Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

skkn xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử ở trường trung học phổ thông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.22 KB, 14 trang )

SỞ GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO THANH HOÁ
TRƯỜNG THPT HOẰNG HO II
------------------****------------------


SNG KIN KINH NGHIM
ti:

Xây dựng và sử dụng bài tập
nhận thức trong dạy học Lịch sử
ở trờng trung häc phỉ th«ng

Người thực hiện:
Đơn vị :

LÊ THỊ HỒNG

Tổ Sử - Địa – GDCD

Trường THPT Hoằng Hoá II

1


Năm học 2010 – 2011

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong dạy học lịch sử, ngoài việc giúp cho học sinh nắm được kiến thức cơ
bản, giáo dục tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, giáo viên cịn phải giúp cho học
sinh phát triển năng lực nhận thức. Việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh


trong q trình học tập lịch sử khơng chỉ làm cho các em hiểu biết sâu sắc hơn, có
phương hướng hoạt động thực tiễn mà còn tập luyện cho các em trở thành những
người có tư duy độc lập, chủ động, tích cực trong suy nghĩ và hành động. Việc phát
triển nhận thức trong học tập lịch sử bao gồm nhiều mặt trong đó hệ thống bài tập
thực hành là điều kiện cần thiết để phát triển tư duy học sinh. Có nhiều loại bài tập
lịch sử, trong đó bài tập nhận thức có vị trí quan trọng.
Theo Giáo trình phương pháp dạy học lịch sử, hệ thống bài tập nhận thức là
điều kiện cần thiết để phát triển tư duy học sinh trong học tập lịch sử. Tuy nhiên,
theo nhận định của một số nhà nghiên cứu: “bài tập nhận thức hiện còn mới mẻ đối
với việc học lịch sử ở nước ta”, “chúng ta chưa có quan niệm đầy đủ về sự cần thiết
của hệ thống bài tập nhận thức trong học lịch sử, (thậm chí có người cho rằng học
tập lịch sử không cần bài tập”
Việc sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử được các nhà nghiên cứu ở
Việt Nam khẳng định là điều kiện cần thiết để phát triển tư duy học sinh.
Giá trị của bài tập nhận thức được khẳng định rất rõ ràng, song trên thực tế, việc
sử dụng bài tập nhận thức cịn rất hạn chế. Có nhiều ngun nhân dẫn đến thực tế
này, trong đó có nguyên nhân quan trọng là giáo viên chưa được hướng dẫn cụ thể
về cách xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức.
Hiện nay, ngồi cơng trình của I.Ia. Lerner, chưa có cơng trình nghiên cứu
nào đề cập một cách có hệ thống, chưa có ấn phẩm nào về Bài tập nhận thức được
2


xuất bản, làm tài liệu tham khảo cho giáo viên. Giáo trình phương pháp dạy học lịch
sử viết: “Bài tập nhận thức hiện còn mới mẻ đối với việc học lịch sử ở trường phổ
thông ở nước ta. Từ thực tiễn, chúng ta sẽ bổ sung nhận thức lý luận và kinh nghiệm
thực hành của loại bài tập này.”
Trong điều kiện như vậy, việc tìm ra cách thức xây dựng bài tập và áp dụng
vào thực tế dạy học một cách có hiệu quả là rất cần thiết. Với ý nghĩ đó, tơi chọn đề
tài Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử .

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Do thực tế được phân công lớp dạy và điều kiện thời gian, nên phạm vi nghiên
cứu chỉ dừng lại ở giới hạn nghiên cứu quan niệm về bài tập nhận thức, cách xây
dựng bài tập, thử xây dựng một số bài tập và áp dụng vào thực nghiệm trên đối
tượng học sinh khối 10.
3. Mục đích nghiên cứu
Qua nghiên cứu vấn đề này, bản thân mong muốn tìm cách áp dụng lý luận về
bài tập nhận thức vào thực tiễn dạy học, nghiên cứu hiệu quả, khả năng ứng dụng
vào dạy học lịch sử. Trình bày lại quá trình và kết quả nghiên cứu, tôi cũng rất mong
được quý đồng nghiệp trao đổi, góp ý nhằm tìm ra cách thức xây dựng và sử dụng
bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử một cách có hiệu quả nhất.

II. NỘI DUNG
1 Thế nào là bài tập nhận thức?
Theo I.Ia.Lerner, bài tập nhận thức là một vấn đề mà “có sự mâu thuẫn giữa
điều đã biết và điều chưa biết, và vấn đề này được giải quyết bằng toàn bộ những
thao tác và phán đốn về trí tuệ và thực tiễn có tính chất trung gian giữa câu hỏi và
câu trả lời của bài tập”. “Bài tập nào cũng đòi hỏi học sinh phải tự mình trải qua
bước đường phải giải quyết hoặc tìm ra câu trả lời một cách độc lập và được chứng
minh rõ ràng”.
Lerner minh họa:
Khi giảng đề mục “Sự xuất hiện của tôn giáo”, thầy giáo kể cho học sinh biết
tơn giáo là gì, tơn giáo xuất hiện lúc nào và sau đó cho một bài tập: “Các nhà khảo
3


cổ đã tìm thấy một ngơi mộ trong đó có hài cốt của một người được chôn từ hồi xưa
nào đó. Người này nằm theo tư thế của một người ngủ nằm nghiêng, 2 chân co và
mặc quần áo thường mặt hàng ngày. Bên cạnh hài cốt có vũ khí, bát, đĩa và di tích
của thức ăn.

Câu hỏi: Ngơi mộ thuộc về thời kì nào, trước khi có tơn giáo hay lúc tôn giáo
đã xuất hiện rồi? Hãy chứng minh câu trả lời của em.
Để giải quyết bài tập này, học sinh đã xác lập mối tương quan giữa sự kiện về
ngôi mộ với những điều chúng được biết về tơn giáo (câu hỏi địi hỏi điều đó), con
người đã tin vào các lực lượng siêu tự nhiên, vào một cuộc sống ở bên kia thế giới
sau khi chết. Sau đó, học sinh phán đốn và kết luận: Vì trong mộ có bát đĩa, thức
ăn, quần áo, vậy thì người ta đã cho rằng những thứ đó cần thiết cho người được
chôn cất sau khi chết. Và nếu như thế thì đó là những con người có tơn giáo và do
đó, ngơi mộ đã xuất hiện trong thời kì có tơn giáo.
Theo cách nghĩ của tơi, có thể xem bài tập nhận thức là một “bài toán”, được
hiểu theo nghĩa là một công việc mà người ta chưa biết cách hoàn thành và kết quả,
hay chưa biết một trong hai yếu tố đó, nhưng có thể tìm kiếm được với những điều
kiện đã cho.
Có thể chia bài tập nhận thức thành hai phần:
- Phần giả thiết: là những tư liệu lịch sử, thường là những sự kiện, hiện tượng
lịch sử cụ thể. Đây là cơ sở để giáo viên đặt vấn đề, yêu cầu học sinh phải giải quyết
và cũng là cơ sở mà dựa vào đó, qua thực hiện các thao tác tư duy, học sinh tìm ra
câu trả lời.
- Phần kết luận: là câu trả lời, là “đáp số” của “bài toán”.
Trong dạy học lịch sử, giáo viên thường đặt ra nhiều yêu cầu đối với học sinh
như: trả lời các câu hỏi, chứng minh một vấn đề nào đó hoặc xác định bản chất, ý
nghĩa của sự kiện, hiện tượng lịch sử… Không phải yêu cầu hay bất cứ câu hỏi nào
đối với học sinh cũng là bài tập nhận thức.

4


Những yêu cầu mà để trả lời, học sinh chỉ cần nhớ lại, hình dung lại những
kiến thức đã học, thơng qua bài giảng của thầy hoặc có sẵn trong sách giáo khoa,
không được xem là những yêu cầu trong bài tập nhận thức.

Câu hỏi trong bài tập nhận thức phải là câu hỏi mà muốn trả lời được học
sinh phải có sự vận dụng kiến thức, tức là dùng kiến thức đã biết, chủ yếu là kiến
thức trừu tượng, khái quát soi vào những điều kiện đã cho để tìm ra câu trả lời.
2. Phương pháp sử dụng bài tập nhận thức.
Trong điều kiện hiện nay, việc giảng dạy và học tập bộ mơn Lịch sử vẫn cịn
nhiều bất cập như: Chương trình sách giáo khoa khá nặng nề, quá tải, về kết cấu các
nội dung, về thời lượng của chương trình. Tất cả các vấn đề đó đã gây khơng ít khó
khăn cho việc dạy, học Lịch sử ở trường trung học phổ thống hiện nay. Tuy vậy, việc
vận dụng bài tập nhận thức phù hợp sẽ đem lại hiệu quả trong q trình dạy học.
Chúng ta có thể vận dụng bài tập nhận thức trong các trường hợp sau đây:
- Sử dụng bài tập nhận thức đầu giờ học để tạo tình huống có vấn đề và đặt
mục tiêu nhận thức cho học sinh. Với trường hợp này thơng qua bài học tại lớp học
sinh có thể tự tìm lời giải hoặc về nhà các em tự giải bài.
- Giáo viên đặt câu hỏi nhận thức, trong giờ dạy trùng với một phần kiến thức
trong bài để thay thế cho phần nội dung đó. Trường hợp này giáo viên hướng dẫn
và cùng với học sinh giải bài tập để các em chủ động trong khi tiếp thu kiến thức.
- Sử dụng bài tập vào tiết ôn tập để học sinh nắm vững được khái quát hóa
nội dung của quá trình lịch sử hoặc của một chương...
3. Các bước xây dựng bài tập nhận thức
Dựa trên những yêu cầu của bài tập nhận thức, tôi tự định ra các bước xây dựng
bài tập nhận thức như sau:
- Bước 1: Xác định mục tiêu của bài học và từng đề mục cụ thể. Nghĩa là
cần xác định về mặt nhận thức, học sinh cần nhận thức được những gì; qua bài học,
rèn luyện được mặt nào của năng lực nhận thức; giáo dục được gì về tư tưởng cho
học sinh.
5


Việc sử dụng bài tập nhận thức là một trong những cách thức, biện pháp trang
bị kiến thức, rèn luyện năng lực tư duy, giáo dục tư tưởng cho học sinh. Do đó, việc

xây dựng, sử dụng bài tập nhận thức ở bài học nào đó phải bám sát yêu cầu về mục
tiêu của bài học, mục tiêu cụ thể của đề mục có liên quan.
- Bước 2: Tìm “vấn đề” để xây dựng bài tập
Cách trình bày của sách giáo khoa hiện tại vẫn cịn theo lối giải thích hoặc
chứng minh kiến thức lịch sử, nghĩa là đưa ra nhận định trước, sau đó minh họa bằng
các sự kiện, hiện tượng hoặc trình bày các sự kiện, hiện tượng rồi đưa ra kết luận.
Như thế, giáo viên sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi chọn vấn đề để xây dựng bài tập.
Nói như vậy khơng có nghĩa là khơng thể xây dựng bài tập. Nghiên cứu sách giáo
khoa chúng ta thấy, bên cạnh những vấn đề được giải thích, chứng minh rõ ràng, vẫn
còn nhiều vấn đề, nhiều phần kiến thức, nhiều khía cạnh mà nếu chỉ đọc sách giáo
khoa, học sinh chưa thể hiểu, cần có sự giúp đỡ của giáo viên. Đó là những “vấn đề”
mà chúng ta có thể khai thác để xây dựng bài tập.
Từ tư liệu do sách giáo khoa cung cấp, khai thác ở nhiều góc độ, nhiều mức
độ, giáo viên cũng có thể tìm được “vấn đề” để xây dựng bài tập nhận thức.
- Bước 3: Xây dựng bài tập
Trên cơ sở xác định được những vấn đề học sinh còn gút mắc, những vấn đề
cần khai thác thêm từ tư liệu trong sách giáo khoa nhằm giúp học sinh nhận thức
thêm, giáo viên tiến hành tìm tư liệu lịch sử qua các nguồn tài liệu tham khảo hoặc
sử dụng tư liệu từ sách giáo khoa để đặt vấn đề theo cách xây dựng bài tập nhận
thức.
Do bài tập nhận thức giống như một “bài toán” nên tư liệu lịch sử ở phần “giả
thiết” phải đảm bảo đúng và đủ để học sinh dựa vào đó, vận dụng kiến thức đã học
chứng minh, tìm ra “kết luận”. Kết luận đạt được qua giải bài tập phải hướng đến
giúp học sinh hiểu được những vấn đề còn gút mắc hoặc nhận thức lịch sử sâu hơn.
4. Xây dựng một số bài tập minh họa

6


Trên cơ sở xác định những bước xây dựng bài tập như trên, tôi thử tiến hành

xây dựng bài tập nhận thức ở một số bài học trong chương trình lịch sử lớp 10
(Chương trình chuẩn), cụ thể như sau:
Bài 4. Các quốc gia cổ đại phương Tây – Hi Lạp và Rô-ma
Mục 2. Thị quốc Địa Trung Hải
Một trong những mục tiêu quan trọng: giúp học sinh nhận thức vai trị, thân
phận của nơ lệ. Sách giáo khoa chỉ cho biết nô lệ “bị khinh rẻ”, giáo viên cần giúp
học sinh nhận thức rõ hơn biểu hiện cụ thể và hậu quả của vấn đề này.
Chúng ta có thể sử dụng tư liệu sau đây để xây dựng bài tập nhận thức:
Tầng lớp chủ nơ giàu có thường tổ chức đấu kiếm hay đấu võ giữa các đấu sĩ
với dã thú (hổ, báo…) để mua vui, nhân dịp sinh con trai nối dõi, gã chồng cho con
gái hoặc trong nhà có việc tang. Đấu sĩ trang bị nhiều kiểu khác nhau, có khi mũ bịt
đầu của họ chỉ chừa hai kẻ hở nhỏ ở vị trí đơi mắt, làm cho kẻ bất hạnh ấy chỉ cịn
đánh nhau trong tình trạng hoàn toàn như bị bịt mắt. Kiếm của họ thường rất ngắn.
tất cả những thứ ấy nhằm mục đích là làm cho các đấu sĩ không thể giết nhau ngay
lập tức. Cuộc đấu càng kéo dài, máu đấu sĩ chảy càng nhiều, càng được xem là hấp
dẫn và được người xem càng tán thưởng, hị reo, thích thú.( 5- Tr 120)
Ở phương Tây cổ đại, nô lệ là lực lượng sản xuất chính, ni sống xã hội,
nhưng hiện tượng trên lại thường xuyên diễn ra.
Yêu cầu có thể đặt ra:
1. Em có suy nghĩ gì về nghịch lý ở hiện tượng trên?
2. Hãy cho biết ý kiến của em về hệ quả của những trò vui tàn bạo nêu trên
của chủ nơ.
Có thể cho học sinh giải bài tập này ở nhà, sau khi dạy xong mục 2. Thị quốc
Địa Trung Hải (hết tiết 1 của bài này).
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, học sinh phải sử dụng kiến thức đã biết: nô lệ là
lực lượng sản xuất chính, ni sống xã hội. Đối chiếu với thơng tin từ tư liệu trên,
học sinh có thể tìm được câu trả lời: Nơ lệ là lực lượng sản xuất chính, nuôi sống xã

7



hội, lẽ ra phải được bảo vệ. Song, tư liệu trên cho thấy, tính mạng của nơ lệ bị xem
thường. Đây là điều nghịch lý.
Đối với câu hỏi thứ hai, trên cơ sở nhận thức được hiện tượng nêu trên là biểu
hiện của áp bức, vận dụng hiểu biết về quy luật “có áp bức có đấu tranh”, học sinh
có thể tìm được câu trả lời: Hiện tượng nêu trên là biểu hiện cụ thể của hành vi áp
bức. Ở đâu có áp bức, ở đó có đấu tranh. Hệ quả chắc chắn xảy ra là nô lệ sẽ nổi
dậy đấu tranh.
Bài 10. Thời kì hình thành và phát triển của chế độ phong kiến ở Tây Âu
(Từ thế kỉ V đến thế kỉ XIV).
Mục 1. Sự hình thành các vương quốc phong kiến ở Tây Âu
Một trong những vấn đề học sinh cần nắm vững: sau khi chinh phục Rôma,
người Giecman từ bỏ chế độ bộ lạc, xưng vua, bắt đầu q trình phong kiến hóa.
Nhằm giúp học sinh thu nhận thêm kiến thức cụ thể, rèn luyện năng lực nhận
thức cho học sinh, giúp học sinh hiểu sâu hơn kiến thức về sự chuyển biến của xã
hội người Giecman trước và sau khi chinh phục được Rôma, kết thúc bài học, tôi
yêu cầu học sinh giải bài tập nhận thức sau:
Trong cuộc xâm chiếm thành phố Xốt Xơng, quân đội Phơrăng (một bộ tộc
của ngưởi Giecman) đã cướp đoạt được nhiều chiến lợi phẩm, trong đó có cái bình
thờ rất đẹp. Clơvit muốn biếu cái bình đó cho nhà thờ Cơ đốc giáo, nên xin riêng
cái bình thờ đó. Một người lính đã đập vỡ cái bình đó và nói: “Anh chỉ được nhận
phần nào mà anh rút thăm được”. Clơvit căm tức, nhưng khơng nói gì. Năm sau,
sau khi chinh phục được đế quốc Rôma, Clôvit xưng vua. Khi duyệt binh, Clơvit gặp
lại người lính cũ đã đập vỡ cái bình . Lấy cớ người lính giữ gìn vũ khí khơng sạch,
Clơvit vứt cái rìu của anh ta xuống đất để anh ta cúi xuống nhặt. Lợi dụng lúc anh
ta khơng đề phịng, Clơvit liền bổ vào đầu anh ta và nói: “Mày cịn nhớ cái bình
Xốt Xơng khơng?” Những người lính khác khơng dám phản đối hành động của
Clôvit.( 6. Tr 14)
Hỏi:


8


1. Thái độ, hành động của Clôvit và những người lính trước và sau khi chinh
phục được đế quốc Rơma khác nhau như thế nào?
2. Dựa vào những hiểu biết về xã hội của người Giecman trước và sau khi
chinh phục được đế quốc Rơma, em hãy giải thích vì sao có sự khác nhau này?
Yêu cầu về mặt nội dung và phương pháp khi giải bài tập này:
Để trả lời câu hỏi thứ nhất, học sinh cần sử dụng năng lực phân tích tư liệu để
nêu lên cốt lõi của vấn đề:
Trước khi chinh phục Rơma, những người lính đã phản đối việc Clôvit lấy
của chung làm của riêng; Clôvit phục tùng ý kiến của tập thể. Sau khi chinh phục
được đế quốc Rôma, Clôvit hành động tàn bạo; những người lính khơng dám phản
đối hành động của Clơvit.
Câu thứ hai đòi hỏi học sinh phải vận dụng những kiến thức đã biết về xã hội
của người Giecman trước và sau khi chinh phục Rôma đối chiếu với tư liệu để tìm ra
câu trả lời.
Trước khi chinh phục Rơma, xã hội của người Giecman là công xã nguyên
thủy, công bằng, bình đẳng được xem là “nguyên tắc vàng”. Ý định chiếm của
chung làm của riêng là trái với nguyên tắc xã hội, do đó những người lính đã phản
đối và Clôvit phải phục tùng.
Sau khi chinh phục Rôma, xã hội của người Giecman bắt đầu q trình phong
kiến hóa, theo đó quyền lực của vua là tối thượng, do đó Clơvit đã hành động tàn
bạo và những người lính đã không dám phản đối.
Bài 11. Tây Âu thời hậu kì trung đại
Mục 4. Cải cách tơn giáo và chiến tranh nông dân
Một trong những kiến thức cần giúp học sinh hiểu rõ: ngun nhân dẫn đến
cải cách tơn giáo.
Có thể sử dụng tư liệu sau đây để xây dựng bài tập:
Đầu thế kỉ XVI khắp phố chợ ở Tây Âu người ta thấy các tu sĩ xà vào những

chỗ đông người, ra bán (thẻ xá tội): “Đem tiền ra mau! Hãy cứu vớt những người

9


ruột thịt và thân thích ! Chỉ cần đồng tiền kêu trong đáy túi của ta, linh hồn của
người phạm tội sẽ được lên thiêng đàng !”(1.Tr.36)
Hỏi: Cho biết nhận xét của em về tính chất (bình thường hay khơng bình
thường) của hiện tượng trên? Theo em, hiện tượng trên có thể tồn tại lâu dài được
khơng? Vì sao?
Có thể cho học sinh giải bài tập này trước khi giảng mục 4. Cải cách tôn giáo
và chiến tranh nông dân.
Để giải được bài tập này học sinh phải vận dụng những những kiến thức đã
biết về nghi lễ, luật lệ Kitô giáo làm căn cứ, đối chiếu với hiện tượng cụ thể mà tư
liệu bài tập cung cấp để phát hiện tính chất của hiện tượng đó. Trên cơ sở đó mà xác
định mối liên hệ giữa tính chất của hiện tượng với khả năng tồn tại của hiện tượng.
Mua bán thẻ xá tội hay dùng tiền để rửa tội là hiện tượng thô tục, trái với
giáo lý, nghi lễ. Đó là hiện tượng khơng bình thường. Giáo dân chắc chắn sẽ phản
đối hiện tượng trên để bảo vệ giáo lý, lễ nghi, những điều rất thiêng liêng đối với
họ. Bên trong hiện tượng trên đã chứa đựng mầm mống của sự tiêu diệt. Hiện tượng
trên không thể tồn tại lâu dài được.
Bài 17. Quá trình hình thành và phát triển của nhà nước phong kiến (Từ
thế kỉ X đến thế kỉ XV)
Ở mục II.2. Luật pháp và quân đội, một trong những kiến thức cần giúp học
sinh nắm vững: mục đích của việc ban hành luật là bảo vệ quyền hành của giai cấp
thống trị, một số quyền lợi chân chính của nhân dân và an ninh đất nước.
Nhằm giúp học sinh hiểu sâu kiến thức, rèn luyện năng lực tư duy cho học
sinh, sau khi học xong bài học, giáo viên yêu cầu học sinh giải bài tập sau:
Luật Hồng Đức có quy định: Đào trộm đê đập làm thiệt hại lúa má thì xử tội
đồ, lưu, bắt đền tổn hại. (4.Tr.89)

Hỏi: Mục đích trước mắt và sâu xa của điều luật trên là gì? Hãy giải thích
câu trả lời của em.
Yêu cầu đối với học sinh về mặt nội dung và phương pháp khi giải bài tập
này:
10


Vận dụng kiến thức đã biết về vai trò của đê đập, vai trị của nơng nghiệp, vai
trị của luật pháp, đối chiếu với tư liệu mà bài tập cung cấp để tìm ra câu trả lời.
Đê đập có vai trò quan trọng trong việc ổn định nguồn nước. Giữ được đê
đập là góp phần đảm bảo năng suất sản xuất nông nghiệp. Như vậy, trước mắt, nhà
nước muốn thông qua việc bảo vệ đê đập để bảo vệ sản xuất nơng nghiệp, ổn định
kinh tế.
Mất mùa có thể ảnh hưởng đến việc nộp tô thuế, gây mất ổn định xã hội. Luật
có vai trị bảo vệ quyền lợi của giai cấp, ổn định xã hội. Cho nên, ngoài mục đích
bảo vệ sản xuất nơng nghiệp, sâu xa hơn, điều luật trên cịn góp phần bảo vệ quyền
lợi của giai cấp thống trị, ổn định trật tự xã hội.
Bài 30. Chiến tranh dành độc lập của các thuộc địa Anh ở Bắc Mĩ
Trong tuyên ngôn độc lập của nước Mĩ năm 1776 có đoạn viết:"Mọi người
sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hóa cho họ những quyền bất khả xâm phạm.
Quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, bên cạnh đó tun ngơn cũng
thừa nhận quyền lực của giai cấp tư sản, của người da trắng không thủ tiêu chế độ
nơ lệ. Em có nhận xét gì về bản tuyên ngôn này?
Bài 31. Cách mạng tư sản Pháp cuổi thế kỉ XVIII
Những chính sách mà phái Gia Cơ Banh giải quyết cho quần chúng nhân dân,
chính sách nào dưới đây có ý nghĩa nhất đối với nơng dân nghèo?.
+ Chia ruộng đất ra từng mảnh nhỏ và bán trả trong thời gian 10 năm.
+ Trả lại về việc cho nông dân sử dụng đất công bị lãnh chúa chiếm.
+ Xóa bỏ đặc quyền và phụ thu phong kiến.
Hoặc: Cách mạng tư sản pháp (1789-1799) đạt đến đỉnh cao là thời chun

chính dân chủ Gia Cơ Banh (Từ 2-6-1793 đến 27-7-11794). Vì sao thời kỳ này là đỉnh
cao?
3. Hiệu quả của việc sử dụng bài tập nhận thức
Để giải được bài tập nhận thức đòi hỏi học sinh phải sử dụng năng lực nhận
thức cái cụ thể như quan sát, hình dung, tưởng tượng, lựa chọn các chi tiết cần thiết
11


để trên cơ sở đó, học sinh sử dụng các hình thức hoạt động tư duy như phân tích, so
sánh, tổng hợp…, vận dụng những kiến thức đã biết, soi vào những điều kiện đã cho
ở bài tập, tìm ra lời giải, phát hiện ra kiến thức mới theo yêu cầu của bài tập. Nói
cách khác, bài tập nhận thức yêu cầu học sinh phải sử dụng năng lực nhận thức cái
cụ thể và năng lực tiến hành các hình thức hoạt động tư duy. Việc sử dụng bài tập
nhận thức trong dạy học lịch sử thật sự có tác dụng tích cực trong việc phát triển
năng lực nhận thức cho học sinh.
Ban đầu, khi yêu cầu học sinh giải bài tập các em rất ngỡ ngàng và cho rằng
đây là nhiệm vụ nặng nề, khó có thể hồn thành. Nhưng khi được giáo viên giải
thích rõ mục đích, hướng dẫn phương pháp giải bài tập, các em tỏ ra hứng thú khi
thực hiện nhiệm vụ này. Khi giải bài tập thứ hai, các em rất tích cực, cho rằng đó là
thử thách thú vị, muốn thử sức để qua đó chứng tỏ năng lực nhận thức của mình.
Kết quả thực nghiệm có được qua bước đầu sử dụng bài tập nhận thức cho
thấy khả năng, hiệu quả và ý nghĩa rõ ràng của việc sử dụng bài tập nhận thức trong
dạy lịch sử.

III. KẾT LUẬN
Sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là một trong những biện pháp
tích cực đối với việc phát triển năng lực nhận thức cho học sinh, góp phần quan
trọng trong việc đảm bảo chất lượng bộ mơn. Với ý nghĩa tích cực như vậy, bài tập
nhận thức rất cần được đưa vào thực tế dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
Muốn sử dụng bài tập nhận thức trước hết phải nghiên cứu cách thức xây

dựng bài tập. Khi xây dựng bài tập cần bám sát mục tiêu của bài học, mục tiêu cụ thể
của các đề mục có liên quan. Trên cơ sở xác định kiến thức trọng tâm của bài học, đề
mục, cần khai thác những vấn đề, những khía cạnh mà học sinh khó hiểu, cần giáo
viên giúp đỡ để hiểu sâu để tìm tư liệu xây dựng bài tập như một “bài toán”. Yêu cầu
hay câu hỏi mà bài tập nhận thức đặt ra nhất thiết phải đảm bảo yêu cầu học sinh
phải tư duy, vận dụng kiến thức đã biết soi vào tư liệu do bài tập cung cấp mới có thể
tìm ra câu trả lời.

12


Tùy theo chủ ý của giáo viên khi xây dựng bài tập, chuẩn bị bài giảng, đặc
điểm học sinh, có thể sử dụng bài tập nhận thức ở đầu, giữa hay cuối chương, bài
hay đề mục nào đó.
Thời gian đầu, giáo viên chỉ nên ra các bài tập đơn giản và cần hướng dẫn các
em cách giải bài tập, chẳng hạn giải thích các bước tiến hành, cách phân tích giả
thiết, cách xây dựng các bước trong lập luận… Khi học sinh quen dần với việc giải
bài tập, giáo viên có thể cho học sinh giải các bài tập phức tạp hơn, yêu cầu học sinh
độc lập tìm ra lời giải.
Do chưa có nhiều thời gian nghiên cứu và ứng dụng, đôi điều đúc kết được
trên đây chỉ là kinh nghiệm bước đầu. Bản thân xem đây là cơ sở để tiếp tục nghiên
cứu xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong thời gian tới. Trên cơ sở nắm vững
cách thức xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức, nếu được vận dụng vào thực tế
dạy học, chắc chắn đây sẽ là biện pháp tích cực nhằm phát triển tư duy học sinh,
thực hiện tinh thần đổi mới phương pháp, khắc phục tâm lý cho rằng học sử chỉ cần
học thuộc lòng.
Xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử là công việc
khơng đơn giản. Chính vì thế cho nên đến hiện tại cơng việc này “vẫn cịn mới mẻ”.
Song đây cũng khơng phải là cơng việc q khó. Nếu giáo viên quan tâm đúng mức,
việc xây dựng và sử dụng bài tập nhận thức trong dạy học lịch sử sẽ trở thành phổ

biến./.

13


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lương Ninh – Đặng Đức An, 1976, Lịch sử thế giới trung đại (quyển 1,
tập1), NXB Giáo dục, Hà Nội, trang 36
2. I.Ia. Lerner, Bài tập nhận thức, người dịch: Nguyễn Cao Lũy và Văn Chu,
Viện Chương trình và phương pháp – Bộ Giáo dục, 43 trang.
3. Phan Ngọc Liên – Trần Văn Trị (chủ biên), 1999, Phương pháp dạy học
lịch sử, NXB Giáo dục, 296 trang.
4. Phan Ngọc Liên (Tổng chủ biên), 2008, Lịch sử 10, NXB Giáo dục, 208
trang.
5. Nhiều tác giả, 1983, Tư liệu giảng dạy lịch sử thế giới cổ đại, NXB Giáo
dục, Hà Nội, trang 120.
6. Đặng Đức An, Phạm Hồng Việt, 1978, Lịch sử thế giới trung đại, T1, NXB
Giáo dục, Hà Nội, trang 14

14



×