
a> Công nghệ và kỹ thuật lạc hậu:
Các nước đầu tư thường bị buộc tội là đã chuyển giao công nghệ và kỹ thuật lạc
hậu vào nước tiếp nhận đầu tư. Điều này có thể giải thích là: Dưới sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, máy móc công nghệ nhanh chóng trở thành lạc
hậu. Các nhà đầu tư trhường chuyển giao những công nghệ kỹ thuật đã lạc hậu cho
các nước nhận đầu tư để đổi mới công nghệ, đổi mới mới sản phẩm, nâng cao chất
lượng sản phẩm của chính nước họ. Vào giai đoạn đầu của sự phát triển, hầu hết
các nước đều sử dụng công nhệ sử dụng nhiều lao động. Tuy nhiên sau một thời
gian phát triển, giá lao đọng sẽ tăng lên, kết quả là giá thành sản phẩm cao. Vì vậy
các nhà đầu tư muốn thay thế công nghệ này bằng những công nghệ có hàm lượng
kỹ thuật cao để hạ giá thành sản phẩm thông qua việc đầu tư ra nước ngoài kèm
theo chuyển giao công nghệ .
Việc chuyển giao công nghệ lạc hậu đã gây ra nhiều thiệt hại cho nươc tiếp nhận
đầu tư như là:
Rất khó tính được giá trị thực của những maý móc chuyển giao đó cho nên các
nước tiếp nhận đầu tư thường bị thiệt hại trong việc tính tỷ lệ góp vốn vào các xí
nghiệp liên doanh, và hậu quả bị thiệt hại trong việc chia lợi nhuận.
Gây tổn hại đến môi trường.
Chất lượng sản phẩm thấp, chi phí sản xuất cao, nên sản phẩm cuả nước tiếp
nhận đầu tư khó có thể ạnh tranh trên thị trường thế giới.
b> Sản xuất hàng hoá không thích hợp:
Các nhà đầu tư thường sản xuất và bán những hàng hoá không thích hợp cho
các nước kém phát triển, thậm chí đôi khi lại là những hàng hóa có hạicho sức
khoẻ con người và gây ô nhiễm môi trường nhuư: khuyến khích sử dụng thuốc lá,

thuốc trừ sâu, nuớc ngọt có ga thay thế nước hoa quả tươi,chất tẩy thay thế xà
phòng…
c> FDI còn có những hạn chế trong tác động đến nền kinh tế:
Mặc dù tính tổng thể vốn đầu tư trực tiếp lớn hơn và quảntọng hơn đầu tư gián
tiếp, nhưng so với đầu tư gián tiếp thì mức vốn trung bình của một dự án đầu tư
thường nhỏ hơn nhiều. Do vậy tác động kịp thời của một dự án đầu tư trực tiếp
cũng không tức thì như dự án đầu tư gián tiếp. Hơn nữa, các nhà đầu tư trực tiếp
thường thiếu sự trung thành đối với thị trường đang đầu tư, do đó luồng vốn đầu tư
trực tiếp cũng thất thường.
d> Những mặt trái khác:
Mục đích chủ yếu của nàh đầu tư là kiếm lời, nên họ chỉ đầu tư vào những nơi
có lợi nhất. Vì thế nhiều khi lượng vốn nước ngoài đã làm gia tăng thêm sự mất
cân đối giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Sự mất cân đối này có thể gây
bất ổn về chính trị
Các vấn đề ô nhiễm môi trưòng cùng với vấn đề tai nguyên bị cạn kiệt và những
lợi dụng về chính trị đó là một trong những điều tất yếu mà nước chủ nhà phải
hứng chịu khi quá trình FDI diễn ra.
Việc đưa những mặt trái của FDIvào không có nghĩa là phủ nhận những lợi thế
cơ bản của nó mà chỉ nhấn mạnh rằng cần phải có những chính sách thích hợp,
những biện pháp kiểm soát hữu hiệu để phát huy những mặt tích cực hạn chế
những mặt tiêu cực của FDI. Mức độ thiệt hại mà FDI gây ra cho nhuớc chủ nhà
nhiều hay ít phụ thuộc rất nhiều vào chính sách, năng lực, trình độ quản lý,trình độ
chuyên môn của nước tiếp nhậ đầu tư.
II. Khái niệm và đặc trưng của các hình thức đầu tư trực tiếp nuớc
ngoài:
Hoạt động đầu tư trục tiếp nước ngoài tại Việt Nam chỉ thực sự bắt đầu từ năm
1988, sau khi Quốc hội thông qua Luật đầu tư nước ngoài tháng 12 năm 1987 (còn

×