Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.06 KB, 22 trang )

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG
I. Khái niệm tiền lương
1. Một số khái niệm
1.1. Các khái niệm có liên quan
Sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt, được đem ra trao đổi mua bán
trên một thị trường đặc biệt đó là thị trường sức lao động. Trên thị trường này,
người lao động có sức lao động đem sức lao động của mình ra cho thuê (hay bán)
cho người có tư bản (có vốn, có tư liệu sản xuất ) nhưng không có đủ sức lao động
để tiến hành hoạt động của tổ chức, doanh nghiệp của mình. Và như vậy hoạt động
mua bán sức lao động đã diễn ra, sau một thời gian làm việc người lao động thu
được một khoản gọi là sự trả công lao động . Tiền lương là một trong số các hình
thức trả công lao động, nói đơn giản thì tiền lương là giá cả sức lao động. Để hiểu
rõ khái niệm tiền lương trước hết ta làm rõ các khái niệm có liên quan đến tiền
lương, đó là:
Thù lao là tất cả các khoản mang tính chất tài chính, phi tài chính mà
người lao động nhận được thông qua mối quan hệ giữa họ và tổ chức. Thù lao tài
chính bao gồm: Thù lao cơ bản, các phúc lợi, các hình thức khuyến khích.
- Thù lao cơ bản là phần thù lao cố định mà người lao động nhận được
dưới dạng tiền công, tiền lương, được trả cho người lao động theo: loại công việc,
mục đích thực hiện công việc, trình độ thâm niên của người lao động.
+ Tiền công là số tiền trả cho người lao động tuỳ thuộc vào số giờ làm việc
thực tế, dựa trên số sản phẩm sản xuất ra, khối lượng công việc hoàn thành. Dạng
thù lao này áp dụng cho công nhân sản xuất, nhân viên bảo dưỡng máy móc thiết
bị.
+ Tiền lương (Salary) là số tiền trả cho người lao động một cách cố định
thường xuyên theo một đơn vị thời gian, có thể là tuần hoặc tháng hoặc năm. Dạng
thù lao này thường áp dụng cho cán bộ quản lý, cán bộ lãnh đạo, cán bộ chuyên
môn.
Tại Việt Nam hiện nay, theo nghị định 25, 26/CP ban hành ngày 23/5/1993
thì “ Tiền lương là giá cả sức lao động đựơc hình thành dựa trên cơ sở thoả thuận
giữa người lao động và người sử dụng lao động phù hợp với quan hệ cung cầu về


sức lao động trong nền kinh tế thị trường ”.
Theo tổ chức lao động Quốc tế ILO: Tiền lương là sự trả công hoặc thu
nhập, bất luận tên gọi hay cách tính thế nào, mà có thể biểu hiện bằng tiền và được
ấn định bằng thoả thuận giữa người sử dụng lao động và người lao động, hoặc
bằng pháp luật theo một hợp đồng lao động được viết ra hay bằng miệng.
Mức lương (suất lương): là số tiền trả cho lao động trong một đơn vị thời
gian phù hợp với các bậc trong thang lương theo chế độ tiền lương hiện hành.
- Các phúc lợi là phần thù lao gián tiếp được trả dưới dạng các hỗ trợ cuộc
sống của người lao động trong quá trình làm việc hoặc sau khi làm việc như: bảo
hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, tiền lương hưu, tiền trả cho ngày nghỉ lễ, nghỉ phép,
các chương trình giải trí, chất lượng nhà ở, phương tiện đi lại… và các phúc lợi
gắn liền với quan hệ làm việc với các thành viên trong tổ chức.
- Các khuyến khích là khoản thù lao phụ thêm ngoài tiền công, tiền lương
để trả cho người lao động làm tốt công việc nhằm khuyến khích tăng năng suất lao
động, nâng cao doanh số bán ra, nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng lợi nhuận, tiết
kiệm chi phí sản xuất. Loại thù lao này gồm tiền hoa hồng, các loại tiền thưởng,
phân chia năng suất, phân chia lợi nhuận.
Tiền công và tiền lương tuy đều là khoản tiền trả cho người lao động
nhưng chúng lại có sự khác nhau về bản chất. Tiền công dùng để trả cho lao động
trực tiếp, nó được xác định dựa trên số sản phẩm làm ra hay số giờ làm việc trực
tiếp, đối với nhiều loại lao động giản đơn tiền công có thể trả ngay sau khi những
giờ làm việc kết thúc. Tiền lương lại được thường được dùng để trả cho lao động
gián tiếp như lao động quản lý, cán bộ chuyên môn, công nhân viên hành chính sự
nghiệp, ở nước ta tiền lương thường được trả theo tháng.
1.2. Tiền lương danh nghĩa, tiền lương thực tế
Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà người sử dụng lao động trả cho người
lao động. Số tiền này nhiều hay ít phụ thuộc vào năng suất lao động, hiệu quả làm
việc của người lao động, phụ thuộc vào chức vụ, tầm quan trọng của người lao động
trong tổ chức… Tuy nhiên tiền lương danh nghĩa không phản ánh đúng thực trạng cuộc
sống của người lao động, do sự ảnh hưởng cuar lạm phát.

Tiền lương thực tế là số lượng hàng hóa, dịch vụ mà người lao động mua
được bằng số tiền lương thực tế mà họ nhận được.
Ta có mối quan hệ của tiền lương danh nghĩa và tiền lương thực tế đc biểu
diễn qua công thức:
I
tldn
I
tltt
= --------
I
gc
I
tltt
: Tiền lương thực tế
I
tldn
: Tiền lương danh nghĩa
I
gc
: Chỉ số giá cả
Tiền lương danh nghĩa là số tiền người người lao động nhận được nhưng
tiền lương thực tế mới thể hiện giá trị thực của số tiền đó thông qua số lượng hang
hoá, dịch vụ mà người lao động mua được bằng tiền lương của mình. Tiền lương
thực tế của người lao động phụ thuộc rất lớn vào tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng
làm cho giá cả hàng hoá tăng theo, số lượng sản phẩm, dịch vụ mà người lao động
mua được giảm đi đồng nghĩa với tiền lương thực tế giảm. Đồng thời lạm phát
cũng làm gia tăng tiền lương danh nghĩa, nhưng sự gia tăng này không tương ứng
với sự giảm đi của tiền lương thực tế, tỷ lệ tăng tiền lương danh nghĩa luôn nhỏ
hơn tỳ lệ giảm đi của tiền lương thực tế.


2. Bản chất tiền lương
Tiền lương phản ánh nhiều quan hệ kinh tế và xã hội khác nhau:
2.1. Xét về mặt kinh tế
Tiền lương là số tiền người sử dụng lao động trả cho người lao động, người
sử dụng lao động ở đây là người mua, người lao động ở đây đóng vai trò người
bán, và hàng hoá được mua bán chính là sức lao động. Không giống những hàng
hoá thông thường khác, người bán được nhận tiền ngay khi giao hàng, hàng hoá
sức lao động là một loại hàng hoá đặc biệt, người lao động chỉ nhận được tiền sau
khi đã làm việc trong một thời gian nhất định. Người sử dụng lao động và người
lao động thông qua hợp đồng lao động để thống nhất về công việc phải làm, thời
gian làm việc cũng như về tiền lương.
Người lao động dùng tiền lương để duy trì cuộc sống của mình và gia
đình. Số tiền này một phần được dùng để tái sản xuất sức lao động, vì vậy ở nước
ta tiền lương cơ bản được xác định dựa trên các nhu cầu sinh học, nhu cầu xã hội,
độ phức tạp của công việc… Ngoài ra còn có các khoản phụ cấp cho người lao
động hay các khoản tiền thưởng do hoàn thành tốt nhiệm vụ nhằm khuyến khích
người lao động, nâng cao hiệu quả làm việc.
2.2. Xét về mặt xã hội
Xét về mặt xã hội của tiền lương, ta thấy tiền lương đóng vai trò vô cùng
quan trọng liên quan đến đời sống và trật tự xã hội. Tiền lương càng quán triệt
được tính công bằng và đảm được cuộc sống cho người lao động thì các quan hệ xã
hội ngày càng được củng cố. Với mức tiền lương hợp lý, mọi người lao động đều
có thể đảm bảo được cuộc sống của chính mình và gia đình, cuộc sống no đủ, lành
mạnh của mỗi người, mỗi gia đình làm nên một xã hội, một cộng đồng giàu có, văn
minh, giảm bớt các tệ nạn xã hội.
3. Nguyên tắc trả lương
3.1. Trả lương ngang nhau cho lao động như nhau
Xuất phát từ nguyên tắc phân phối lao động, dùng thước đo lao động để
đánh giá, trả lương, không phân biệt giới tính, tuổi tác, trình độ… chỉ cần có mức
hao phí sức lao động như nhau thì được trả lương như nhau.

Nguyên tắc này nhằm đảm bảo tính công bằng trong trả lương. Thể hiện
tính nhất quán trong các thành phần kinh tế. Các khu vực, các ngành, các chủ thể
kinh tế đều có quy định về thang bảng lương nhằm trả lương chính xác trung thực
cho người lao động, làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít. Qua đây cũng tạo
động lực khuyến khích người lao động.
3.2. Đảm bảo năng suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương bình quân.
Nguyên tắc này xuất phát từ quy luật: “để đảm bảo tồn tại, phát triển cần
phải có tích luỹ ”. Ta thấy khi năng suất lao động tăng thì hiệu quả sản xuất kinh
doanh cũng tăng, từ đó dẫn đến tiền lương trả cho người lao động cũng theo đó mà
tăng lên. Tuy nhiên để duy trì và mở rộng hoạt động sản xuất doanh nghiệp cần
phải có một phần tư bản tích luỹ, bởi vậy mà các chủ doanh nghiệp luôn phải tính
toán trả lương cho người lao động sao cho tỷ lệ tăng tiền lương bình quân không
được lớn hơn tỷ lệ tăng năng suất lao động vì tiền lương cũng là một loại chi phí và
chi phí này phải được tính toán làm sao để không lớn hơn những gì thu lại được.
3.3. Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những người lao
động làm những nghề các nghề khác nhau trong nền kinh tế quốc dân.
Nguyên tắc này nhằm mục đích đảm bảo công bằng, bình đẳng trong trả
lương cho các lao động làm các ngành nghề khác nhau, công việc khác nhau với
các mức độ phức tạp và hao phí sức lao động khác nhau thì họ được hưởng mức
tiền lương khác nhau, phụ thuộc vào hao phí lao động họ bỏ ra. Điều này cũng là
một khuyến khích để người lao động hăng say làm việc, chăm chỉ học tập tìm tòi,
nâng cao trình độ tay nghề. Để thực hiện nguyên tắc này cần dựa trên những cơ sở
sau:
Trình độ lành nghề bình quân của người lao động ở mỗi ngành: được xác
định dựa vào mức độ phức tạp của công việc mà họ thực hiện.
Điều kiện lao động: đó là môi trường làm việc của người lao động, trong
các ngành nghề khác nhau lại có những điều kiện lao động khác nhau. Những
người làm việc trong môi trường nặng nhọc độc hại sẽ hao phí nhiều sức lao động
hơn các môi trường làm việc khác, vì vậy ngoài tiền lương cơ bản họ còn được
nhận các khoản phụ cấp và các ưu đãi khác như kiểm tra sức khoẻ định kỳ…

Ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế quốc dân: trong những
thời điểm khác nhau, từng giai đoạn phát triển sẽ có những ngành trọng điểm riêng,
và để phát triển ngành này, thu hút lao động cho ngành thì tiền lương trả cho
người lao động phải có sức cạnh tranh cao, đồng thời đó cũng là động lực để người
lao động làm việc và giữ chân họ lại trong ngành.
Sự phân bổ theo khu vực sản xuất: với những vị trí địa lý không thuận lợi
như miền núi, hải đảo… thì cần có những khuyến khích thích hợp trong trả lương,
có như vậy mới thu hút được nguồn nhân lực làm việc tại nơi này
II. Ý nghĩa, yêu cầu của tiền lương và các nhân tố ảnh hưởng tới
tiền lương
1. Ý nghĩa
Đối với bản thân người lao động: Tiền lương mang ý nghĩa bù đắp sức lao
động đã hao phí để tái sản xuất sức lao động. Nó được căn cứ vào thời gian lao
động và trình độ nghề nghiệp của mỗi người. Nếu được trả lương xứng đáng với
công sức bỏ ra người lao động sẽ có động lực để tiếp tục làm việc. Ngược lại trả
lương không xứng đáng người lao động sẽ không hăng say làm việc, gây tâm lý
chán nản làm hạn chế và kìm hãm khả năng làm việc của họ, điều này dẫn đến sự
kém hiệu trong công việc, sự hoạt động trì trệ của tổ chức và doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp: Tiền lương là một phần chi phí cấu thành lên chi
phí sản xuất. Đồng thời nó có ý nghĩa quan trọng trong việc khuyến khích người
lao động hăng say làm việc và làm việc với năng suất, khả năng tốt nhất. Điều đó
cũng có nghĩa là tiền lương ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng sản phẩm ,hiệu
quả công việc. Chế độ tiền lương hợp lý không chỉ tạo động lực cho người lao
động mà giúp doanh nghiệp thu hút những lao động giỏi.
Đối với xã hội: Tiền lương góp một phần đáng kể vào ngân sách nhà nước
thông qua thuế thu nhập. Ngoài ra tiền lương còn phản ánh mức sống của người
dân, trình độ phát triển của mỗi quốc gia. Khi tiền lương cao, cuộc sống của người
dân sẽ đầy đủ sung túc hơn, các nhu cầu của họ cũng cao hơn kéo theo các sản
phẩm, dịch vụ đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, giải trí của người dân ngày càng tăng
lên, các hoạt động thương mại diễn ra phong phú và sôi động, điều này có tác động

tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
2. Yêu cầu của công tác tiền lương
Đảm bảo tái sản xuất lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động.
Tiền lương trả cho người lao động phải đảm bảo kích thích sản xuất, phân
phối công bằng
Tiền lương trả cho người lao động phải xuất phát từ kết quả sản xuất kinh
doanh, làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao.
Đảm bảo tính đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu.
3. Các nhân tố ảnh hưởng đến tiền lương
Tiền lương chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau, những nhân tố
này có thể xuất phát từ bản thân cơ quan hay doanh nghiệp, hay từ các yếu tố bên
ngoài doanh nghiệp như thị trường lao động, vị trí địa lý, điều kiện đất nước lúc
bấy giờ… Có thể chia thành 4 nhóm nhân tố chính như sau:
- Những nhân tố đến từ phía doanh nghiệp: khả năng tài chính, hiệu quả
kinh doanh… điều này rất quan trọng bởi nó quyết định chi phí tiền lương mà
doanh nghiệp giành cho người lao động của mình là nhiều hay ít.
- Những nhân tố đến từ bản thân công việc: độ phức tạp của công việc, điều
kiện và môi trường thực hiện công việc đó… những nhân tố này quyết định mức
tiền lương người lao động nhận được dựa trên hao phí lao động của họ khi làm
công việc đó.
- Những nhân tố xuất hiện từ xã hội và thị trường lao động: sự phát triển
của nền kinh tế xã hội, tiền lương bình quân trên thị trường lao động… Những
nhân tố này quyết định mức lương tối thiểu của doanh nghiệp, mức lương của
doanh nghiệp trả cho người lao động không được thấp hơn mặt bằng chung và phải
đủ sức cạnh tranh trên thị trường.
- Những nhân tố xuất phát từ bản thân người lao động: năng lực, trình độ,
tiềm năng phát triển, thâm niên công tác… những nhân tố này quyết định số tiền
lương người lao động nhận được dựa trên hiệu quả làm việc thực tế của họ.
III. Các chế độ và hình thức trả lương

1. Các chế độ tiền lương của Nhà nước
1.1. Chế độ tiền lương cấp bậc.

×