Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.84 KB, 28 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN LÝ VỐN NHÀ NƯỚC TẠI DOANH NGHIỆP
NHÀ NƯỚC
1.1. Sự cần thiết quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.1.1. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường
Trên thế giới hiện có rất nhiều quan niệm khác nhau về doanh nghiệp nhà nước.
Có người cho rằng doanh nghiệp nhà nước là các xí nghiệp công làm nhiệm vụ sự
nghiệp (cảnh sát, cứu hoả, y tế, giáo dục...). Khi giảng về doanh nghiệp nhà nước,
giáo sư Michel Rambolt đã đưa ra ba tiêu chí xác định doanh nghiệp nhà nước:
doanh nghiệp nhà nước trực tiếp chịu sự kiểm soát của ai? Sản xuất ra sản phẩm
đem bán hay không đem bán? Hoạt động gắn với lợi ích chung hay lợi ích cá
nhân? Từ đó, ông quan niệm rằng: Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp chịu sự
kiểm soát trực tiếp của nhà nước, được phân làm hai loại: Loại một là các xí
nghiệp, tổ chức sản xuất những sản phẩm không dùng để bán, nó làm việc vì lợi
ích chung và được gọi là các cơ quan hành chính; Loại hai là các xí nghiệp công
cộng, loại này lại được chia thành hai nhóm: Nhóm thứ nhất là các doanh nghiệp
sản xuất mặt hàng để bán, trao đổi, hoạt động vì lợi ích chung, sản phẩm của nó
thường là các dịch vụ công cộng. Nhóm hai là các doanh nghiệp hoạt động trong
môi trường phải cạnh tranh, thường hoạt động vì lợi ích riêng nào đó.
Ở nước ta, theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày
20/4/1995: doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà nước thành lập, đầu tư
vốn và tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích nhằm thực
hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước có tư
cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp
nhà nước có tên gọi, con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam.
Doanh nghiệp nhà nước mang các đặc điểm chung với các loại hình doanh
nghiệp khác như:
Thứ nhất, chức năng kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước bao gồm: sản xuất-
cung ứng trao đổi, hợp tác và tiêu thụ các sản phẩm hàng hoá dịch vụ.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân. Tư cách pháp nhân của
doanh nghiệp nhà nước là điều kiện cơ bản quyết định sự atồn tại của doanh nghiệp


nhà nước trong hệ thống kinh tế quốc dân. Tư cách pháp nhân của doanh nghiệp
nhà nước đòi hỏi doanh nghiệp nhà nước phải tự chịu trách nhiệm về quản lý, về
nghĩa vụ tài chính trong việc thanh toán những khoản công nợ khi doanh nghiệp
phá sản hay giải thể. Với tư cách là một pháp nhân độc lập, doanh nghiệp nhà nước
có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động sản
xuất kinh doanh. Tư cách này tạo cho doanh nghiệp nhà nước địa vị pháp lý để
đảm bảo độc lập tự chủ.
Ba là, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước cũng chịu sự
chi phối và tác động của môi trường kinh tế.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp nhà nước có thể được phân biệt với các loại hình
doanh nghiệp khác bởi các đặc điểm sau đây:
Một là, doanh nghiệp nhà nước do cơ quan nhà nước có thẩm quyền trực tiếp ra
quyết định thành lập nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao.
Như vậy doanh nghiệp nhà nước không chỉ được thành lập để thực hiện các hoạt
động kinh doanh (nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế) mà còn để thực hiện các
hoạt động công ích (nhằm thực hiện các mục tiêu xã hội). Các loại hình doanh
nghiệp khác không phải do nhà nước thành lập mà chỉ được nhà nước cho phép
thành lập trên cơ sở đơn xin thành lập của các chủ thể kinh doanh.
Hai là, doanh nghiệp nhà nước do nhà nước tổ chức quản lý. Nhà nước tổ chức
bộ máy quản lý các doanh nghiệp nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng; nhà
nước bổ nhiệm các cán bộ chủ chốt của doanh nghiệp, phê duyệt chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch dài hạn hay trung hạn của doanh nghiệp...
Ba là, tài sản của doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận tài sản của nhà nước.
Doanh nghiệp nhà nước do nhà nước đầu tư vốn thành lập nên nó thuộc sở hữu nhà
nước. Doanh nghiệp nhà nước là một chủ thể kinh doanh không có quyền sở hữu
đối với tài sản mà chỉ là chủ quản lý và tiến hành hoạt động kinh doanh trên số tài
sản của nhà nước. Trong khi đó, các chủ thể kinh doanh khác đều là chủ sở hữu với
tài sản kinh doanh của họ.
Có thể phân loại doanh nghiệp nhà nước thành hai loại căn cứ vào chức năng
hoạt động của doanh nghiệp là: doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh (hoạt

động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận) và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công
ích (hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà
nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh...)
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phát triển trong mối quan hệ
kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu, về vốn và tài sản, về cơ chế tổ chức quản lý.
Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường không chỉ tồn tại đơn nhất trong khu
vực kinh tế quốc doanh (doanh nghiệp nhà nước) như trong nền kinh tế kế hoạch
hoá mà còn tồn tại dưới nhiều hình thức sở hữu bao gồm các loại hình tổ chức
doanh nghiệp khác nhau như: Doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn,
công ty cổ phần, công ty liên doanh... Nhưng doanh nghiệp nhà nước có vị trí đặc
biệt quan trọng, nó là bộ phận nòng cốt của thành phần kinh tế nhà nước, thành
phần kinh tế giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế. Vai trò của doanh nghiệp nhà
nước được thể hiện qua những chức năng cụ thể sau:
Thứ nhất, chức năng định hướng sự phát triển của nền kinh tế. Chức năng này
thể hiện ở chỗ doanh nghiệp nhà nước phải đi tiên phong trong các lĩnh vực chiến
lược theo đường lối phát triển của nhà nước tạo điều kiện cho các thành phần kinh
tế khác tham gia; doanh nghiệp nhà nước phải là mẫu mực về trình độ quản lý, về
hiệu quả kinh doanh để các doanh nghiệp khác noi theo;
Thứ hai, chức năng hỗ trợ và phục vụ. Sự khác biệt giữa doanh nghiệp nhà nước
và các loại hình doanh nghiệp khác là sự phát triển của doanh nghiệp nhà nước
không phải đơn thuần vì bản thân nó mà quan trọng hơn cả là tạo điều kiện cho sự
phát triển của toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Bởi vậy, doanh nghiệp nhà nước được
bố trí xây dựng ở những khu vực ngành nghề cần thiết tạo điều kiện cho nền kinh
tế phát triển đồng đều giữa các vùng của đất nước;
Thứ ba, chức năng đảm bảo sức mạnh vật chất để nhà nước điều tiết và hướng
dẫn nền kinh tế thị trường. Chức năng này được hiểu là các doanh nghiệp nhà nước
phải có đóng góp thích đáng cho sự phát triển kinh tế bằng việc kinh doanh có hiệu
quả; doanh nghiệp nhà nước phải bảo đảm vai trò quyết định này để Chính phủ có
đủ nguồn lực chỉ đạo và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo mục tiêu đề ra.
1.1.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước

1.1.2.1. Vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Vốn Nhà nước giao cho doanh nghiệp quản lý và sử dụng là vốn được cấp từ
ngân sách, vốn có nguồn gốc ngân sách và vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích
luỹ.
Từ khái niệm trên có thể thấy vốn nhà nước được cấu thành bởi ba bộ phận:
Một là, vốn được cấp từ ngân sách, là vốn doanh nghiệp nhà nước được cấp
phát lần đầu khi mới hoạt động (xác định từ thời điểm giao nhận vốn), vốn được
cấp bổ sung trong quá trình hoạt động; vốn được tiếp quản từ chế độ cũ để lại.
Hai là, vốn có nguồn gốc ngân sách, là các khoản vốn tăng thêm do được miễn,
giảm thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc được cấp lại các khoản phải nộp ngân sách
theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; chênh lệch giá tài sản cố
định, vật tư, hàng hoá tồn kho qua các lần kiểm kê, điều chỉnh giá; các nguồn vốn
viện trợ: viện trợ nhân dân, viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế, quà tặng
theo qui định phải ghi tăng vốn ngân sách cấp;
Ba là, vốn của doanh nghiệp nhà nước tự tích luỹ, chính là phần thu nhập sau
thuế doanh nghiệp nhà nước giữ lại để tái đầu tư.
Hình thức thực hiện đầu tư của Chính phủ vào các doanh nghiệp nhà nước cụ
thể như sau:
Một là, giá trị quyền sử dụng đất, Chính phủ giao đất cho doanh nghiệp nhà
nước hay cho doanh nghiệp thuê đất, thực hiện những chính sách ưu đãi về đất đai
đối với doanh nghiệp nhà nước;
Hai là, cấp vốn điều lệ và bổ sung vốn:
- Vốn điều lệ để san lấp mặt bằng, xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc
thiết bị đưa vào sản xuất;
- Vốn bổ sung được cấp trong trường hợp doanh nghiệp nhà nước được giao
thêm nhiệm vụ;
Ba là, không thu khấu hao, miễn giảm thuế hay cấp tín dụng nhà nước ưu đãi...
Những khoản đó được doanh nghiệp nhà nước sử dụng để tái đầu tư, thay thế đổi
mới tài sản cố định và sử dụng cho các yêu cầu kinh doanh khác theo quy định của
Chính phủ.

1.1.2.2. Tính tất yếu của việc quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Nhà nước phải quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước vì:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước thuộc sở hữu nhà nước nhưng nhà nước giao
cho một số cá nhân, đơn vị sử dụng. Như vậy có sự tách biệt giữa người sở hữu
vốn và người sử dụng vốn, hai đối tượng này có thể có mục tiêu không phù hợp
nhau. Các doanh nghiệp nhà nước không phải đương đầu với nguy cơ bị đối thủ
cạnh tranh mua lại như các doanh nghiệp trong khu vực tư nhân. Do đó người sử
dụng vốn có thể sử dụng vào những động cơ cá nhân, những động cơ có thể làm
cho những nhà lãnh đạo các doanh nghiệp nhà nước hành động không nhất quán
với các mục tiêu của doanh nghiệp. Khi những người này không nắm quyền sở hữu
vốn của doanh nghiệp và cũng không thể tăng thêm sự giàu có cho bản thân bằng
cách tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thì chẳng có gì kích thích họ phải
nhìn xa khi quyết định phương án sản xuất kinh doanh. Vì thế đòi hỏi phải có sự
quản lý chặt chẽ của nhà nước nhằm đảm bảo vốn và tài sản của nhà nước không bị
xâm phạm trong quá trình kinh doanh cũng như doanh nghiệp hoạt động theo đúng
mục tiêu nhà nước đề ra.
Thứ hai, nhà nước quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước cũng là
thực hiện vai trò quản lý nhà nước của mình. Nhà nước ban hành các chế độ tài
chính đối với doanh nghiệp nhà nước, theo dõi và kiểm tra việc chấp hành các chế
độ đó. Việc theo dõi, kiểm tra tình hình sử dụng vốn tại các doanh nghiệp nhà nước
giúp cơ quan quản lý nắm bắt được tình hình thực tế tại các doanh nghiệp, theo dõi
tiến trình thực hiện các văn bản. Từ đó thu thập thông tin để chỉnh sửa, bổ sung,
hoàn thiện các chính sách cho kịp thời, phù hợp với thực tế. Đồng thời thông qua
công tác quản lý vốn, nhà nước mới có những thông tin chính xác để đánh giá đúng
chất lượng kinh doanh ở các doanh nghiệp nhà nước. Trên cơ sở các thông tin đánh
giá này, nhà nước có kế hoạch sắp xếp, bố trí lại các doanh nghiệp, vốn và lao
động, hoàn thiện các khâu quản lý nhằm đạt hiệu quả kinh doanh và thực hiện các
mục tiêu xã hội.
Thứ ba, đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh, phần lợi
nhuận sau thuế thuộc về nhà nước. Nhà nước sử dụng lợi nhuận đó để duy trì và tái

sản xuất mở rộng doanh nghiệp hoặc đáp ứng một lợi ích nào đó của nhà nước. Do
đó, để lợi nhuận sau thuế được tối đa hoá, nhà nước phải quản lý phần vốn đầu tư
của mình để nó được sử dụng một cách có hiệu quả, trên cở sở đó tăng lợi ích nhà
nước.
Tóm lại, việc nhà nước quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là một
đòi hỏi khách quan để bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu trong việc bảo toàn vốn và tài
sản cũng như để thực hiện vai trò quản lý của mình.
1.2. Nội dung công tác quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
1.2.1. Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước
Thiết lập căn cứ về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp nhà nước là việc làm
cần thiết nhằm tạo cơ sở giúp các đơn vị được giao vốn thực hiện quản lý vốn được
giao và giúp các cơ quan kiểm tra, giám sát thực hiện nhiệm vụ giám sát của mình.
Hình thức biểu hiện cụ thể của nội dung công tác này là việc xây dựng hệ thống
văn bản pháp luật về quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp. Khác với cách thức
quản lý doanh nghiệp trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, trong nền kinh tế thị
trường có sự điều tiết, Nhà nước quản lý doanh nghiệp một cách gián tiếp theo
nguyên tắc: Nhà nước điều chỉnh thị trường, thị trường điều chỉnh doanh nghiệp.
Nhà nước ban hành chính sách nhằm định hướng sự phát triển theo mục tiêu của
Nhà nước và giúp doanh nghiệp tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh; Nhà
nước tạo hành lang pháp lý thông thoáng, bình đẳng và môi trường kinh doanh vừa
thuận lợi, vừa đòi hỏi hiệu quả kinh tế cao để các doanh nghiệp hoạt động. Chính
sách quản lý vốn được ban hành hướng vào việc khai thác, động viên và sử dụng
có hiệu quả các nguồn lực tài chính của doanh nghiệp nhằm khuyến khích phát
triển kinh doanh, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, góp phần phát triển kinh tế xã
hội của đất nước và nâng cao hiệu quả của nền tài chính quốc gia.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước là một bộ phận
quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nói riêng và hệ thống
các chính sách tài chính nói chung. Chính sách quản lý vốn đúng đắn sẽ kích thích
sự chuyển dịch các luồng giá trị trong nền kinh tế quốc dân theo hướng duy động
mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển sản xuất, tăng khả năng tích tụ và tập trung

vốn ở doanh nghiệp, nhờ đó tăng quy mô và tốc độ phát triển sản xuất kinh doanh,
tăng nguồn thu vào ngân sách nhà nước. Nguồn thu vào ngân sách nhà nước càng
nhiều thì Chính phủ càng có khả năng tài chính để tăng quy mô đầu tư vốn, phát
triển các quỹ tài trợ cho sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp; kế đó, quy mô đầu
tư và tài trợ từ ngân sách đối với doanh nghiệp càng lớn thì nó sẽ kích thích mạnh
mẽ hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, và qua đó Chính phủ còn thực hiện được yêu
cầu điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế theo định hướng đã đề ra.
Các Chính phủ thường ban hành chính sách quản lý vốn và tài sản theo hướng:
Một là, tăng cường quyền tự chủ về mặt tài chính của các doanh nghiệp nhà
nước trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong lĩnh vực quản
lý vốn và tài sản;
Hai là, nâng cao trách nhiệm của các doanh nghiệp trong việc quản lý và sử
dụng các nguồn lực nhà nước giao. Thiết lập các cơ chế thích hợp để hướng sự
quan tâm và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp bảo toàn và phát triển vốn như: cơ
chế trích lập dự phòng, cơ chế bù lỗ...
Ba là, quy định các chính sách ưu đãi về mặt tài chính đối với các doanh nghiệp
nhà nước hoạt động công ích như: hỗ trợ vốn, bù chênh lệch khi thực hiện các
nhiệm vụ nhà nước giao, bảo đảm thoả đáng lợi ích vật chất cho người lao động
trong các doanh nghiệp nhà nước này...Đồng thời thiết lập cơ chế quản lý hợp lý
đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực quản lý và sử dụng các nguồn lực nhà nước
giao.
Chính sách quản lý vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước bao trùm các
nội dung quản lý sau:
a, Quản lý việc hình thành vốn của doanh nghiệp nhà nước:
Doanh nghiệp nhà nước có thể được đầu tư vốn khi mới thành lập hoặc đầu tư
bổ sung trong quá trình hoạt động. Ngoại trừ các doanh nghiệp hình thành do kết
quả quốc hữu hoá, các doanh nghiệp nhà nước đều được hình thành trên cơ sở
nguồn vốn cấp phát ban đầu của nhà nước. Tuy nhiên căn cứ vào tình hình thực tế
mà nhà nước quyết định cấp dưới hình thức trực tiếp (cấp thẳng từ ngân sách nhà
nước) hay gián tiếp (qua các hình thức ghi thu-ghi chi như: chuyển vốn từ doanh

nghiệp nhà nước này sang doanh nghiệp nhà nước khác hoặc cho doanh nghiệp nhà
nước nhận trực tiếp các khoản viện trợ để đầu tư...). Đối với vốn lưu động, nhà
nước có thể cấp theo định mức một phần, phần còn lại doanh nghiệp phải huy động
trên thị trường vốn và chịu lãi suất thị trường. Đồng thời, tuỳ thuộc vào khả năng
của ngân sách nhà nước của mỗi nước mà chính sách đầu tư vốn cho doanh nghiệp
nhà nước ở các nước là khác nhau. Ở Pháp, những doanh nghiệp nhà nước hoạt
động theo yêu cầu của nhà nước thì cấp vốn 100%, các doanh nghiệp do nhà nước
quản lý nhưng tự chọn chính sách phát triển, phải cạnh tranh với doanh nghiệp
khác thì nhà nước không cấp vốn. Ở Nhật, mức vốn đầu tư cho doanh nghiệp tăng
nhưng mức độ kiểm soát cũng chặt chẽ hơn. Ở Malaysia, nguồn vốn của các doanh
nghiệp nhà nước được hình thành như sau: Vốn cố định ban đầu được nhà nước
cấp 100% và hàng năm, doanh nghiệp phải trả lãi (theo lãi suất ưu đãi) trên tổng số
vốn đầu tư của nhà nước; vốn lưu động thì các công ty phải vay theo lãi suất thị
trường. Còn ở nước ta, việc quản lý, sử dụng vốn và tài sản trong doanh nghiệp
nhà nước được hướng dẫn cụ thể trong Thông tư số 62/1999/TT-BTC
ngày7/6/1999, Nhà nước đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhà nước mới thành lập
ở những ngành, những lĩnh vực quan trọng. Các cơ quan có thẩm quyền khi quyết
định thành lập doanh nghiệp mới phải đảm bảo đủ vốn thực có tại thời điểm thành
lập không thấp hơn mức vốn pháp định nhà nước quy định cho mỗi ngành nghề.
Trong quá trình kinh doanh, căn cứ vào hiệu quả sản xuất dinh doanh, nhiệm vụ
phát triển kinh tế-xã hội mà nhà nước giao cho doanh nghiệp và khả năng của ngân
sách nhà nước, nhà nước xem xét đầu tư bổ sung cho các doanh nghiệp trong
những trường hợp cần thiết. Doanh nghiệp nhà nước được nhà nước giao vốn
thuộc sở hữu nhà nước hiện có tại doanh nghiệp sau khi đã được kiểm tra, thẩm
định theo quy định hiện hành của nhà nước.
Số vốn giao cho doanh nghiệp được xác định như sau:
+ Đối với doanh nghiệp thành lập mới là số vốn nhà nước ghi trong quyết toán
vốn đầu tư xây dựng cơ bản bàn giao sang sản xuất kinh doanh, vốn điều lệ được
nhà nước bổ sung và vốn khác thuộc sở hữu nhà nước (nếu có).
+ Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động và thành lập lại (sáp nhập, chia

tách) là số vốn sở hữu hiện có tại doanh nghiệp hoặc các doanh nghiệp thành viên,
sau khi đã được kiểm tra, thẩm định theo quy định hiện hành của nhà nước.

Trong khi khu vực kinh tế tư nhân có thể được huy động một cách tự chủ và
linh động trong môi trường kinh doanh, khu vực kinh tế nhà nước thường chỉ được
phép huy động vốn dưới một số hình thức nhất định, các kênh huy động vốn đó là:
Thứ nhất, huy động vốn từ Ngân sách nhà nước: Các doanh nghiệp khi có nhu
cầu về vốn có thể đề nghị nhà nước xét duyệt cấp vốn cho doanh nghiệp mình. Đây
là nguồn vốn đặc biệt , chỉ các doanh nghiệp nhà nước mới có đặc quyền được yêu
cầu và đây cũng là nguồn vốn chủ lực của các doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, huy động vốn thông qua hoạt động liên doanh, liên kết: Đây là việc
góp tiền hoặc tài sản với các doanh nghiệp khác để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Doanh nghiệp có thể liên doanh liên kết với các doanh nghiệp, tổ chức khác để huy
động vốn.
Thứ ba, huy động vốn bằng cách đi vay: Doanh nghiệp có thể đáp ứng nhu cầu
vốn của mình bằng cách đi vay những khoản tín dụng dài hạn, ngắn hạn, hoặc
trung hạn từ các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các doanh
nghiệp khác, các cá nhân (kể cả các cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp),
được phát hành trái phiếu huy động vốn để đầu tư phát triển.
Thứ tư, huy động vốn thông qua phát hành cổ phiếu, cổ phiếu thường mới để
bán cho công nhân viên chức trong doanh nghiệp và ngoài xã hội.
Ngoài ra, doanh nghiệp có thể huy động vốn cho sản xuất kinh doanh từ chính
các quỹ của doanh nghiệp. Nhà nước có quy định cụ thể về việc sử dụng các quỹ
này.
b, Quản lý việc sử dụng vốn của doanh nghiệp nhà nước
• Quản lý sử dụng vốn và tài sản trong phạm vi doanh nghiệp:
Trong nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp nhà nước là một đơn vị sản xuất
kinh doanh độc lập, được tự chủ trong hoạt động kinh tế và tự chịu trách nhiệm về
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà nước thực hiện việc giao quyền sử
dụng vốn và tài sản cho doanh nghiệp nhằm tạo ra sự độc lập tương đối trong việc

tổ chức sản xuất kinh doanh. Mục tiêu cuối cùng của chính sách quản lý sử dụng
vốn và tài sản là bảo toàn và phát triển vốn tại doanh nghiệp. Vì thế, doanh nghiệp
có nghĩa vụ theo dõi chặt chẽ sự biến động của vốn và tài sản, đảm bảo theo đúng
các nguyên tắc kế toán hiện hành, tránh thất thoát tài sản, mất vốn của nhà nước.
Đồng thời doanh nghiệp cũng phải được trao quyền lựa chọn cơ cấu tài sản và các
loại vốn cho hợp lý nhằm phát triển kinh doanh có hiệu quả.
Doanh nghiệp có trách nhiệm mở sổ và ghi sổ kế toán theo dõi chính xác toàn
bộ tài sản và vốn hiện có theo đúng chế độ hạch toán kế toán, thống kê hiện hành;
phản ánh trung thực, kịp thời tình hình sử dụng, biến động của tài sản và vốn trong
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được quyền sử dụng vốn và qũy để kinh doanh theo nguyên tắc
có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn. Trường hợp sử dụng các loại vốn và qũy
khác với mục đích sử dụng đã quy định cho các loại vốn và qũy đó thì phải theo
nguyên tắc hoàn trả, như: dùng các qũy dự phòng, qũy khen thưởng, qũy phúc
lợi...để kinh doanh thì phải hoàn trả qũy đó khi có nhu cầu sử dụng. Doanh nghiệp
được quyền thay đổi cơ cấu tài sản và các loại vốn cho việc phát triển kinh doanh
có hiệu qủa, bảo toàn và phát triển vốn
Doanh nghiệp Nhà nước phải xây dựng quy chế quản lý, bảo quản, sử dụng tài
sản của doanh nghiệp; quy định rõ trách nhiệm của từng bộ phận, cá nhân đối với
các trường hợp làm hư hỏng, mất mát tài sản.
Định kỳ và khi kết thúc năm tài chính doanh nghiệp phải tiến hành kiểm kê toàn
bộ tài sản và vốn hiện có. Xác định chính xác số tài sản thừa, thiếu, tài sản ứ đọng,
mất phẩm chất, nguyên nhân và xử lý trách nhiệm; đồng thời để có căn cứ lập báo
cáo tài chính của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp phải mở sổ theo dõi chi tiết tất cả các khoản công nợ phải thu
trong và ngoài doanh nghiệp. Định kỳ (tháng, qúy) doanh nghiệp phải đối chiếu,
tổng hợp, phân tích tình hình công nợ phải thu; đặc biệt là các khoản nợ đến hạn,
qúa hạn và các khoản nợ khó đòi. Các khoản nợ không thu hồi được, cần xác định
rõ mức độ, nguyên nhân, trách nhiệm và biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được quyền cho thuê hoạt động các tài sản thuộc quyền quản lý

và sử dụng của mình, để nâng cao hiệu suất sử dụng, tăng thu nhập nhưng phải
theo dõi, thu hồi tài sản khi hết hạn cho thuê. Đối với tài sản cho thuê hoạt động,
doanh nghiệp vẫn phải trích khấu hao theo chế độ quy định. Doanh nghiệp được
đem tài sản thuộc quyền quản lý và sử dụng của mình để cầm cố, thế chấp vay vốn
hoặc bảo lãnh tại các tổ chức tín dụng theo đúng trình tự, thủ tục quy định của
pháp luật. Doanh nghiệp không đợc đem cầm cố, thế chấp, cho thuê các tài sản đi
mượn, đi thuê, nhận giữ hộ, nhận cầm cố, nhận thế chấp ... của doanh nghiệp khác
nếu không được sự đồng ý của chủ sở hữu tài sản đó.
Doanh nghiệp được nhượng bán các tài sản không cần dùng, lạc hậu về kỹ thuật
để thu hồi vốn sử dụng cho mục đích kinh doanh có hiệu qủa hơn. Chênh lệch giữa
số tiền thu được do thanh lý, nhượng bán tài sản với giá trị còn lại trên sổ kế toán
và chi phí nhượng bán, thanh lý (nếu có) được hạch toán vào kết qủa kinh doanh
của doanh nghiệp.
Mọi tổn thất tài sản của doanh nghiệp phải lập biên bản xác định mức độ,
nguyên nhân và trách nhiệm đưa ra biện pháp xử lý.
Doanh nghiệp được đánh giá lại tài sản và hạch toán tăng giảm vốn khoản
chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong các trường hợp sau: Kiểm kê đánh giá lại
tài sản theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền; Thực hiện cổ phần
hóa, đa dạng hóa hình thức sở hữu, chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp; Dùng tài sản
để liên doanh, góp vốn cổ phần (khi đem tài sản đi góp vốn và khi nhận tài sản về).
• Quản lý vốn đầu tư ra ngoài doanh nghiệp:

×