Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Bài-tập-lớn-môn-Địa-Lý-Kinh-Tế (1)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.15 KB, 22 trang )

MỤC LỤC

Trang

I.Lịch sử phát triển ngành thương mại.

2

II. Vai trò của ngành thương mại trong nền kinh tế quốc dân của nước ta.

4

III. Tình hình phát triển ngành thương mại Việt Nam hiện nay

7

1. Tình hình phát triển thương mại nội địa ở Việt Nam hiện nay.

7

2. Tình hình phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

8

IV. Xu hướng phát triển ngành thương mại ở Việt Nam hiện nay.

11

1. Xu hướng phát triển thương mại nội địa ở Việt Nam hiện nay.

11



2. Xu hướng phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay.

18

Tài liệu tham khảo

21

Danh sách thành viên nhóm và trách nhiệm từng thành viên

22

1


I.Lịch sử phát triển ngành thương mại.
Kinh tế loài người đã trải qua hai quá trình là: Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hóa. Xã hội lồi
người bắt đầu bằng kinh tế tự nhiên. Trong nền kinh tế tự nhiên con người sản xuất ra các sản
phẩm với mục đích phục vụ cho nhu cầu của bản thân họ, vì thế chưa có trao đổi hàng hóa và
dịch vụ.
Trao đổi hàng hóa chỉ xuất hiện trong nền kinh tế hàng hóa khi phân cơng lao động xã hội đã
tương đối phát triển và chế độ tư hữu hình thành. Trong lịch sử phát triển loài người trao đổi
hàng hóa xuất hiện vào giai đoạn cuối của xá hội cộng đồng nguyên thủy và thời kỳ đầu của chế
độ chiếm hữu nơ lệ. Lúc đầu trao đổi mang tính ngẫu nhiên và được tiến hành trực tiếp theo hình
thức hàng đổi hàng ( H – H’ )
Khi xã hội xuất hiện tiền tệ thì từ đó trao đổi được tiến hành thông qua môi giới của tiền tệ ( H –
T – H’ ) và lưu thơng hàng hóa ra đời.
Lưu thơng hàng hóa là hình thái phát triển của trao đổi hàng hóa, đó là sự trao đổi hàng hóa
thơng qua mơi giới của tiền tệ.

Lưu thơng hàng hóa ra đời làm cho q trình mua bán trao đổi dễ dàng hơn, thuận tiện, mở rộng
hơn về không gian và thời gian. Nó đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của trao đổi hàng hóa trực
tiếp.
Tuy nhiên sự tách rời giữa quá trình mua bán cũng làm xuất hiện mầm mống của mâu thuẫn giữa
sản xuất và tiêu dùng. Do vậy cũng làm nảy sinh những điều kiện dẫn tới khủng hoảng sản xuất
và tiêu thụ
Trong trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thơng hàng hóa, chủ thể của hoạt động trao đổi là những
người sản xuất và những người tiêu dùng, khơng có sự tham gia của những người trung gian
( thương nhân ). Mục đích của hoạt động trao đổi là giá trị sử dụng.
Sự phát triển ngày càng cao của phân công lao động xã hội đã làm xuất hiện một tầng lớp xã hội
mới, đó là những người thương gia. Khác với những người sản xuất trực tiếp và những người
tiêu dùng trực tiếp, thương gia bỏ tiền ra mua hàng hóa của những người sản xuất, sau đó bán lại
để kiếm lời trong hoạt động buôn bán. Hoạt động kinh tế của những người thương gia thông qua
mua bán để kiếm lời chính là hoạt động thương mại ( T – H – T’).
Khác với trao đổi hàng hóa trực tiếp và lưu thơng hàng hóa, hoạt động thương mại bắt đầu bằng
tiền với hành vi mua và kết thúc cũng bằng tiền với hành vi bán mục đích của hoạt động thương
mại không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị cụ thể là nhằm vào lợi nhuận.
Lưu thơng hàng hóa ra đời đã phủ định trao đổi hàng hóa trực tiếp, ngược lại thương mại ra đời
khơng đưa đến sự phủ định lưu thông mà trái lại nó là cho lưu thơng hàng hóa phát triển ở một
trình độ cao hơn.
2


Như vậy, sự xuất hiện của hoạt động thương mại gắn liền với sự xuất hiện của thương gia. Về
lịch sử, những người thương gia xuất hiện vào cuối chế độ công xã nguyên thủy và đầu chế độ
phong kiến.
Những hoạt động thương mại lúc đầu chỉ giới hạn chủ yếu trong lĩnh vực trao đổi các sản phẩm
hữu hình ( thương mại hàng hóa ), sau đó được mở rộng sang các sản phẩm vơ hình ( thương mại
dịch vụ ), và trong nền kinh tế hiện đại, thương mại còn liên quan rất chặt chẽ với các hoạt động
đầu tư và sở hữu trí tuệ.

Những người thương gia ngày càng đông trong xã hội như là kết quả tất yếu của q trình phân
cơng lao động xã hội ngày càng mở rộng và chuyên sâu. Khi đó, một bộ phận lao động xã hội
tách khỏi sản xuất, độc lập với sản xuất, chuyên làm chức năng lưu thông làm xuất hiện một
ngành kinh tế mới đó là ngành thương mại. Ngành thương mại ra đời như là kết quả tất yếu của
sự phát triển trao đổi và phân công lao động xã hội. Phân công lao động lần thứ nhất bằng việc
tách chăn nuôi ra khỏi trồng trọt đã thúc đẩy sự phát triển của trao đổi và tiền tệ xuất hiện trong
giai đoạn này. Phân công lao động lần thứ hai bằng việc tách thủ công khỏi nơng nghiệp, sản
xuất hàng hóa hình thành. Phân cơng lao động lần thứ ba với việc tách riêng chức năng tiêu thụ
khỏi chức năng sản xuất, đã làm xuất hiện một ngành kinh tế chuyên làm chức năng trao đổi,
mua bán nhằm vào mục đích kiếm lời trong nền kinh tế đó là ngành thương mại.
Phân cơng lao động xã hội vẫn tiếp tục phát triển và tạo ra nhiều ngành mới. Trong lĩnh vực
thương mại, ngoài ngành phân phối là ngành chuyên cung cấp các dịch vụ mua bán hàng hóa
hữu hình gồm: bán bn và bán lẻ cịn có các ngành thương mại dịch vụ chuyên đảm nhận việc
cung ứng dịch vụ cho thị trường thông qua các hoạt động thương mại vì mục đích lợi nhuận
(hiện nay theo phân loại của WTO, lĩnh vực thương mại dịch vụ được phân thành 12 ngành,
trong đó có 155 tiểu ngành dịch vụ khác nhau). Ngành thương mại ra đời vừa là sự tiến bộ của
lịch sử, vừa là điều kiện thúc đẩy sự phát triển một bước cao hơn nữa của sản xuất hàng hóa. Sản
xuất hàng hóa và lưu thơng hàng hóa là 2 yếu tố cơ bản hợp thành Kinh tế hàng hóa. Kinh tế
hàng hóa tất nhiên sản sinh và hình thành thị trường. Vì thế, nói tới thương mại, nói đến kinh tế
hàng hóa, khơng thể tách rời phạm trù thị trương và kinh tế thị trường. Kinh tế hàng hóa và kinh
tế thị trường, cũng như thương mại và thị trường đó là những mặt không thể tách rời của cùng
một sự vật.
Bản chất và vai trò của thương mại:
Thương mại là tổng hợp các hiện tượng, các hoạt động và các quan hệ kinh tế gắn và phát
sinh cùng với trao đổi hàng hóa và cung ứng dịch vụ nhằm mục đích lợi nhuận.

3


II. Vai trò của ngành thương mại trong nền kinh tế quốc dân ở nước ta.

1.Đối với sản xuất và tái sản xuất xã hội.
Sản xuất đóng vai trị quyết định đối với hoạt động thương mại. Thương mại là điều kiện thúc
đẩy sản xuất hàng hóa phát triển. Thơng qua hoạt động thương mại trên thị trường, các chủ thể
kinh doanh mua bán được các hàng hóa.
Vì thế hoạt động thương mại là yếu tố tích cực để phát triển nền kinh tế hàng hóa, thúc đẩy q
trình phân công lao động xã hội. Phá vỡ nền kinh tế tự cung tự cấp, tổ chức lại sản xuất, hình
thành các vùng chun mơn hóa sản xuất theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Thương mại cịn
góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội. Trong chu kỳ tái sản xuất thương mại hoạt động
ở hai khâu: Đảm bảo cung ứng các tư liệu sản xuất cho sản xuất và tiêu thụ các sản phẩm. Cung
ứng kịp thời các tư liệu sản xuất, rút ngắn thời gian tái sản xuất, đẩy nhanh nhịp độ tăng trưởng
kinh tế. Và hoạt động thương mại kích thích sự phát triển lượng lượng sản xuất, đưa nhanh tiến
bộ khoa học kĩ thuật vào sản xuất, kích thích sản xuất những mặt hàng mới, đổi mới công nghệ,
nâng cao chất lượng sản phẩm, nâng cao năng suất lao động và hạ thấp giá thành sản phẩm. Với
tư cách là người đại diện tiêu dùng, thong qua nắm nhu cầu thị trường, thương mại phản ánh cho
sản xuất để xây dựng kế hoạch sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường và nâng cao hiệu quả sản
xuất.
Chính những điều này đã đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành bình thường, lưu
thơng hàng hóa, dịch vụ thơng suốt. Vì vậy, khơng có hoạt động thương mại phát triển thì sản
xuất hàng hóa khơng thể phát triển được.
2.Đối với nhu cầu tiêu dùng.
Tiêu dùng với tư cách là yếu tố của quá trình tái sản xuất xã hội. Vừa chịu tác động quy định ở
sản xuất, nhưng đồng thời cũng tác động mạnh đến sản xuất và là mục đích của sản xuất, vì
khơng có sản xuất thì khơng có tiêu dùng, và khơng có tiêu dùng thì cũng khơng có sản xuất. Với
tư cách là chiếc cầu nối liền giữa sản xuất và tiêu dùng, thương mại có tác động đến tiêu dùng
thơng qua việc mua bán hàng hóa, dịch vụ trên thị trường.
Trước hết, thương mại đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của xã hội, góp phần ổng định và nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Thương mại có khả năng nắm bắt nhu cầu của thị trường
và từ đó đặt hàng hóa cho sản xuất, tác động đến việc xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch
để sản xuất đáp ứng nhu cầu của thị trường về số lượng, mẫu mã, cơ cấu mặt hàng, chất lượng
hàng hóa và giá cả. Mặt khác, thương mại không chỉ đại diện cho người tiêu dùng, mà còn là

người hướng dẫn tiêu dùng phù hợp với điều kiện sản xuất và theo đường lối sống văn minh hiện
đại. Cung ứng hàng hóa là hoạt động quan trọng ở thương mại để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng,
nhưng hồn tồn khơng bị động như địi hỏi của tiêu dùng, mà phải tác động mạnh đến tiêu dùng
và hướng dẫn tiêu dùng, đặc biệt là cơ cấu tiêu dùng phù hợp với tình trạng cụ thể của cơ cấu sản
xuất trong từng thời kỳ. Nhu cầu của con người thường vượt khỏ khả năng sản xuất và đi trước
4


một bước đối với sản xuất, hình thành động lực thường xuyên đối với sự phát triển sản xuất,
đồng thời cũng nảy sinh ra sự bất cập: Nhu cầu tiêu dùng không phù hợp với điều kiện kinh tế ở
đất nước. Đồng thời, thương mại kích thích nhu cần và luôn tạo ra nhu cầu mới. Thương mại một
mặt làm cho nhu cầu trên thị trường trung thực với nhu cầu, mặt khác nó làm bộc lé tính đa dạng,
phong phú của nhu cầu. Thương mại buộc các nhà sản xuất phải đang dạng hóa các sản phẩm.
Điều này tác động ngược lại đến tiêu dùng và làm bật dậy nhu cầu mới. Điều này tác động ngược
lại đến tiêu dùng và làm bật dậy nhu cầu mới.
Vì vậy, thương mại có vai trị quan trọng trong việc mở rộng khả năng tiêu dùng nâng cao mức
hưởng thụ của các cá nhân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất và mở rộng phân công
lao động xã hội, thực hiện cách mạng khoa học công nghệ trong các nghành của nền kinh tế quốc
dân.
3.Đối với giải quyết quan hệ giữa sản xuất công nghiệp – nông nghiệp.
Trong điều kiện cịn tồn tại và phát triển sản xuất hàng hóa và lưu thơng hàng hóa, các mơi quan
hệ kinh tế lớn trong nền kinh tế được thiết lập và phát triển thông qua thị trường, thông qua hoạt
động thương mại như quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng, quan hệ giữa công nghiệp và nông
nghiệp, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền….
Mối quan hệ công nghiệp và nông nghiệp là quan hệ kinh tế chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, là
mối quan hệ của quá trình tái sản xuất. Đầu ra của nghành này cũng chính là đầu vào của nghành
kia và ngược lại. Chúng vừa là nguồn hàng vừa là thị trường tiêu hụ sản phẩm của nhau. Tái sản
xuất ở ngành này còn phụ thuộc và tác động trực tiếu tới sản xuất của nghành kia và ngược lại.
Hơn nữa trong điều kiện còn sản xuất và lưu thơng hàng hóa, quan hệ cơng – nông nghiệp được
thực hiện thông qua hoạt động thương mại. Có thể nói thương mại là cầu nối giữa hai ngành, góp

phần thiết lập cơ cấu kinh tế cơng – nông nghiệp hợp lý trong vi cả nước, cũng như từng vùng
kinh tế và từng địa phương.
Như vậy, hoạt động thương mại đã đóng vai trị quan trọng trong việc đảm bảo cân đối cung cầu
hàng hóa trên thị trường. Nó tác động tích cực đến sản xuất và thúc đẩy sản xuất phát triển, tổ
chức các nguồn hàng và khai thác các nguồn hàng để cung ứng ra thị trường làm cho lượng hàng
hóa trên thị trường ngày càng phong phú và đa dạng đáp ứng nhu cầu thị trường.
4.Đối với giải quyết các quan hệ trên thị trường.
Nói đến thương mại là nói đến sự cạnh tranh giữa các chủ thể kinh doanh trên thị trường trong
mua bán hàng hóa, dịch vụ. Quan hệ giữa các chủ thể kinh doanh là quan hệ bình đẳng, thuận
mua vừa bán, nói cách khác là các quan hệ đó đã được tiên tiến hóa. Đặc biệt là quan hệ cung
cầu hàng hóa trên thị trường vì đây là quan hệ kinh tế lớn trong nền kinh tế, nó phản ánh quan hệ
giữa sản xuất và tác động, giữa hàng hóa và tiền tệ lưu thông trên thị trường. Cung đại diện cho
người sản xuất, người bán, cho hàng hóa. Cịn cầu đại diện cho người mua, cho người tiêu dùng
và đại diện cho tiền tệ. Và cân bằng quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trường là yếu tố để phát
5


triển hàng hóa kinh tế ổn định. Vì thế thương mại tổ chức tiêu thụ hàng, đảm bảo tiêu thụ hàng
hóa nhanh chóng, đáp ứng nhu cầu thị trường, làm cho cung – cầu hàng hóa trên thị trường cân
bằng. Và trong trường hợp cung – cầu mất cân đối, thương mại thơng qua sử dụng chính sách giá
để điều tiết cung – cầu làm cho cung cầu cân bằng. Điều đó góp sức thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển nhanh chóng, giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh
gay gắt như hiện nay.
5.Thương mại góp phần phát triển tài chính ngân hàng.
Thương mại có mối quan hệ hết sức chặt chẽ với nghành tài chính và ngân hàng trong q trình
hoạt động. Vì thế hoạt động thương mại là tổ chức quá trình lưu thơng hàng hóa, chuyển hóa
hình thái tiền tệ sang hàng hóa và chuyển hàng hóa sang tiền tệ, lấy tiền tệ làm phương tiện tổ
chức lưu thông hàng hóa. Do đó hoạt động thương mại vừa chịu sự tác động của ngành tài chính
và ngân hàng, vừa có tác động tích cực trở lại đối với sự phát triển của các ngành tài chính và
ngân hàng.

Trước hết, thương mại có vai trị quan trọng trong q tình phân phối và phân phối lại thu nhập
quốc dân. Vừa tiến hành trao đổi phân phối lại cái đã được phân phối, vừa tham gia đóng góp
vào thu nhập quốc dân. Như vậy, hoạt động thương mại có vai trị quan trọng rong việc phân
phối tái phân phối sản phẩm xã hội, hình thành và phát triển nguồn tài chính quốc gia.
Khơng những thế, lưu thơng hàng hóa và lưu thơng hàng hóa và lưu thơng tiền tệ cịn là hai dịng
lưu thơng và có tác động qua lại lẫn nhau. Hàng hóa và tiền tệ ln chuyển hóa lẫn nhau, hình
thành lên một mối quan hệ chủ yếu trên thị trường, gắn liền với yếu tố giá cả.
Vai trò của hoạt động thương mại là rất quan trọng đối với nâng cao sức mua của đồng tiền, tăng
nhanh tốc độ chu chuyển của đồng tiền, giảm tương đối số lương tiền tệ đưa vào lưu thơng.
6.Thương mại góp phần phát triền kinh tế đối ngoại.
Trong xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế diễn ra mạnh mẽ, thị trường trong nước có mối liên hệ
chặt chẽ với thị trường nước ngồi thơng qua hoạt động ngoại thương. Quan hệ thương mại giữ
vị trí tien phong thúc đẩy các quan hệ kinh tế quốc tế khác phát triển. Phát triển hợp tác và hội
nhập khu vực và thế giới là xu thế tất yếu của sự phát triển thời đại. Một yếu tố có tính chất
quyết định để phát triển hợp tác và hội nhập là phát triển thị trường chiến lược để phát triển kinh
tế. Đây là con đường để kinh tế phát triển nhảy vọt, thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước. Vì vậy, thương mại có vai trị cầu nối gắn kế nền kinh tế trong nước với nền
kinh tế thế giới, thực hiện đường lối cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Vì vậy, thương mại
có vai trị là cầu nối gắn kết nền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới, thực hiện chính sách
mở cửa.

6


III. Tình hình phát triển ngành thương mại Việt Nam hiện nay.
1.Tình hình phát triển thương mại nội địa ở Việt Nam hiện nay.
Năm 2016, thương mại trong nước tiếp tục đóng vai trị là trụ đỡ quan trọng đối với tăng trưởng
kinh tế. Tỷ lệ tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội so với GDP năm 2016 đạt
mức 86%, cao hơn so với 77,3% của năm 2015.
Giá cả các mặt hàng trong nước nhìn chung ổn định, cung cầu được bảo đảm, đặc biệt là đối với

các mặt hàng thiết yếu như xăng dầu, điện, lương thực, thực phẩm. Bộ Công Thương tiếp tục
phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính trong cơng tác điều hành giá xăng dầu, bảo đảm giá xăng dầu
trong nước phù hợp xu hướng biến động của giá thế giới, bảo đảm nguyên tắc vận hành theo cơ
chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, có tính đến việc hỗ trợ cho doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh và đời sống người dân.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng xã hội ước đạt 3,53 triệu tỷ đồng, tăng
10,2% so với năm 2015 (cao hơn mức tăng 9,27% của cùng kỳ năm 2015). Xét theo ngành hoạt
động, doanh thu bán lẻ hàng hóa năm 2016 ước tính đạt 2,67 triệu tỷ đồng, chiếm 75,9% tổng
mức và tăng 10,2% so với năm trước, trong đó tăng cao ở nhóm lương thực thực phẩm (tăng
13,6%) và nhóm đồ dùng, dụng cụ, trang thiết bị gia đình (tăng 11,4%).
Thương mại điện tử ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với thương mại bán lẻ. Doanh số
thương mại điện tử bán lẻ B2C của Việt Nam năm 2016 ước đạt 5 tỷ đô la Mỹ, tăng hơn gấp đôi
từ 2,2 tỷ đô la Mỹ năm 2013 và chiếm trên 3% tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng
cả nước năm 2016.
CPI bình quân năm 2016 tăng 2,66% so với bình quân năm 2015. CPI bình quân năm 2016 so
với bình quân năm 2015 tăng cao hơn so với năm trước, nhưng thấp hơn nhiều so với mức tăng
CPI bình quân của một số năm gần đây. CPI tháng 12 năm 2016 tăng 4,74% so với tháng 12 năm
2015, đạt mục tiêu 5% mà Quốc hội đề ra.
Công tác quản lý thị trường đã tập trung triển khai ngay từ đầu năm để tăng cường kiểm tra, xử
lý các hành vi buôn lậu, gian lận thương mại ở tất cả các lĩnh vực, đặc biệt là ở các địa bàn trọng
tâm và mặt hàng trọng tâm. Công tác bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, xử lý các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh, quản lý hoạt động bán hàng đa cấp, áp dụng các biện pháp phòng vệ
thương mại... được đặc biệt quan tâm đẩy mạnh và đổi mới phương thức quản lý, góp phần bảo
vệ và hỗ trợ thị trường trong nước phát triển lành mạnh.
Cuộc vận động "Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam" tiếp tục được mở rộng và đi vào
chiều sâu, đã góp phần hỗ trợ và thúc đẩy phát triển sản xuất của các doanh nghiệp trong nước,
tạo dựng thị trường vững chắc hơn cho hàng Việt tại thị trường nội địa.
Tuy nhiên, mức tăng trưởng thương mại nội địa chưa cao như kỳ vọng. Nếu loại trừ yếu tố tăng
giá, tổng mức bán lẻ cả nước cả năm chỉ tăng khoảng 7,8%, thấp hơn mức tăng 8,5% của năm
7



2015. Trong đó, nhóm có tỷ trọng lớn là nhóm bán lẻ hàng hóa có mức tăng khơng cao như nhóm
lương thực, thực phẩm, hàng may mặc... cho thấy sự sụt giảm của cầu nội địa.
Hệ thống phân phối hàng hóa, nhất là một số mặt hàng thiết yếu đã từng bước được củng cố
nhưng chưa phát triển bền vững. Hạ tầng thương mại xét về tổng thể vẫn còn yếu kém và lạc
hậu, chưa đáp ứng được so với đòi hỏi phát triển của ngành thương mại và phát triển thị trường
trong nước.
Quy hoạch vùng sản xuất và thị trường chưa cân đối do sản xuất nông sản phân tán. Mặt khác,
sản xuất chưa theo quy hoạch còn khá phổ biến nên việc quản lý và đầu tư phát triển hạ tầng cịn
khó khăn; bố trí mùa vụ sản xuất khơng tập trung nên dễ xảy ra tình trạng nguồn cung thay đổi
gây nên khủng hoảng thừa hoặc thiếu cục bộ ở một số thời điểm (điển hình như đối với trường
hợp dưa hấu, hành tím, thanh long…).
Cơng tác thông tin thị trường chưa thực sự được tổ chức tốt. Sự phối hợp giữa các Bộ, ngành, địa
phương vẫn chưa chặt chẽ trong công tác truyền thông, dẫn đến chưa thực sự tác động mạnh vào
tâm lý, hành vi người tiêu dùng.
Cơng tác kiểm sốt thị trường trong nước tuy đã được tăng cường song vẫn chưa đạt yêu cầu,
chưa được ngăn chặn và xử lý một cách cơ bản các hoạt động gian lận thương mại trên thị trường
cũng như các yếu tố tiêu cực tiềm ẩn để có biện pháp phịng ngừa. Tình trạng hàng giả, hàng kém
chất lượng, buôn lậu và các hành vi vi phạm pháp luật trong kinh doanh vẫn còn diễn biến phức
tạp. Phương thức, thủ đoạn của các đối tượng buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả, gian lận
thương mại ngày càng tinh vi, khi bị phát hiện thì chống đối liều lĩnh, gây khó khăn cho lực
lượng quản lý thị trường thi hành nhiệm vụ. Thương mại điện tử chưa kiểm soát tốt về cả về tư
cách pháp nhân lẫn chất lượng hàng hóa được mua bán qua mạng.
Thêm vào đó, tình trạng khơng đảm bảo vệ sinh an tồn thực phẩm, lạm dụng thuốc bảo vệ thực
vật và chất kích thích tăng trưởng trên các mặt hàng nơng sản vẫn còn phổ biến. Lực lượng quản
lý thị trường vẫn gặp rất nhiều khó khăn do phương thức, thủ đoạn vi phạm ngày càng tinh vi,
đối tượng vi phạm ngày càng đa dạng, chế tài xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe.
2. Tình hình phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
Những bước điều chỉnh về chính sách thương mại đã đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập ngày

càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới. Hiện nay, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với
224/255 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.

Về tham gia các hiệp định, tổ chức kinh tế song phương và đa phương: Từ sau năm 1986, đặc
biệt là từ đầu thập kỷ 1990 đến nay, Việt Nam đã thực hiện đường lối tích cực và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Kết quả của thực hiện đường lối đó thể hiện rõ nét qua việc đàm phán và ký

8


kết nhiều hiệp định hợp tác song phương, đa phương về kinh tế, thương mại, đầu tư và tham gia
nhiều tổ chức kinh tế - thương mại khu vực và toàn cầu.

Riêng trong năm 2015, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại tự do (FTA) với Hàn Quốc
(VKFTA) và với Liên minh Kinh tế Á - Âu, kết thúc đàm phán Hiệp định TPP và FTA với EU
(EVFTA), tham gia Cộng đồng Kinh tế ASEAN (chính thức có hiệu lực từ ngày 31/12/2015).
Tổng cộng đến nay, Việt Nam đã ký kết 10 FTA song phương và đa phương, kết thúc đàm phán 2
FTA khác. Các FTA đó bao trùm 55 nền kinh tế (trong đó có 15 nền kinh tế thuộc nhóm 20 nền
kinh tế lớn nhất thế giới, như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, EU…). Ngoài ra, Việt Nam còn ký
kết 80 hiệp định thương mại song phương khác, 46 hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 40
hiệp định tránh đánh thuế 2 lần. Các FTA mà Việt Nam tham gia hoặc sẽ ký kết đã và đang mở ra
các cơ hội cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được tiếp cận các thị trường rộng lớn của thế
giới, giúp đẩy mạnh xuất khẩu của nước ta.
Theo Tổng cục Thống kê, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng từ 789 triệu USD năm 1986
lên 162 tỷ USD năm 2015. Tốc độ tăng trưởng của từng thời kỳ rất cao, thời kỳ từ 1991-1995
tăng gấp 2 lần so với thời kỳ 1986-1990 và đạt 39,9 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng 21,4%/năm;
thời kỳ 1996-2000 tăng 2,8 lần so với thời kỳ trước và đạt trên 100 tỷ USD (tốc độ tăng bình
quân là 17,2%/năm); thời kỳ 2001-2005 tăng 2,1 lần so với thời kỳ trước, đạt 241 tỷ USD (tốc độ
tăng bình quân 18,2%/năm); thời kỳ 2006-2010 tăng 2,6 lần thời kỳ trước, đạt 624 tỷ USD với
tốc độ tăng trưởng bình quân là 13,2%/năm; thời kỳ 2011-2015 cũng tăng 2,1 lần thời kỳ trước,

đạt 1.321 tỷ USD với tốc độ tăng trưởng bình quân 16,1%/năm.
Riêng năm 2016, tổng kim ngạch hàng hóa xuất nhập khẩu ước tính đạt 349,2 tỷ USD, tăng 6,5%
so với năm trước.
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân giai đoạn 1986-2005 là 21,2%/năm, giai đoạn 20062010 là 17,3%/năm và giai đoạn 2011-2015 là 17,9%/năm. Nếu xuất khẩu bình quân 1 năm ở
giai đoạn đầu Đổi mới là 1,4 tỷ USD/năm thì giai đoạn 2001-2005 đã tăng lên 22,2 tỷ USD/năm
(gấp 16 lần), giai đoạn 2006-2010 là 56 tỷ USD/năm, giai đoạn 2011-2015 là 131,1 tỷ USD/năm,
cao gấp đôi so với giai đoạn trước. Thành tích này là nhờ khởi động nhiều chính sách kinh tế vĩ
mơ của chính phủ đã trực tiếp và gián tiếp khuyến khích xuất khẩu hàng hóa. Năm 2016, kim
ngạch xuất khẩu đạt 175,9 tỷ USD, tăng 8,6% so với năm trước, một mức tăng khá ấn tượng so
với mức tăng 7,9% của năm 2015.

Cùng với tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu, nhập khẩu với ý nghĩa là một trong những nhân tố
quan trọng thúc đẩy sản xuất, tiêu dùng cũng tăng khá cao.

9


Nhập khẩu bình quân tăng lên 26 tỷ USD/năm giai đoạn 2001-2005, cao gấp hơn 10 lần giai
đoạn 1986-1990, đạt khoảng 68 tỷ USD/năm giai đoạn 2006-2010 và đạt 133,2 tỷ USD/năm giai
đoạn 2011-2015 (Bảng 2). Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm 2016 đạt 173,3 tỷ USD, tăng
4,6% so với năm trước. Cán cân thương mại hàng hóa tính chung cả năm 2016 đã chuuyển sang
trạng thái dương với mức xuất siêu 2,6 tỷ USD.
Chỉ tiêu

1986 1990
Tổng kim ngạch xuất – 19.717
nhập khẩu (triệu USD)
Tốc độ tăng bình quân 15,1
(%)
Trong đó:

Xuất khẩu (triệu USD) 7.032
Tốc độ tăng bình qn 28,0
(%)
Nhập khẩu (triệu
12.685
USD)
Tốc độ tăng bình quân 8,2
(%)
Cán cân thương mại
-5.653
(triệu USD)

1991 1995
39.940

1996 2000
113.440

2001 –
2005
240.981

2006 2010
623.562

21,4

17,2

18,2


13,2

2011 2015
1.321.68
3
16,1

17.156
17,8

51.825
21,6

110.830
17,5

280.405
17,3

655.701
17,9

22.784

61.615

130.151

343.157


665.982

24,3

13,9

18,8

18,2

14,5

-5.628

-9.789

-19.321

-62.751

-10.281

Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, tăng trưởng xuất khẩu trong những năm qua
nhanh, nhưng chưa thực sự vững chắc, chất lượng tăng trưởng và hiệu quả xuất khẩu cịn thấp,
cơ cấu hàng hóa xuất khẩu tuy đã chuyển dịch mạnh sang hàng chế biến, chế tạo, nhưng vẫn cịn
phụ thuộc nhiều vào doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; nhập siêu vẫn là nguy cơ, cơ cấu
nhập khẩu cịn khơng ít bất cập... Đồng thời, về cơ bản, tăng trưởng thương mại vẫn chủ yếu dựa
vào khai thác tài nguyên, khoáng sản, xuất khẩu hàng nông sản thô với hàm lượng chế biến thấp

và gia cơng hàng hóa ở cơng đoạn thấp của chuỗi giá trị (dệt may, da giày, điện tử…). Thương
mại trong nước phát triển nhanh, nhưng cấu trúc thiếu bền vững; Sự chênh lệch về trình độ phát
triển thương mại theo vùng, miền chưa được cải thiện; Các doanh nghiệp thương mại trong nước
chủ yếu có quy mơ nhỏ đang chịu sức ép cạnh tranh lớn từ các doanh nghiệp FDI; Hoạt động bán
bn có quy mơ, phạm vi nhỏ hẹp cả theo không gian thị trường và phạm vi mặt hàng; Chi phí
trong lĩnh vực phân phối cao do mức độ phức tạp, độ dài của các kênh phân phối, sự thiếu hụt
của dịch vụ logistics...

10


IV. Xu hướng phát triển ngành thương mại Việt Nam hiện nay.
1.Xu hướng phát triển thương mại nội địa ở Việt Nam hiện nay.
Tiềm lực thương mại nội địa
Thị trường nội địa VN được đánh giá là rất hấp dẫn ,với quy mô dân số đông khoảng 90 triệu
người, trong đó có tới 60% là dân số trẻ. Với một lượng lớn là dân số trẻ như vậy thì đây được
coi là thị trường tiềm năng. Nhu cầu của người dân ngày một tăng cao, mức chi tiêu cá nhân của
người tiêu dùng VN ngày một tăng, chi tiêu cá nhân tăng cao thể hiện mức thu nhập và sức mua
có khả năng thanh tốn của dân cư tăng lên.
Các doanh nghiệp đã, đang tiếp cận và nắm bắt nhu cầu thị trường trong từng vùng, từng nhóm
dân cư, kể cả vùng sâu, vùng xa có khó khăn về giao thơng và vận chuyển hàng hóa để sản xuất
và kinh doanh, mở rộng mạng lưới bán buôn, bán ẻ nên tổng mức hàng hóa tăng lên. Ðây được
coi như một tín hiệu rất tốt cho việc tiếp tục phát triển thị trường nội địa khi thị trường xuất khẩu
bị thu hẹp do tác động của suy thối kinh tế tồn cầu.

Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng theo ngành kinh doanh
Nguồn: Tổng cục thống kê
Mấy năm trở lại đây, chủ trương phát triển thị trường trong nước để kích thích tiêu dùng nội địa
đã được triển khai khá rộng khắp trên cả nước với sự chỉ đạo và điều hành của nhiều bộ, ngành
và các cấp, từ Trung ương tới địa phương, sự tham gia của các doanh nghiệp và sự đồng thuận

của các tầng lớp nhân dân nên đã tạo được những kết quả quan trọng cho sự phát triển của đất
11


nước. Theo các công bố của Tổng cục Thống kê VN thì sức mua hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng
của các tầng lớp dân cư liên tục tăng qua các năm gần đây, đặc biệt là trong ngành thương
nghiệp.
Chính sức mua của nhân dân được kích thích nên đã thúc đẩy thị trường nội địa hoạt động tích
cực và sôi nổi, hiệu quả cao hơn.

Số lượng trung tâm thương mại, siêu thị, chợ ở VN qua các năm
Nguồn: Tổng cục thống kê
Cuộc vận động “Người VN ưu tiên dùng hàng VN” đã có tác động lớn đối tới người tiêu dùng
trong nước, hàng hóa của các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tiếp cận đến người tiêu dùng.
Các chương trình khuyến mại, giảm giá của các nhà phân phối, các đợt đưa hàng về nông thôn,
về các khu công nghiệp, các đợt tổ chức các điểm bán hàng, ổn định giá...cũng được mở rộng.
Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp củng cố và mở rộng hệ thống phân phối, trỉển khai các loại
hình bán bn, bán lẻ theo hướng hiện đại và chuyên nghiệp. Mạng lưới chợ và các loại hình
thương mại truyền thống tiếp tục được quan tâm phát triển, đặc biệt, thị trường miền núi và hải
đảo được đảm bảo cung cấp đủ các mặt hàng chính sách thiết yếu...
Trong năm 2009, Chính phủ đã dành khoảng 50 tỷ đồng cho các hoạt động xúc tiến thương mại
thị trường nội địa. Ngoài ra, bên cạnh việc triển khai hiệu quả các gói kích thích kinh tế thúc đẩy
thị trường nội địa phát triển, Bộ Công thương cũng đã chỉ đạo các doanh nghiệp trong ngành áp
dụng nhiều giải pháp khai thác và chiếm lĩnh trở lại thị trường nội địa; triển khai các đợt khuyến
mại, các đợt đưa hàng về nông thôn, tổ chức các hội chợ, triển lãm; nhiều doanh nghiệp thương
mại đã củng cố và phát triển hệ thống phân phối, triển khai các loại hình bán bn, bán lẻ mới
hiện đại và chun nghiệp.

12



Kể từ năm 2010, thị trường trong nước có những bước phát triển khá, nhờ các giải pháp kích cầu
tiêu dùng thông qua Cuộc vận động “Người VN ưu tiên dùng hàng VN”, các chương trình
khuyến mại, giảm giá của các doanh nghiệp phân phối, các đợt đưa hàng về nông thôn, về các
khu công nghiệp, các đợt tổ chức hội chợ, triển lãm, thực hiện các đề án hỗ trợ lãi suất hoặc cho
vay vốn để mở các điểm bán hàng ổn định giá... Nhiều doanh nghiệp thương mại đã củng cố và
phát triển hệ thống phân phối, triển khai các loại hình bán bn, bán lẻ mới theo hướng hiện đại
và chuyên nghiệp. Mạng lưới chợ và loại hình thương mại truyền thống tiếp tục được quan tâm
phát triển. Thị trường miền núi, hải đảo được bảo đảm cung cấp đầy đủ các mặt hàng chính sách
như sách vở, muối ăn, dầu hỏa,...Nhờ đó, cân đối cung cầu các mặt hàng trọng yếu được bảo
đảm, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của nhân dân, khơng để xảy ra tình trạng “sốt
hàng, sốt giá”. Một số biểu hiện “sốt hàng” đã kịp thời được can thiệp nên thị trường đã bình ổn
nhanh trở lại. Tuy nhiên, do giá khơng ít loại hàng hóa tăng, cộng thêm với diễn biến phức tạp
của thời tiết, dịch bệnh gây giảm nguồn cung một số mặt hàng nông sản thực phẩm thiết yếu đã
dẫn đến tăng CPI và ảnh hưởng đến tiêu thụ sản phẩm, đến đời sống nhân dân.
Năm 2012, kinh tế thế giới biến động phức tạp, thương mại toàn cầu sụt giảm mạnh đã tác động
tiêu cực đến nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên, thị trường trong nước vẫn tiếp tục phát triển, trở
thành chỗ dựa tin cậy cho hàng hóa VN. Hàng hóa được cung ứng đầy đủ, đáp ứng nhu cầu sản
xuất và tiêu dùng của nhân dân, đã góp phần thúc đẩy thương mại trong nước phát triển, bảo đảm
cân đối cung cầu, bình ổn thị trường - giá cả, phát triển kết cấu hạ tầng thương mại, mở rộng hệ
thống phân phối trên khắp các địa bàn, tăng cường xúc tiến thương mại thị trường trong nước
hưởng ứng Cuộc vận động “Người VN ưu tiên dùng hàng VN” sau hơn 3 năm thực hiện đã đạt
được nhiều kết quả đáng ghi nhận.
Nhìn chung sản xuất cơng nghiệp sau một thời gian dài với nhiều khó khăn và giữ nhịp độ tăng
trưởng chậm đã có những tín hiệu tốt, tuy chưa thực sự đột phá nhưng đã cho thấy sự phục hồi
khả quan của sản xuất cơng nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói chung trong thời gian tới. Một số
ngành có tốc độ tăng chỉ số sản xuất cao so với tốc độ tăng chung của toàn ngành như: Sản xuất
trang phục, tăng 19%; chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, mây tre giang, tăng 39%; sản xuất giấy và
sản phẩm từ giấy, tăng 21,3%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, tăng 9%; sản xuất thuốc,
hóa dược và dược liệu, tăng 23,5%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác, tăng 16,5%;

sản xuất xe có động cơ, tăng 39,3%..
Tuy nhiên, một số ngành, do vẫn chưa thốt ra được khó khăn về tiêu thụ sản phẩm, hoặc thiếu
vốn lưu động cho sản xuất... có chỉ số sản xuất giảm so với cùng kỳ năm trước như: Sản xuất chế
biến thực phẩm, giảm 7,8%; công nghiệp dệt, giảm 9,6%; sản xuất sản phẩm cao su, plastic,
giảm 14%; sản xuất kim loại, giảm 18,4%...
Tính đến 1/6/2015, chỉ số tồn kho của tồn ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo tăng 46,4% so
với cùng thời điểm năm trước. Một số ngành sản phẩm sức tiêu thụ sản phẩm cịn chậm, nhiều
khó khăn, lượng tồn kho ứ đọng kéo dài, mức tồn kho cộng dồn tương đối cao so với cùng kỳ
như: Sản xuất chế biến thực phẩm, tăng 30,5%; chế biến gỗ và sản phẩm từ gỗ, mây tre giang
13


đan, tăng 106%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất, tăng 117,1%.. Tuy chỉ số tồn kho sản
phẩm, nhìn chung vẫn ở mức cao, nhưng xét theo chỉ số sản xuất và chỉ số tiêu thụ sản phẩm thì
kết quả chung đã phản ánh sản xuất phục hồi và đã được đẩy mạnh, sức tiêu thụ sản phẩm đã có
những chuyển biến tích cực và khả quan hơn so với năm ngối…
Khó khăn, thách thức
Khó khăn, thách thức từ thị trường
Thị trường trong nước cũng đang phải đối mặt với khơng ít khó khăn, thách thức trong tình hình
nền kinh tế tăng trưởng nhưng chưa thực sự ổn định, khả năng tái lạm phát cao vẫn tiềm ẩn, nhập
siêu còn lớn, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chỉ số giá tiêu dùng của cả nước mặc dù đã
giảm nhiều so với năm 2011 nhưng vẫn ở mức cao đã tác động đến thị trường tiêu thụ trong
nước, các biện pháp phịng chống bn lậu, gian lận thương mại còn chưa đầy đủ, chưa đồng bộ,
sự phối hợp giữa các lực lượng chức năng chưa thật chặt chẽ, tinh thần trách nhiệm của một bộ
phận cán bộ trong lực lượng quản lý thị trường chưa cao dẫn đến hậu quả cơng tác này cịn hạn
chế. Bên cạnh đó, tình hình chính trị, kinh tế thế giới có nhiều biến động khó lường, khủng
hoảng nợ cơng ở một số nước châu Âu, sức ép tăng giá hàng hóa và nguy cơ lạm phát tại nhiều
nước trên thế giới tăng cao cùng với phản ứng tâm lý sau việc tăng giá một số hàng hóa thiết yếu
đã ảnh hưởng lớn đến sức mua của người tiêu dùng và hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp. Tất cả cho thấy thị trường nội địa đang chờ đợi những giải pháp để phát triển bền vững

và ổn định.

14


Chỉ số giá tiêu dùng cả nước (đơn vị tính: %)
Nguồn: Tổng cục thống kê
Khó khăn, thách thức từ phía các doanh nghiệp
Hàng Việt đã đáp ứng một phần nhu cầu của thị trường và dần chiếm ưu thế trong lịng người
Việt. Tuy nhiên, các chương trình phủ sóng hàng Việt cịn thiếu tính bền vững, chưa tạo lập được
kênh phân phối vững chắc tại địa bàn nông thôn, khu vực chiếm tới 70% doanh số hàng tiêu
dùng nhưng chưa được khai thác nhiều. Cùng với đó, việc quảng bá sản phẩm của các doanh
nghiệp hiện nay còn yếu khiến tính cạnh tranh của một số loại hàng Việt cịn thấp.
Hàng Việt có chất lượng, nguồn gốc xuất xứ rõ ràng hiện chỉ được bày bán chủ yếu tại các hệ
thống bán buôn, bán lẻ hiện đại như siêu thị, trung tâm thương mại – vốn là nơi được kiểm soát
chặt chẽ các quy định về chất lượng và xuất xứ hàng hóa. Trong khi đó, tại các vùng nơng thôn,
thị trường tiêu dùng tiềm năng, số lượng các siêu thị chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ nên hàng hóa được phân
phối chủ yếu ở mạng lưới chợ. Tuy nhiên, đa phần sản phẩm hàng Việt được phân phối tại đây
chủ yếu là hàng lương thực, thực phẩm thiết yếu, còn các nhóm sản phẩm như may mặc, đồ điện
tử, gia dụng...tỷ lệ hàng Việt khá thấp.
15


Bên cạnh đó, việc cạnh tranh với hàng ngoại cùng tâm lý “sính ngoại” của người dân vẫn đang là
bài tốn mn thuở của các doanh nghiệp.
Khó khăn, thách thức từ cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp
Việt Nam với dân số khoảng 90 triệu dân và được đánh giá là thị trường tiềm năng, nhưng mảnh
đất được coi là “màu mỡ” này vẫn chưa được khai thác đúng mức. Hàng Việt dù đã gần hơn với
người tiêu dùng nhưng nạn hàng giả, hàng nhái vẫn hoành hành và doanh nghiệp đơi khi cịn gặp
nhiều trở ngại khi đến với vùng sâu, vùng xa. Muốn kích thích doanh nghiệp phát triển hệ thống

phân phối ngồi vấn đề thuế, phí, những hỗ trợ về mặt bằng cũng là điều kiện quan trọng để phát
triển hệ thống phân phối. Tuy nhiên, hiện nay, các chính sách cho phát triển thương mại vẫn chưa
được quan tâm đúng mức và đó cũng là lý do khiến hạ tầng thương mại nội địa vẫn chưa phát
triển. Quản lý nhà nước về thương mại tuy đã được đổi mới nhưng trên nhiều mặt chưa theo kịp
với thực tiễn hoạt động thương mại, dịch vụ. Các biện pháp điều hành của Chính phủ là phù hợp,
song việc thực hiện cịn có độ trễ, một số thủ tục cịn phức tạp, gây khơng ít khó khăn cho các
doanh nghiệp trong việc tiếp cận nguồn hỗ trợ.
Chưa hình thành được những doanh nghiệp nội địa lớn giữ vai trò định hướng và tổ chức lưu
thông, liên kết với sản xuất và xuất nhập khẩu tạo thành một hệ thống phân phối hiện đại, phát
triển bền vững. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở một số lĩnh vực, ngành nghề vẫn chưa xây dựng
được thương hiệu uy tín đối với người tiêu dùng, làm ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của
sản phẩm trong nước. Cùng với đó, việc tiếp cận nguồn vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
còn gặp nhiều khó khăn. Bởi vậy, điều quan trọng là phải có cơ chế hỗ trợ để xây dựng các cửa
hàng tiện lợi, hệ thống phân phối, đặc biệt là ở nông thôn.
Bên cạnh sự hỗ trợ của Nhà nước, điều quan trọng hơn cả là bản thân các doanh nghiệp sản xuất
và phân phối cần có sự kết nối chặt chẽ, từ đó cùng hỗ trợ nhau trong việc tiêu thụ sản phẩm,
tăng sự hiện diện của hàng Việt tại thị trường nội địa.
Xu thế
Như vậy, nhìn một cách tổng quát, bên cạnh việc có được những thuận lợi hơn để đẩy mạnh xuất
khẩu ra thị trường thế giới, gia nhập WTO đồng nghĩa với việc mở cửa thị trường cho hàng hóa
nước ngồi và các nhà đầu tư nước ngoài vào nước ta kinh doanh. Trong bối cảnh như vậy,
thương mại nội địa trong những năm tới có nhiều khả năng sẽ phát triển theo 3 xu thế sau:
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài sẽ trở thành nguồn động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế nước ta
phát triển nhanh hơn , đồng thời góp phần tạo nền tảng vững chắc hơn cho thương mại trong
nước phát triển . Tuy đã đạt được kết quả đáng mừng về thu hút vốn và khu vực kinh tế có vốn
đầu tư nước ngồi đang góp phần quan trọng vào sự phát triển của đất nước những nền kinh tế
hiện đang “đói” nguồn vốn này. Cụ thể, nếu như tỷ trọng vốn đầu tư nước ngoài trong tổng số
vốn đầu tư phát triển của nước ta năm 1995 hầu như là con số không ( 0.03%); năm 2000 tăng
vọt lên 17.97% thì hiện đã giảm xuống 15.47 %.Do vậy với việc mở cửa ,trở thành thành viên
16



WTO ,chắc chắn tình trạng “đói” vốn đầu tư nước ngồi sẽ nhanh chóng được khắc phục. Theo
dự kiến các nhà quản lý ,thay vì chỉ đạt khoảng 13.6 tỷ USD trong 5 năm qua ,vốn đầu tư nước
ngoài trong kế hoạch 5 năm hiện nay sẽ đạt 23.8 tỷ USD ,tức là tăng 1.75 lân. Trên bình diện
tổng thể ,việc quyết tâm đưa tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội trong kế hoạch 5 năm hiện
nay lên 139.4 tỷ USD tăng 1.65 lần so với 5 năm vừa qua có tác dụng kép rất lớn trong việc thúc
đẩy nền kinh tế nước ta phát triển.
Thứ hai, do việc buộc phải cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan. Chắc chắn hàng
hố nhập khẩu có cơ hội thâm nhập thuận lợi hơn, góp phần làm thay đổi cục diện thị trường
trong nước. Đó là hàng tiêu dùng trong nước phải cạnh tranh cả về số lượng, chất lượng và giá
cả. Đối với người tiêu dùng ,hiển nhiên đó là lợi ích to lớn. Thuế nhập khẩu đối với cả hàng tiêu
dùng và nguyên liệu đều giảm tất yếu dẫn đến một hệ quả tích cực nữa là nạn buôn lậu và gian
lận thương mại sẽ giảm ,bởi mục tiêu của buôn lậu và gian lận thương mại chính là nhằm chiêm
khoản lợi do thuế cao và hàng rào phi thuế ấn định.
Thứ ba, với việc góp mặt của các chủ thể kinh doanh nước ngồi trên thị trường bán lẻ, trình độ
tổ chức của hệ thống thương mại trong nước sẽ có những bước phát triển vượt bậc. Trước hết,
cho dù việc xây dụng các trung tâm thương mại, siêu thị ở thị trường trong nước đã được tiến
hành từ gần 10 năm trở lại đây nhưng có thể nói sự góp mặt của một loạt các tập đoàn bán lẻ đa
quốc gia trên thị trường nội địa nước ta trong những năm tới tất yếu sẽ càng làm cho các hệ
thống phân phối hiện đại nhanh chóng được hình thành ,chất lượng hàng hố lưu thông trên thị
trường sẽ được đảm báo, giá cả hàng hố sẽ hợp lí hơn người tiêu dùng sẽ được phục vụ tốt
hơn ...thương mại trong nước sẽ phát triển ổn định.
Định hướng phát triển các theo khu vực
- Định hướng phát triển khu vực thị trường thành thị: Thành thị là trung tâm tiêu thụ, phân phối
hàng hoá và là đầu mối liên kết thị trường nội vùng với ngoại vùng, giữa thị trường trong nước
với thị trường quốc tế, có khả năng điều tiết và định hướng thị trường xã hội. Do vậy thị trường
thành thị cần phải được tổ chức thành nhiều tầng, nhiều nấc, nhiều loại quy mơ đan xen nhau
trong đó các tầng, các loại quy mơ có chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Cụ thể là phải hình
thành các tập đồn thương mại quy mô lớn đặt trung tâm tại các thành thị lớn nhưng có chân rết

đến mọi khu vực của thị trường nội địa trong cả nước. Hình thành các cơng ty chun doanh một
số nhóm hàng lớn làm nhiệm vụ phân phối hàng và buôn bán. Xây dựng hệ thống kho, chợ bán
buôn làm đầu mối phân phối hàng đi các khu vực. Hình thành các cơng ty kinh doanh tổng hợp,
các trung tâm thương mại, các siêu thị để dẫn dắt thương mại thành thị. Tổ chức lại mạng lưới
bán lẻ, các chợ theo cụm dân cư, từng đường phố đảm bảo trật tự văn minh thương nghiệp.
- Định hướng phát triển thị trường nông thôn: Khu vực này phải đảm bảo hai mục tiêu là đảm
bảo cho nông dân mua được vật tư cho sản xuất, hàng hoá cho tiêu dùng và sinh hoạt một cách
thuận lợi, giá cả cạnh tranh, phù hợp với cơ chế quản lý nông nghiệp của Nhà nước và tiêu thụ
kịp thời, có hiệu quả nguồn nơng - lâm - thuỷ sản hàng hố của khu vực nơng thơn sáng tạo ra.
17


Vì vậy định hướng là phải hình thành các trung tâm, cụm kinh tế - thương mại - dịch vụ tại các
thị trấn, thị tứ, đầu nút giao thông. Các trung tâm này bao gồm các cơ sở thu mua, bảo quản, chế
biến, phân loại, đóng gói, vận chuyển, tiêu thụ nông sản và cung ứng các sản phẩm công nghiệp.
- Định hướng phát triển khu vực thị trường vùng núi, vùng sâu, vùng xa: Đây là khu vực có sức
sản xuất còn thấp, hạ tầng yếu kém, kinh tế hàng hoá chưa phát triển, một số khu vực sản xuất
cịn mang nặng tính tự cấp, tự túc. Hướng phát triển là: Phát triển các chân rết của các tập đồn,
các cơng ty thương mại trong việc thu mua sản phẩm hàng hoá và cung ứng hàng tư liệu sản
xuất, tư liệu tiêu dùng cho nông dân, đồng bào dân tộc. Các chân rết này cịn có chức năng chế
biến và sơ chế nơng lâm sản và có thể gắn với các lâm trường, trạm y tế, trường học, đồn biên
phòng…
Như vậy, với thị trường nội địa, doanh nghiệp Việt Nam ít bị phụ thuộc vào biến động của thị
trường thế giới. Thị trường nội địa sẽ là nơi để doanh nghiệp “tập dượt” trong cạnh tranh, là điểm
tựa để vươn ra thị trường thế giới. Vì muốn cạnh tranh được trên thị trường quốc tế, trước hết
phải cạnh tranh được trên thị trường nội địa. Chiếm lĩnh thị trường nội địa là một nội dung kinh
tế có tính ngun tắc nhằm ổn định môi trường kinh doanh, đảm bảo điều kiện cho sự phát triển
bền vững của nền kinh tế. Để chiếm lĩnh thị trường nội địa đòi hỏi phải có nhận thức đầy đủ và
nỗ lực của tồn xã hội, khơng chỉ là các doanh nghiệp mà cịn có sự tham gia tích cực của các cơ
quan quản lý nhà nước, các bộ ngành và cả người tiêu dùng.

2. Xu hướng phát triển thương mại quốc tế ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Đánh giá xu hướng phát triển.
Các quốc gia trên thế giới hiện nay dù lớn hay nhỏ, sớm hay muộn đều đi theo xu hướng tham
gia ngày càng nhiều vào quá trình hợp tác khu vực và thế giới, đa phương, đa chiều, đa lĩnh vực,
trong đó thương mại là một trong những lĩnh vực trong tâm. Đặc điểm nổi bật về xu thế phát
triển thương mại quốc tế ngày nay là:
1. Nội dung hoạt động thương mại rộng lớn mang tính quốc tế, chi phối hầu hết các lĩnh vực đời
sống kinh tế xã hội. Do đó, thương mại ngày nay khơng chỉ là những hoạt động mua bán sản
phẩm hàng hóa vật thể mà còn bao gồm cả những hành vi mua bán và dịch vụ phi vật thể, tất cả
đều nhằm thu lợi nhuận.
2. Hình thành các loại hình cơng ty, tập đồn lớn, công ty xuyên quốc gia, đa quốc gia với phạm
vi hoạt động khơng biên giới và hình thành các tổ chức, hiệp hội thương mại khu vực và toàn
cầu. Phạm vi tác động của thương mại quốc tế ngày nay mang ý nghĩa vô cùng sâu rộng, bao
gồm nhiều thành phần thương mại, nhiều thương nhân và hợp thành mạng lưới chằng chịt các
loại hình kinh doanh và dịch vụ; vừa liên doanh, vừa liên kết, vừa tự do hóa, vừa độc quyền, vừa
cạnh tranh, vừa hợp tác, vừa bình đẳng và khơng bình đẳng trong kinh doanh, đều cùng nhau
tham gia hoạt động mua bán và dịch vụ trên thị trường, trên cơ sở hành lang pháp luật quốc gia
và luật lệ quốc tế.
18


3. Xu thế liên doanh, liên kết thương mại song phương, đa phương, bình đẳng ngày càng mở
rộng và khơng ngừng phát triển. Đặc điểm kinh doanh thương mại ngày nay gồm hai chiều
hướng: Một là, kinh doanh chuyên ngành, theo một sản phẩm hay một thương hiệu nhất định
thành một hệ thống trên toàn cầu. Hai là, tổ chức những mơ hình cơng ty, tập đồn kinh doanh
tổng hợp với nhiều loại hình, nhiều hàng hóa và dịch vụ khác nhau để nâng cao ưu thế cạnh tranh
và chiếm lĩnh thị trường khu vực và thị trường thế giới.
4. Tự động hóa, hiện đại hóa, áp dụng cơng nghệ thông tin vào quản lý, mua bán qua mạng, nâng
cao hiệu suất phục vụ sản xuất và đời sống để thu hút khách hàng và chiếm lĩnh thị phần. Hoạt
động kinh doanh và dịch vụ mang tính phổ biến và ngày càng phát triển ở cả thị trường trong

nước và thị trường ngoài nước.
5. Do cạnh tranh trên thị trường ngày càng quyết liệt, thương mại không ngừng cải tiến phương
thức phục vụ hiện đại và luôn luôn đổi mới dịch vụ theo xu hướng lấy người tiêu dùng làm trọng
tâm và coi khách hàng như “thượng đế”.
2.2. Một số vấn đề Việt Nam cần quan tâm.
Từ những đặc điểm trên của thương mại trong thời đại ngày nay và đặc biệt khi Việt Nam đã là
thành viên của tổ chức Thương mại thế giới – WTO, đặt ra cho nước ta một số vấn đề phải đặc
biệt quan tâm trong quá trình phát triển thương mại quốc tế:
Một là, phải có chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp nhằm khai thác triệt để lợi thế so
sánh thông qua quan hệ buôn bán quốc tế để chiếm lĩnh và mở rộng thị trường khu vực và thị
trường thế giới cho riêng mình.
Lợi thế so sánh là những điều kiện và khả năng thuận lợi (hoặc khó khăn) của nước này so với
nước khác trong việc sản xuất cùng một loại sản phẩm hàng hóa hay kinh doanh và dịch vụ
thương mại trong những thời điểm nhất định, nhằm đưa lại hiệu quả cao nhất cho mỗi quốc gia.
Lợi thế so sánh thương mại quốc tế bao gồm ba loại: lợi thế so sánh tự nhiên vốn có, lợi thế so
sánh nảy sinh do sự phát triển của lực lượng sản xuất và lợi thế so sánh phát sinh do đổi mới chủ
trương, chính sách và chế quản lý nhà nước. Khi tham gia trao đổi mua bán thương mại quốc tế,
các quốc gia phải biết lựa chọn sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa có lợi thế so sánh tốt nhất
và nhập khẩu những hàng hóa mà mình sản xuất bất lợi nhất. Đây cũng là một bài học mà chúng
ta đã rút ra qua hơn 20 năm đổi mới nền kinh tế. Một số sản phẩm của nước ta đang có lợi thế
tuyệt đối trên thị trường quốc tế cần phải đẩy mạnh xuất khẩu.
Hai là, lựa chọn mặt hàng và thị trường có lợi nhất cho mình để phát triển và mở rộng quan
hệ thương mại quốc tế.
Trong quan hệ thương mại thế giới cần đa phương hóa, linh hoạt hóa thị trường, mở rộng bn
bán với nhiều nước. Song ở giai đoạn trước mắt đối với nước ta kinh tế chưa phát triển cao, các
điều kiện về khoa học – kĩ thuật còn nhiều hạn chế, khả năng cạnh tranh còn yếu, cần lựa chọn
19


những mặt hàng có chất lượng cao xây dựng thành thương hiệu quốc tế và những thị trường có

khả năng và ưu thế riêng đối với mình để khai thác và tham gia xuất nhập khẩu buôn bán thương
mại, dịch vụ, trên cơ sở đó từng bước giành chỗ đứng trên thị trường thế giới.
Ba là, hoàn thiện khung pháp luật cho hoạt động thương mại cả ở thị trường trong nước và
thị trường ngoài nước. Đây là vấn đề hết sức cần thiết để phát triển lành mạnh thị trường trong
nước làm cơ sở hậu phương cho phát triển thị trường ngoài nước. Thị trường trong nước phát
triển vững chắc là điều kiện quan trọng để mở rộng thị trường ra ngoài nước, đẩy mạnh xuất
khẩu và chủ động nhập khẩu của nước ta, ngược lại thị trường ngoài nước được phát triển sẽ tạo
điều kiện thúc đẩy thị trường trong nước phát triển mạnh hơn, phục vụ tốt hơn cho sản xuất và
đời sống.
Bốn là, thực hiện tốt các cam kết với WTO và các cam kết song phương khác về thương mại.
Việc này chỉ có lợi cho ta, một mặt chứng tỏ với thế giới rằng Việt Nam là nước làm ăn nghiêm
chỉnh đúng luật, đúng cam kết; mặt khác tranh thủ được sự ủng hộ của thế giới và đặc biệt là của
tổ chức thương mại thế giới WTO, khi chúng ta gặp phải những khó khăn, rào cản và tranh chấp
về thương mại quốc tế.
Năm là, phát huy tốt vai trò quản lý và điều tiết của nhà nước về thương mại, cùng với
những cơ chế, chính sách thương mại đúng đắn, phù hợp điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước
trong thời kỳ mới và phù hợp với xu thế phát triển và hội nhập kinh tế - thương mại khu vực và
thế giới. Do vậy, vấn đề cốt lõi để thực hiện mục đích trên là phải nhận thức đúng đắn vai trò
quan trọng của quản lý nhà nước đối với thương mại trong nền kinh tế thị trường ở nước ta. Nhà
nước phải làm tốt chức năng quản lý kinh tế vĩ mơ nói chung và quản lý hoạt động thương mại
quốc tế nói riêng.
Trong nền kinh tế thị trường, nhà nước đóng vai trị là người định hướng chiến lược, quy định
khung pháp luật, đề ra những mục tiêu chung cho sự phát triển, công bằng , thống nhất, điều hịa
các quyền lợi chung và cá nhân. Nhìn chung, các nước hiện nay, kể cả các nước đã phát triển, các
nước chậm và đang phát triển đều coi trọng việc kết hợp giữa cơ chế thị trường tự do và sự điều
tiết của Nhà nước trong quản lý kinh tế thị trường để nhằm đạt được hiệu quả kinh tế cao nhất .
Đẩy mạnh phát triển thương mại và dịch vụ quốc tế là xu hướng tất yếu của tất cả các nước
trên thế giới, nhất là các nước đã phát triển; do năng lực sản xuất ngày càng lớn, cho nên ln
ln ở tình trạng thiếu thị trường tiêu thụ sản phẩm có lợi nhất . Hoạt động thương mại quốc tế
ngày càng mở rộng và cạnh tranh thị trường thế giới ngày càng gay gắt là tất yếu. Trong tình

hình đó, để có lợi thế trong quan hệ thương mại thế giới, chen chân vào được thị trường thế giới
và đảm bảo khơng thất bại thì nước ta cần có những chính sách thương mại quốc tế khôn ngoan,
linh hoạt, mềm dẻo, vừa phù hợp với điều kiện của nước mình, vừa phù hợp thơng lệ quốc tế,
vừa đảm bảo luật pháp quốc gia, vừa đảm bảo luật lệ của “sân chơi” thị trường quốc tế.

20


Tài liệu tham khảo:
1. Đề cương Bài giảng Kinh tế thương mại đại cương – Đại học Thương Mại

Chủ biên: TS.Ngơ Xn Bình.
2. Tin Kinh tế - Thị trường
Kênh thơng tin đối ngoại của Phịng Thương mại và Cơng nghiệp Việt Nam.
3. Bàn về định hướng phát triển thương mại Việt Nam giai đoạn 2016 – 2025 – Tin Kinh tế
và Dự báo – Cơ quan của Bộ kế hoạch và Đầu tư.

DANH SÁNH THÀNH VIÊN NHÓM VÀ TRÁCH NHIỆM TỪNG THÀNH VIÊN

21


1.

Phạm Thị Thùy Dương - MSV: 11145605. ( Phần I + tài liệu phần II ).

2.
Nguyễn Hoàng Duy - MSV: 11140773. ( Mục 1 phần III – làm cùng Mai Khả
Tâm ).
3.


Nguyễn Minh Thu - MSV: 11144152. ( Mục 2 phần III ).

4.

Trần Văn Tiến - MSV: 11133938. ( Mục 1 phần IV + làm slides).

5.
Mai Khả Tâm - MSV: 11144363. ( Mục 1 phần III – Làm cùng Nguyễn Hồng
Duy ).
6.
Ngơ Thị Thúy Vân - MSV: 11145037. ( Mục 2 phần IV và phần II ( làm cùng
Phạm Thị Thùy Dương ), tổng hợp bài tập nhóm ).

22



×