Tải bản đầy đủ (.docx) (35 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TĂNG TR¬ƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.74 KB, 35 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
I. TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
1/ Khái niệm phát triển và tăng trưởng kinh tế:
a/ Tăng trưởng kinh tế: Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tiến bộ, mở
rộng qui mô về mặt số lượng của các yếu tố của nền kinh tế trong một thời kỳ nhất
định nhưng trong khuôn khổ giữ nguyên về mặt cơ cấu và chất lượng.
Tăng trưởng kinh tế thực chất là sự lớn mạnh của nền kinh tế chỉ đơn thuần về
mặt số lượng; đây là sự biến đổi có ý nghĩa tích cực, mặc dù nó cũng giúp cho xã
hội có thêm các điều kiện vật chất cụ thể để đáp ứng các nhu cầu đặt ra của công
dân, của xã hội.
Để biểu thị sự tăng trưởng kinh tế, người ta dùng mức tăng thêm của tổng sản
lượng nền kinh tế của thời kì sau so với thời kì trước:
Y
o
: Tổng sản lượng thời kì trước
Y
1
: Tổng sản lượng thời kì sau
Mức tăng trưởng tuyệt đổi : ∆ = Y
1
- Y
o
.
Mức Tăng trưởng tương đổi: = Y
1
/ Y
o
.
b/ Phát triển kinh tế (PTKT): Là sự biến đổi kinh tế theo chiều hướng tích
cực dựa trên sự biến đổi cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu của các yếu tố cấu


thành của nền kinh tế.
Như vậy, đã có phát triển kinh tế là bao hàm nội dung của sự tăng trưởng kinh
tế, nhưng nó được tăng trưởng theo một cách vượt trội so sự đổi mới về khoa học
công nghệ, do năng suất xã hội cao hơn hẳn và có cơ cấu kinh tế hợp lí và hiệu quả
hơn hẳn.
Do đó, khái niệm phát triển kinh tế bao gồm :
+ Trước hết là sự tăng thêm về khối lượng của cải vật chất, dịch vụ và sự tiến
bộ về cơ cấu kinh tế và đời sống xã hội.
+ Tăng thêm qui mô sản lượng và tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội là hai mặt
vừa phụ thuộc lại vừa độc lập tương đối của lượng và chất.
+ Sự phát triển là một quá trình tiến hóa theo thời gian do những nhân tố nội
tại của nền kinh tế quyết định. Có nghĩa là người dân của quốc gia đó phải là
những thành viên chủ yếu tác động đến sự biến đổi kinh tế của đất nước.
+ Kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội là kết quả của một quá trình vận động
khách quan, còn mục tiêu kinh tế xã hội đề ra là thể hiện sự tiếp cận tới các kết quả đó.
Tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế gắn liền với quá trình công nghiệp
hóa và hiện đại hóa của mỗi quốc gia, là bước đi tất yếu của mọi sự biến đổi kinh
tế từ thấp đến cao, theo xu hướng biến đổi không ngừng.
c/ Phát triển kinh tế bền vững:
Đây là khái niệm đang còn tiếp tục tranh cãi, tuy nhiên theo Hội đồng thế
giới về môi trờng và phát triển thì: Phát triển kinh tế bền vững là phát triển đáp ứng
các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương đến các nhu cầu của các thế hệ
tương lai.
Về mặt nội dung, phát triển kinh tế bền vững là sự phát triển kinh tế phải đáp
ứng yêu cầu sau:
+ Kinh tế phải phát triển liên tục
+ Kinh tế phải phát triển với tốc độ cao
+ Đáp ứng các nhu cầu hiện tại nhưng không làm tổn thương đến các thế hệ tương
lai.
2/ Những quan điểm cơ bản về tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế:

a/ Quan niệm nhấn mạnh vào tăng trưởng:
Quan điểm này cho rằng tăng thu nhập là quan trọng nhất, nó như đầu
tàu, kéo theo việc giải quyết vấn đề cơ cấu kinh tế và xã hội. Thực tế cho thấy
những nước theo quan điểm này đã đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, không
ngừng tăng thu nhập. Song cũng cho thấy những hạn chế cơ bản sau:
+ Sự tăng trưởng kinh tế quá mức nhanh chóng vì những động cơ có lợi
ích cục bộ trước mắt đã dẫn đến sự khai thác bừa bãi không chỉ trong phạm vi
quốc gia mà còn trên phạm vi quốc tế, khiến cho nguồn tài nguyên bị kiệt quệ
và môi trường sinh thái bị phá huỷ nặng nề.
+ Cùng với sự tăng trưởng là sự bất bình đẳng về kinh tế và chính trị xuất hiện,
tạo ra những mâu thuẫn và xung đột găy gắt: Xung đột giữa khu vực sản xuất công
nghiệp và nông nghiệp; xung đột giữa giai cấp chủ và thợ; gắn với nạn thất nghiệp
tràn lan; xung đột giữa các dân tộc, sắc tộc, tôn giáo; xảy ra mâu thuẫn về lợi ích kinh
tế - xã hội, do quá trình phát triển kinh tế không đều tạo nên.
+Tăng trưởng đưa lại những giá trị mới, song nó cũng phá huỷ và hạ
thấp một số giá trị truyền thống tốt đẹp cần phải bảo tồn và phát huy như:
Tổng giá trị gia tăng của các ngành, các khu vực sản xuất và dịch vụ trong cả nước
GDP =
Giá trị tăng = Giá trị sản lượng - Chi phí các yếu tố trung gian (Y) (GO) (IC)
nền giáo dục gia đình, các giá trị tinh thần, đạo đức, thuần phong mỹ tục,
chuẩn mực của dân tộc. Đồng thời với việc làm giàu bằng bất cứ giá nào thì
tội ác cũng phát triển; các băng đảng lũng đoạn, sản xuất hàng giả, buôn lậu
chất ma tuý với qui mô quốc tế sẽ gia tăng.
+Sự tăng trưởng và phát triển kinh tế nhanh chóng còn đưa lại những
diễn biến khó lường trước, cả mặt tốt và không tốt, nên đời sống kinh tế xã
hội thường bị đảo lộn, mất ổn định, khó có thể lường trước được hậu quả.
b/ Quan điểm nhấn mạnh vào sự bình đẳng và bất bình đẳng trong xã hội:
Sự phát triển kinh tế đựợc đầu tư dàn đều cho các ngành, các vùng và sự phân
phối được tiến hành theo nguyên tắc bình quân. Đại bộ phận dân cư đều được chăm sóc
về văn hóa, giáo dục, y tế của Nhà nước, hạn chế tối đa sự bất bình đẳng trong xã hội.

Hạn chế của việc lựa chọn quan điểm này là nguồn lực hạn chế lại bị phân
phối dàn trải nên không thể tạo ra được tốc độ tăng trưởng cao và việc phân phối
đồng đều cũng không tạo ra được động lực thúc đẩy người lao động.
c/ Quan điểm phát triển toàn diện:
Đây là sự lựa chọn trung gian giữa hai quan điểm trên, vừa nhấn mạnh về số
lượng vừa chú ý về chất lượng của sự phát triển. Theo quan điểm này tuy tốc độ
tăng trưởng kinh tế có hạn chế nhưng các vấn đề xã hội được quan tâm giải quyết.
II . CÁC ĐẠI LƯỢNG ĐO LƯỜNG SỰ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Tăng trưởng kinh tế được biểu hiện ở sự tăng lên về sản lượng hằng năm do
nền kinh tế tạo ra. Do vậy thước đo của sự tăng trưởng là các đại lượng sau: Tổng
sản phẩm trong nước (GDP); tổng sản phẩm quốc dân (GNP); sản phẩm quốc dân
thuần tuý (NNP); thu nhập quốc dân sản xuất (NI) và thu nhập quốc dân sử dụng
(NDI).
1/ Tổng sản phẩm trong nước (Tổng sản phẩm quốc nội - GDP):
GDP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ mới được tạo ra trong năm bằng
các yếu tố sản xuất trong phạm vi lãnh thổ quốc gia.
Đại lượng này thường được tiếp cận theo các cách khác nhau:
a/ Về phương diện sản xuất:
b/ Về phương diện tiêu dùng :
GDP = C + I + G + (X - M)
Trong đó:
C: Tiêu dùng các hộ gia đình
G: Các khoản chi tiêu của chính phủ
I: Tổng đầu tư cho sản xuất của các doanh nghiệp
(X - M): Xuất khẩu ròng trong năm
c/ Về phương diện thu nhập:
GDP là toàn bộ giá trị mà các hộ gia đình, các doanh nghiệp và các tổ chức
Nhà nước thu được từ giá trị gia tăng đem lại.
GDP = C
p

+ I
p
+ T
Trong đó:
C
p
: các khoản chi tiêu mà các hộ gia đình được quyền tiêu dùng
I
p
: Các khoản mà doanh nghiệp tiết kiệm được dùng để đầu tư
GDP theo cách xác định trên đã thể hiện một thước đo cho sự tăng trưởng
kinh tế do các hoạt động kinh tế trong nước tạo ra, không phân biệt sở hữu trong
hay ngoài nước với kết quả đó. Do vậy, GDP phản ánh chủ yếu khả năng sản xuất
của nền kinh tế một nước.
2/ Tổng sản phẩm quốc dân (GNP):
GNP là toàn bộ giá trị sản phẩm và dịch vụ cuối cùng mà tất cả công dân một
nước tạo ra và có thể thu nhập trong một năm, không phân biệt sản xuất được thực
hiện trong nước hay ngoài nước.
Như vậy GNP là thước đo sản lượng gia tăng mà nhân dân của một nước
thực sự thu nhập được.
GNP = GDP + Thu nhập tài sản ròng từ nước ngoài
Với ý nghĩa là thước đo tổng thu nhập của nền kinh tế, sự gia tăng thêm GNP
thực tế đó chính là sự gia tăng tăng trưởng kinh tế, nó nói lên hiệu quả của các
hoạt động kinh tế đem lại.
GNP thực tế là GNP được tính theo giá trị cố định nhằm phản ảnh đúng sản
lượng gia tăng hàng năm loại trừ những sai lệch do sự biến động giá cả (lạm phát)
tạo ra, khi tính GNP theo giá thị trường thì đó là GNP danh nghĩa.
Hệ số giảm phát là tỷ lệ GNP danh nghĩa và GNP tực tế ở cùng một thời
điểm. Dùng hệ số giảm phát để điều chỉnh GNP danh nghĩa ở thời điểm gốc, để
xác định mức tăng trưởng thực tế và tốc độ tăng trưởng qua các thời điểm.

3/ Sản phẩm quốc dân thuần tuý (NNP):
NNP là giá trị còn lại của GNP, sau khi đã trừ đi giá trị khấu hao tài sản cố
định (D
p
)
NNP = GNP - D
p
NNP phản ánh phần của cải thực sự mới được tạo ra hàng năm.
4/ Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI):
NDP là phần mà nhân dân nhận được và có thể tiêu dùng, là phần thu nhập
ròng sau khi trừ đi thuế (trực thu và thuế gián thu) (Ti+Td) cộng với trợ cấp (S
d
):
NDI = NNP - (T
i
+T
d
) + S
d
Mục đích đưa ra các thước đo là để tiếp cận tới các trạng thái phát triển
của nền kinh tế, mỗi thước đo đều có ý nghĩa nhất định và được sử dụng tuỳ
thuộc vào mục đích nghiên cứu. Mặc dù đó là các thước đo phổ biến nhất hiện
nay, nhưng đó chỉ là những con số xấp xỉ về các trạng thái và tốc độ biến đối
trong phát triển kinh tế, vì bản thân các thước đo đó chưa thể phản ánh hết
được các sự kiện phát triển cả mặt tốt lẫn mặt chưa tốt. Chẳng hạn như các sản
phẩm tự túc, công việc nội trợ gia đình, thời gian nghỉ ngơi, sự tự do, thoải mái
trong đời sống sinh hoạt, sự tổn hại do bị ô nhiễm môi trường thì được tính
bằng cách nào.
5/ Thu nhập bình quân đầu người :
Điều gì sẽ thể hiện khi so sánh GNP của các nước có dân số tương tự nhau

như ở bảng 1.1:
Bảng 1.1: Thu nhập của một số nước năm 1997
STT Tên nước Dân số (tr.người) GNP(Tỉ USD) GNP/Người(USD
)
1
2
3
4
Anh
Pháp
Thái Lan
Ai Cập
59
59
61
60
1220,2
1526,0
169,6
71,2
20710
26050
2800
1180
5
6
Êtiôpia
Việt Nam
60
77

6,5
24,5
110
320
Nguồn: Báo cáo về tình hình phát triển thế giới của Ngân hàng thế giới - 1998.
Qua bảng số liệu trên đây, ta thấy những nước có dân số ngang nhau
(trừ Việt Nam) nhưng những nước giàu như Anh, Pháp, thì có GNP và
GNP/người lớn hơn rất nhiều so với các nước nghèo. Điều này nói lên rằng
người dân Anh, Pháp có nhiều khả năng sống sung sướng hơn những ngư-
ời dân ở các nước có mức thu nhập thấp như Ai cập, Êtiopia và Việt Nam.
Mỗi liên hệ GNP và dân số nói lên rằng muốn nâng cao phúc lợi vật
chất cho nhân dân của một số nước, không chỉ là tăng sản lượng của nền
kinh tế mà còn phải kìm hãm tốc độ tăng dân số. Do vậy, thu nhập bình
quân đầu người là một chỉ số thích hợp hơn để phản ánh sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế. Tuy nhiên nó vẫn chưa thể hiện mặt chất của sự tăng trư-
ởng, như là sự tự do hạnh phúc của mọi người, sự văn minh của xã hội, tức
là sự phát triển của xã hội. Cho nên để nói lên sự phát triển người ta dùng
hệ thống các chỉ số.
III. CÁC CHỈ SỐ PHẢN ÁNH SỰ BIẾN ĐỔI CƠ CẤU KINH TẾ - XÃ HỘI.
1/ Các chỉ số xã hội của sự phát triển:
Để nói lên sự tiến bộ của xã hội do tăng trưởng đưa lại, người ta thường dùng
các chỉ số sau xoay quanh sự biến đổi của con người.
a/ Tuổi thọ bình quân trong dân số:
Sự tăng lên của tuổi thọ bình quân trong dân số ở một thời kỳ nhất định phản
ánh một cách tổng hợp về tình hình sức khoẻ của dân cư trong một nước. Trong đó
nó bao hàm sự văn minh trong đời sống của mức sinh hoạt vật chất và tinh thần
được nâng cao. ở các nước kém phát triển đời sống thấp, thường có tuổi thọ bình
quân dưới 50 tuổi, còn các nứơc phát triển chỉ số đó đều trên 70 tuổi.
b/ Mức tăng dân số hàng năm:
Đây là một chỉ số đi liền với chỉ số tăng thu nhập bình quân đầu người. Xã

hội loài người phát triển đã minh chứng rằng mức tăng dân số cao luôn luôn đi với
sự nghèo đói và lạc hậu. Các nước phát triển đều có mức tăng dân số tự nhiên đều
dưới 2% một năm, còn các nước kém phát triển đều ở mức trên 2% một năm .
c/ Số calo/người/ngày:
Đường bình đẳng tuyệt đối
Đường cong Lorenz
Đường cong của bất bình đẳng tuyệt đối
% của dân số cộng dồn
% của thunhập cộng dồn
Sơ đồ 1.1: Đường cong Lorenz
Chỉ số này phản ánh các cung ứng các loại nhu cầu thiết yếu nhất đối với mọi
người dân, về lương thực và thực phẩm hàng ngày được qui đổi thành calo. Nó
cho thấy một nền kinh tế giải quyết được nhu cầu cơ bản như thế nào.
d/ Tỉ lệ người biết chữ trong dân số
Cùng với chỉ số này, còn dùng chỉ số tỉ lệ trẻ em đến trường trong độ tuổi đi
học, hay trình độ phổ cập văn hoá của người lao động trong dân số. Các chỉ số này
phản ánh trình độ phát triển và sự biến đổi về chất của xã hội. Xã hội hiện đại đã
coi việc đầu tư cho giáo dục và đào tạo là lĩnh vực đầu tư hàng đầu cho phát triển
kinh tế trong thời gian dài hạn. Tỉ lệ trẻ em đi học và người biết chữ cao, đồng
nghĩa với sự văn minh xã hội, và nó thường đi đôi với nền kinh tế có mức tăng
trưởng cao. Do vậy, nó là một chỉ số quan trọng để đánh giá trình độ phát triển
kinh tế - xã hội của một quốc gia .
e/ Các chỉ số về phát triển kinh tế - xã hội:
- Ngoài các chỉ số nêu trên người ta còn dùng các chỉ số đánh giá sự phát triển
xã hội ở mặt bảo hiểm, chăm sóc sức khoẻ như: Số giường bệnh, số bệnh viện,
bệnh viện an dưỡng, số bác sĩ, y sĩ bình quân cho một vạn dân. Về giáo dục và văn
hóa có tổng số các nhà khoa học, giáo sư, tiến sĩ, số lớp và số trường học, viện
nghiên cứu, nhà văn hóa, nhà bảo tàng, thư viện tính bình quân cho ngàn hoặc triệu
dân.
- Sự công bằng xã hội trong phân phối sản phẩm cũng là một tiêu chuẩn đánh giá

sự tiến bộ của xã hội hiện đại. Người ta dùng đồ thị Lorenz và hệ số Gini để biểu thị.
A
B
Diện tích (A)Diện tích (B)
Hệ số Gini =
Để nghiên cứu mức chênh lệch trong phân phối thu nhập người ta thường chia
dân số của một nước ra làm 10 nhóm người (gọi là 10 bậc), mỗi nhóm có 10% dân
số; hoặc chia ra 5 nhóm (5 bậc ), mỗi nhóm 20% dân số từ thu nhập thấp nhất lên
thu nhập cao nhất. Nếu như trong xã hội bình đẳng tuyệt đối thì cứ 20% dân số sẽ
nhận được 20% thu nhập, có nghĩa là không có người giàu người nghèo. Còn trong
xã hội bất bình, đường cong Lorent sẽ cho ta biết rằng 20% dân số có thu nhập
thấp nhất và 20% dân số có thu nhập cao nhất sẽ nhận được bao nhiêu % tổng thu
nhập. Khi thu nhập của nhóm người nghèo giảm đi và thu nhập của nhóm người
giàu tăng lên thì đường cong Lorent càng cách xa đường 45
0
và ngược lại .
Nếu phần diện tích được giới hạn bởi đường 45
0
và đường cong Lorent được
kí hiệu là A và phần còn lại của tam giác vuông được giới hạn bởi đường cong
Lorent và 2 đường vuông góc kí hiệu là B thì hệ số Gini được tính:
Có thể thấy rằng :
Hệ số Gini nhận giá trị từ 0 tới 1
Hệ số Gini = 0: Xã hội hoàn toàn bình đẳng
Hệ số Gini = 1: Xã hội hoàn toàn bất bình đẳng
Dựa vào những số liệu thu thập của Ngân hàng thế giới (WB) thì trong thực tế giá
trị của hệ số Gini biến đối trong phạm vi hẹp hơn: Từ 0,2 đến 0,6. Theo nhận xét của
WB thì những nước có thu nhập thấp, hệ số Gini biến động từ 0,3 đến 0,5; đối với
những nước có thu nhập trung bình từ 0,4 đến 0,6 và đối với nước có thu nhập cao từ
0,2 đến 0,4.

Tuy nhiên hệ số Gini mới chỉ lượng hoá được mức độ bất bình đẳng về phân
phối thu nhập, còn tiêu thức về sự độc lập hay phụ thuộc về kinh tế và chính trị của
quốc gia, sự tự do dân chủ công dân, sự tiến bộ trong thể chế chính trị, xã hội... thì
cũng chưa thể lượng hóa hết được .
2/ Các chỉ số về cơ cấu kinh tế
Cơ cấu kinh tế của một nước, theo cách hiểu thông thường là tổng thể các mối
quan hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố kinh tế và trong từng yếu tố của lực lượng
sản xuất và quan hệ sản xuất với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể trong những
giai đoạn phát triển nhất định của xã hội. Với quan niệm này, phải hiểu cơ cấu không
chỉ là qui định về số lượng, chất lượng và tỷ lệ giữa các yếu tố tạo nên hệ thống, mà
chính là quan hệ hữu cơ giữa các yếu tố của hệ thống, còn các quan hệ về số lượng, tỷ
lệ chỉ được xem như là các biểu hiện của các mối quan hệ mà thôi .
Sự phát triển kinh tế - xã hội còn biểu hiện trong biến đổi của các ngành, các
lĩnh vực sản xuất và các khu vực xã hội theo các chỉ số sau:
a/ Chỉ số cơ cấu ngành trong tổng sản phẩm quốc nội:
Chỉ số này phản ánh tỉ lệ của các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ
trong GDP. Nền kinh tế càng phát triển thì tỉ lệ công nghiệp và dịch vụ ngày càng
cao trong GDP, còn tỉ lệ nông nghiệp thì giảm tương đối .
b/ Chỉ số về cơ cấu hoạt động ngoại thương (X - M)
Tỉ lệ của giá trị sản lượng xuất khẩu thể hiện sự mở cửa của nền kinh tế với thế
giới. Một nền kinh tế phát triển thường có mức xuất khẩu ròng trong GDP tăng lên.
c/ Chỉ số về tiết kiệm - đầu tư (I)
Tỉ lệ tiết kiệm đầu tư trong tổng sản phẩm quốc dân (GNP) thể hiện rõ hơn về
khả năng tăng trưởng nền kinh tế trong tương lai. Đây là một nhân tố cơ bản của sự
tăng trưởng. Những nước có tỉ lệ đầu tư cao (từ 20%-30% GNP) thường là các n-
ước có mức tăng trưởng cao. Tuy nhiên tỉ lệ này còn phụ thuộc vào qui mô của
GNP và tỉ lệ giành cho người tiêu dùng
I = GNP - C + X - M
d/ Chỉ số cơ cấu nông thôn và thành thị
Sự biến đổi rõ nét ở bộ mặt xã hội của quá trình phát triển là mức độ thành thị

hóa các khu vực trong nước. Chỉ số này được biểu hiện ở tỉ lệ lao động và dân cư
sống ở thành thị trong tổng số lao động và dân số. Sự tăng lên của dân cư hoặc lao
động và làm việc ở thành thị là một tiến bộ do công nghiệp hóa đưa lại, nó nói lên
sự văn minh trong đời sống của nhân dân trong nước .
e/ Chỉ số về liên kết kinh tế :
Chỉ số này biểi hiện ở mối quan hệ trong sản xuất và giao lưu kinh tế giữa
các khu vực trong nước, sự chặt chẽ của mối liên hệ giữa các ngành và các khu vực
trong nước. Sự chặt chẽ của mối liên kết được đánh giá thông qua trao đổi các yếu
tố đầu vào - đầu ra trong các ma trận liên ngành, liên vùng. Điều đó thể hiện sự
tiến bộ của nền kinh tế trong nước bằng việc đáp ứng ngày càng nhiều yếu tố sản
xuất do trong nước khai thác.
- Mức thu nhập- Giá tiêu dùng- Các chính sáchkinh tế
- Vốn sản xuất- Lao động- Tài nguyên- Khoa học - công nghệ- Quản lý tổ chức- Qui mô sản xuất...- ...................
S
-Cung
-Cầu
D
Q QQ
P
S
D
Q0
Tổng sản phẩm quốc nội
P0
Biến số đầu vào Sự cân bằng của thị trường Biến số đầu ra
E
Sơ đồ 1.2: Sơ đồ mối quan hệ các nhân tố kinh tế của sự tăng trưởng
Dựa trên các tiêu thức nêu trên mà liên hiệp quốc và Ngân hàng thế giới thư-
ờng sắp xếp các nước có mức độ tiến bộ, phát triển khác nhau; trong đó quan trọng
nhất vẫn là mức thu nhập tổng sản phẩm quốc dân bình quân đầu người trong năm.

Căn cứ vào đây người ta sắp xếp các nấc thang phát triển khác nhau giữa các nước.
IV. CÁC NHÂN TỐ CỦA SỰ TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ
1/ Các nhân tố kinh tế :
Đây là lượng đầu vào mà sự biến đổi của nó trực tiếp làm thay đổi sản lượng
đầu ra. Có thể biểu hiện mối quan hệ đó bằng hàm số:
Y = F(Xi)
Trong đó: Y là sản lượng, còn Xi (i = 1, 2,..., n) là các biến số đầu vào thể
hiện các nhân tố đều chịu sự điều tiết của mối quan hệ cung - cầu. Một số nhân tố
thì ảnh hưởng tới mức cung, một số nhân tố thì ảnh hưởng tới mức cầu. Sự cân
bằng cung - cầu do giá cả thị trường điều tiết sẽ tác động trở lại các nhân tố trên và
dẫn tới kết quả của sự sản xuất, đó là sản lượng của nền kinh tế.
Trên sơ đồ 1.2, các biến số đóng vai trò của các nhân tố quyết định tổng mức
cung (S), mà sự biến đổi vật chất và giá trị của nó tạo thành tổng sản lượng của nền
kinh tế. Đó là các yếu tố sản xuất. Còn các yếu tố quyết định đến tổng mức cầu (D)
thực chất đó là các nhân tố ảnh hưởng đến kết quả sản lượng thông qua sự cân
bằng về cung - cầu (E)
Thực chất của việc tiếp cận đến nguồn gốc của sự tăng trưởng là xác định
nhân tố nào là giới hạn của sự tăng trưởng, giới hạn này do cung hay do cầu?
Các nhà kinh tế đặt nền móng cho các học thuyết kinh tế cổ điển nói riêng và
kinh tế học nói chung như Adam Smith, Jean Baptiste Say, David Ricardo cho đến
Alfred Marshall và ngay cả Karl Marx cũng đều xây dựng các lý thuyết dựa trên
quan điểm nghiêng về cung chứ không phải là cầu. Trong một giai đoạn nhất định
(ngắn hạn) sự khan hiếm của tài nguyên (nguồn đầu vào) hay sự thiếu cung, luôn
luôn là giới hạn của sự tăng trưởng, nhất là khi sức sản xuất còn thấp.
Còn theo trường phái kinh tế học hiện đại, mà xuất phát là Keynes thì mức
sản lượng và việc làm là do cầu quyết định. Điều này được lý giải sản lượng của
nền kinh tế luôn ở dưới mức tiềm năng, tức là nền kinh tế còn các nguồn lực tiềm
năng, công nhân thất nghiệp ở mức tự nhiên, vốn tích luỹ lớn, công suất máy móc
chưa tận dụng hết... Đó là do khoa học kĩ thuật ngày càng phát triển, năng suất

luôn được nâng cao. Do đó cung không phải là vấn đề giới hạn của sự gia tăng sản
lượng, mà ở đây nó phụ thuộc vào cầu.
Mặc dù vậy, trên thực tế vẫn còn những nước quá nghèo, chưa đáp ứng đư-
ợc nhu cầu cơ bản của nhân dân. Song lại có những nước quá giàu đã đáp ứng đư-
ợc nhu cầu của đất nước và đang mở rộng thị trường ra khỏi biên giới để nhằm
đẩy mạnh tăng trưởng. Vì vậy mỗi quan điểm trên đều có giá trị trong mỗi hoàn
cảnh và điều kiện riêng biệt của mỗi quốc gia .
Xuất phát từ thực tế ở các nước đang phát triển, cung vẫn chưa đáp ứng
đựơc cầu, sự gia tăng sản lượng phải bao gồm sự gia tăng trong đầu vào của các
yếu tố sản xuất theo quan hệ hàm số giữa sản lượng với vốn, lao động, đất đai và
nguyên liệu, kĩ thuật và công nghệ ...
Y = F( K,L,R,T...)
Trong đó:
K: là vốn
L: là lao động
R: là đất đai và tài nguyên
T: là tiến bộ của kĩ thuật và công nghệ
Hàm sản xuất trên nói lên sản lượng tối đa có thể sản xuất được tuỳ thuộc
vào sản lượng các yếu tố đầu vào trong điều kiện trình độ kĩ thuật và công nghệ
nhất định. Mỗi yếu tố có vai trò nhất định, do trình độ phát triển kinh tế ở mỗi nơi,
mỗi lúc quyết định:
a/ Nguồn vốn:
a1/ Vốn sản xuất và vốn đầu tư
a1.1/ Vốn sản xuất: Là một bộ phận của tài sản quốc dân bao gồm :
- Tài nguyên thiên nhiên
- Tài sản được sản xuất ra
- Nguồn nhân lực
Tài sản được sản xuất ra bao gồm toàn bộ của cải vật chất được tích luỹ lại qua
quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Những tài sản này được chia ra làm 9 loại:
1 Công xưởng nhà máy

2 Trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn phòng
3 Máy móc thiết bị, phương tiện vận tải
4 Cơ sở hạ tầng
5 Tồn kho của tất cả hàng hóa
6 Các công trình công cộng
7 Các công trình kiến trúc quốc gia
8 Nhà ở
9 Các cơ sở quân sự
Theo chức năng tham gia vào quá trình hoạt động kinh tế thì 4 nhóm cuối là:
các công trình công cộng, các công trình kiến trúc quốc gia, nhà ở, các cơ sở quân
sự không tham gia trực tiếp vào các quá trình sản xuất. Nhóm thứ hai bao gồm
những tài sản còn lại: công xưởng nhà máy; trụ sở cơ quan, trang thiết bị văn
phòng; máy móc thiết bị - phương tiện vận tải; cơ sở hạ tầng; tồn kho của tất cả
hàng hoá là những tài sản được sử dụng làm phương tiện phục vụ cho quá trình
sản xuất được gọi là tài sản sản xuất. Trong đó 4 loại tái sản đầu được gọi là vốn cố
định, loại thứ 5 là tài sản tồn kho
a 1.2 / Vốn đầu tư và hình thức đầu tư
Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là hoạt động trong thời gian dài và bị
hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu về tài sản ngày càng tăng thêm về tài sản cho
nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp hao mòn tài sản và tăng thêm
khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư thông qua
hoạt động đầu tư.
Vốn đầu tư được chia làm 2 loại: đầu tư cho tái sản sản xuất và đầu tư cho tài
sản phi sản xuất. Vốn đầu tư cho tài sản sản xuất gọi là vốn sản xuất, đó là chi phí
để thay thế tài sản cố định bị thải loại để tăng tài sản cố định mới và để tăng tài sản
tồn kho.
Như vậy hoạt động đầu tư là việc sử dụng vốn đầu tư để phục hồi năng lực
sản xuất và tạo ra năng lực sản xuất mới, đó là quá trình chuyển hóa vốn thành các
tài sản phục vụ cho quá trình sản xuất. Hoạt động đầu tư thường được tiến hành
dưới 2 hình thức:

- Đầu tư trực tiếp :là hoạt động đầu tư mà người có vốn tham gia trực tiếp vào
quá trình hoạt động và quản lí đầu tư, họ biết được mục tiêu đầu tư cũng như
phương thức hoạt động của các loại vốn mà họ bỏ ra. Hoạt động đầu tư này có thể
dưới các hình thức hợp đồng: Hợp đồng, liên doanh công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn.
- Đầu tư gián tiếp: Là hình thức bỏ vốn vào hoạt động kinh tế nhằm đem lại
hiệu quả cho bản thân người có vốn cũng như xã hội, nhưng ngời có vốn không
tham gia trực tiếp quản lý hoạt động đầu tư, dưới hình thức: cổ phiếu, tín phiếu ...
Trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng có 3 phương thức đầu tư mới được áp
dụng ở Việt Nam:
+ B - T - O: Phương thức Xây dựng - Chuyển giao - Kinh doanh
+ B - O - T: Phương thức Xây dựng - Kinh doanh - Chuyển giao
+ B - T: phương thức Xây dựng - Chuyển giao
(B - Build, T - Transfer, O - Operate)
Cả 3 phương thức đầu tư trên là những hợp đồng kí giữa Chính phủ với các
nhà đầu tư nhằm áp dụng cho các dự án về cơ sở hạ tầng.
a2/ Các nguồn hình thành vốn đầu tư :
a2.1/ Tiết kiệm là nguồn cơ bản hình thành vốn đầu tư
Toàn bộ thu nhập của một nước (GNP) trong quá trình sử dụng được chia làm
3 quĩ lớn: quĩ bù đắp, quĩ tích luỹ vốn và quĩ tiêu dùng. Quĩ bù đắp và quĩ tích luỹ
là nguồn để hình thành vốn đầu tư, trong đó quĩ đầu tư là bộ phận quan trọng nhất.
Toàn bộ quĩ tích luỹ được hình thành từ các khoản tiết kiệm. Xu hướng chung là
khi nền kinh tế càng phát triển thì tỷ lệ tích luỹ càng tăng. Đối với các nước đang
phát triển, đặc biệt là các nước có thu nhập thấp thì qui mô và tỉ lệ tích luỹ đều thấp
trong khi yêu cầu của sự phát triển kinh tế ngày càng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Điều
đó đặt ra cần thiết phải có nguồn hỗ trợ vốn từ nước ngoài :
a2.2/ Nguồn vốn đầu tư trong n ước .
* Tiết kiệm của Chính phủ (S
g
) : Là tiết kiệm của ngân sách nhà nước (S

gh
) và
tiết kiệm của các công ty Nhà nước (S
ge
) .
* Tiết kiệm của các công ty (S
e
): được xác định trên cơ sở doanh thu và các
khoản chi phí trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
* Tiết kiệm của dân cư (S
h
): Phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu hộ gia đình .
a2.3/ Nguồn vốn đầu tư nư ớc ngoài
* Viện trợ phát triển kinh tế (ODA):
ODA được gọi là nguồn vốn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền
nhà nước hay địa phương ) của một nước hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho
phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Nội dung viện trợ ODA bao gồm
- Viện trợ không hoàn lại : Thường chiếm 25% tổng vốn ODA
- Hợp tác kĩ thuật
- Cho vay ưu đãi, bao gồm:
+ Cho vay không lãi
+ Cho vay với lãi suất ưu đãi từ : 0,5 - 5% /năm, trả vồn sau 3 - 10 năm, hoàn
vốn trong thời gian 10 - 15 năm.
* Viện trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGO):
Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây viện trợ này chủ yếu
là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo :
Cung cấp thuốc men cho cá trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn
nhân thiên tai. Hiện nay, loại viện trợ này lại được thực hiện nhiều hơn bằng các
chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú và tiền

mặt .
* Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI)

×