Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.19 KB, 29 trang )

HIỆU QUẢ SỬ DỤNG TÀI SẢN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP
1.1 Tổng quan về tài sản lưu động của doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm và phân loại Doanh nghiệp
* Khái niệm: Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ
sở giao dịch ổn định được đăng ký kinh doanh theo quy định pháp luật nhằm mục
đích cho hoạt động kinh doanh, mục đích sinh lời. Doanh nghiệp phải hội tụ các
điều kiện do pháp luật quy định, là tổ chức kinh tế được thành lập để chủ yếu hoạt
động từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm.
Nền kinh tế với sự đa dạng của các thành phần kinh tế và quyền tự do kinh
doanh của công dân đã tạo ra sự đa dạng của các loại hình doanh nghiệp xét về mặt
sở hữu tài sản. Ở nước ta hiện nay có các loại hình doanh nghiệp chủ yếu sau đây:
+ Doanh nghiệp Nhà nước
+ Doanh nghiệp tư nhân
+ Công ty hợp danh
+ Công ty trách nhiệm hữu hạn
+ Công ty Cổ phần
+ Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
+ Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài
+ Hợp tác xã
Loại hình tổ chức doanh nghiệp ảnh hưởng rất lớn đến việc tổ chức tài chính
của doanh nghiệp, đặc biệt về hai vấn đề tài chính chủ yếu:
+ Vốn và huy động vốn
+ Phân phối lợi nhuận
* Phân loại doanh nghiệp
 Doanh nghiệp Nhà nước: Là tổ chức kinh tế thuộc sở hữu Nhà nước do Nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế – xã hội do Nhà nước giao.
Doanh nghiệp Nhà nước mới thành lập được ngân sách Nhà nước đầu tư
toàn bộ hoặc một phần vốn điều lệ ban đầu nhưng không thấp hơn tổng mức vốn
pháp định của các ngành nghề mà doanh nghiệp đó kinh doanh.
Ngoài số vốn Nhà nước đầu tư, doanh nghiệp Nhà nước được quyền huy


động vốn dưới các hình thức: Phát hành trái phiếu, vay vốn, nhận vốn góp liên kết
và các hình thức khác. Việc huy động vốn không được làm thay đổi hình thức sở
hữu của doanh nghiệp và phải tuân theo các quy định của pháp luật hiện hành.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế (lợi nhuận sau khi nộp thuế thu nhập
doanh nghiệp) thực hiện theo quy định của Chính phủ.
Doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong
phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Như vậy, có thể thấy doanh nghiệp Nhà
nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn đối với các khoản nợ của doanh nghiệp.
 Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách
nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp.
Như vậy, chủ doanh nghiệp là người đầu tư bằng vốn của mình và cũng có
thể huy động thêm vốn từ bên ngoài qua các hình thức đi vay. Tuy nhiên, loại hình
doanh nghiệp này không được phép phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào để huy
động vốn trên thị trường. Qua đó cho thấy, nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân là
hạn hẹp, loại hình doanh nghiệp này thường thích hợp với kinh doanh quy mô nhỏ.
Chủ doanh nghiệp tư nhân có quyền quyết định đối với tất cả mọi hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp, có quyền cho thuê toàn bộ doanh nghiệp của mình,
có quyền bán doanh nghiệp của mình cho người khác, hoặc có quyền tạm ngừng
hoạt động kinh doanh. Việc thực hiện cho thuê hay bán doanh nghiệp hoặc tạm
ngừng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải tuân theo yêu cầu của pháp
luật hiện hành.
Lợi nhuận sau thuế hoàn toàn thuộc quyền sở hữu của chủ doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh, chủ doanh nghiệp tư nhân tự chịu trách nhiệm bằng
toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động. Điều đó cũng có nghĩa là về mặt tài
chính, chủ doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của
doanh nghiệp. Đây cũng là một điều bất lợi của hình thức doanh nghiệp này.
 Công ty hợp danh: là doanh nghiệp trong đó:
- Phải có ít nhất 2 thành viên hợp danh: ngoài các thành viên hợp danh có
thể có thành viên góp vốn.
- Thành viên hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín

nghề nghiệp, phải chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ
của Công ty.
- Thành viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của Công ty
trong phạm vi số vốn đã góp và Công ty.
Trong Công ty hợp danh, thành viên hợp danh có quyền quản lý Công ty,
tiến hành hoạt động kinh doanh nhân danh Công ty. Các thành viên hợp danh có
quyền ngang nhau khi quyết định các vấn đề quản lý Công ty, cùng liên đới chịu
trách nhiệm về các nghĩa vụ của Công ty. Thành viên góp vốn có quyền được chia
lợi nhuận theo tỷ lệ được quy định tại điều lệ Công ty, không được tham gia quản
lý và hoạt động kinh doanh nhân danh Công ty.
Ngoài vốn điều lệ, Công ty hợp danh có quyền lựa chọn hình thức và cách
thức huy động vốn theo quy định của pháp luật, nhưng không được pháp hành bất
kỳ loại chứng khoán nào.
 Công ty Trách nhiệm hữu hạn: theo luật doanh nghiệp hiện hành ở nước ta, có 2
dạng Công ty TNHH;
+ Công ty TNHH (có 2 thành viên trở lên) là doanh nghiệp trong đó”
- Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác
của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã cam kết góp vào doanh nghiệp.
- Phần vốn góp của thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định của pháp luật
tại Điều 32 của Luật doanh nghiệp.
- Thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên theo quy định của pháp
luật
Thành viên phải góp vốn đầy đủ và đúng hạn như đã cam kết. Ngoài phần
vốn góp của thành viên, Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy
động vốn theo quy định của pháp luật, nhưng Công ty không được phát hành cổ
phiếu.
Thành viên Công ty chịu trách nhiệm hữu hạn, có quyền chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ phần vốn góp, nhưng trước hết phải chào bán phần vốn đó cho
tất cả các thành viên còn lại theo tỷ lệ tương ứng với phần vốn góp của họ trong
Công ty. Chỉ được chuyển nhượng cho người không phải là thành viên nếu các

thành viên còn lại của Công ty không mua hoặc không mua hết.
Thành viên có quyền yêu cầu Công ty mua lại phần vốn góp của mình, nếu
thành viên đó bỏ phiếu chống hoặc phản đối bằng văn bản với quyết định của hội
động thành viên về các vấn đề:
+ Sửa đổi, bổ sung các nội dung trong điều lệ Công ty liên quan đến quyền
và nghĩa vụ của thành viên, quyền và nhiệm vụ của Hội đồng thành viên.
+ Tổ chức lại Công ty.
+ Các trường hợp khác quy định tại điều lệ Công ty.
Trong quá trình hoạt động, theo quyết định của Hội đồng thành viên, Công
ty có thể tăng hoặc giảm vốn điều lệ theo quy định của pháp luật.
Hội đồng thành viên của Công ty quyết định phương án sử dụng và phân
chia lợi nhuận hoặc phương án xử lý lỗ của Công ty.
- Công ty TNHH 1 thành viên: là doanh nghiệp do một tổ chức làm chủ sở hữu, chủ
sở hữu chịu trách nhiệm về các khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp
trong phạm vi tài sản của doanh nghiệp.
Công ty có quyền lựa chọn hình thức và cách thức huy động vốn, tuy nhiên
Công ty không có quyền phát hành cổ phiếu
Chủ sở hữu Công ty không được trực tiếp rút một phần hoặc toàn bộ vốn
góp đã góp vào Công ty, chỉ được quyền rút vốn bằng cách chuyển nhượng một
phần hoặc toàn bộ số vốn cho tổ chức hoặc cá nhân khác.
Chủ sở hữu Công ty là người quyết định sử dụng lợi nhuận sau thuế.
 Công ty cổ phần: là doanh nghiệp trong đó
- Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
- Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của doanh
nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp.
- Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác,
trừ trường hợp có quy định của pháp luật.
- Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân: số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và
không hạn chế số lượng tối đa.
Ngoài các hình thức huy động vốn thông thường, Công ty cổ phần có thể

phát hành các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu) ra công chúng để huy động
vốn nếu đủ tiêu chuẩn theo luật định. Đây là một ưu thế của loại hình doanh nghiệp
này.
Các thành viên của Công ty được tư do chuyển nhượng cổ phiếu của mình
cho người khác. Điều này làm cho các nhà đầu tư có thể chuyển dịch vốn đầu tư
của mình.
Việc phân phối lợi nhuận sau thuế thuộc quyền quyết định của các thành
viên trong Công ty.
Cũng giống như Công ty TNHH, thành viên của Công ty cổ phần chỉ chịu
trách nhiệm hữu hạn với các khoản nợ của Công ty trong phạm vi phần vốn đã góp.
1.1.2. Tài sản lưu động của Doanh nghiệp.
1.1.2.1. Khái niệm tài sản lưu động của Doanh nghiệp
Quá trình sản xuất kinh doanh luôn cần phải có ba yếu tố cơ bản là: Sức lao
động, đối tượng lao động và tư liệu lao động.
Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người, là điều kiện tiên
quyết của mọi quá trình sản xuất xã hội. Mọi quá trình vận động phát triển sản xuất
kinh doanh đều đòi hỏi sức lao động ngày càng có chất lượng cao hơn.
Đối tượng lao động là tất cả những vật mà con người tác động vào nhằm
biến đối nó phù hợp với mục đích sử dụng. Đối tượng lao động chính là yếu tố vật
chất của sản phẩm và được chia thành hai loại:
- Loại thứ nhất có sẵn trong tự nhiên như: Cây gỗ trong rừng nguyên sinh, các
loại quặng, than đá trong lòng đất, các loại hải sản ... Loại này là đối tượng lao
động của các ngành công nghiệp khai thác.
- Loại thứ hai đã qua chế biến, nghĩa là đã có sự tác động của lao động, gọi là
nguyên vật liệu. Loại này cần được tiếp tục gia công để thành sản phẩm hoàn
chỉnh như: Sợi để dệt vải, sắt thép để chế tạo máy... Loại này chính là đối tượng
lao động của các ngành công nghiệp chế biến.
Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền
dẫn sự tác động của con người để lưu động trong các doanh nghiệp được
chia thành hai phần: Một bộ phận là những vật tư đang trong quá trình chế

biến (sản phẩm dở dang, bán thành phẩm...) cùng với các công cụ, dụng cụ,
phụ tùng thay thế được dự trữ hoặc sử dụng, chúng tạo thành tài sản lưu
động nằm trong khâu sản xuất của doanh nghiệp.
Bên cạnh tài sản lưu động nằm trong khâu sản xuất, trong quá trình lưu
thông, thanh toán... doanh nghiệp cũng có một số tài sản lưu động khác đó là
các vật tư phục vụ quá trình tiêu thụ, là các khoản hàng gửi bán, các khoản
phải thu.
Tài sản lưu động còn gọi là đối tượng lao động là điều kiện quyết định để
doanh nghiệp đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nó là bộ phận không thể thiếu
được trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp, nó đảm bảo cho quá trình tái sản
xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách liên tục, thường xuyên.
Tài sản lưu động dưới hình thái giá trị hay còn gọi là vốn lưu động, là công
cụ phản ánh, đánh giá tốc độ vận động của vật tư.
Trong doanh nghiệp, số lượng vốn lưu động nhiều hay ít phản ánh số lượng
vật tư hành hóa dự trữ ở các khâu nhiều hay ít. Tài sản lưu động luân chuyển nhanh
hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng có tiết kiệm hay không, thời gian
nằm trong khâu sản xuất, lưu thông có lâu không ? Vì vậy, thông qua tình hình luân
chuyển có thể kiểm tra một cách toàn diện việc cung cấp, sản xuất, tiêu thụ của
doanh nghiệp.
Mặt khác với vai trò là vốn luân chuyển, vốn lưu động giúp tổ chức tốt quá
trình đưa hàng hóa từ lĩnh vực sản xuất sang lĩnh vực lưu thông, giải quyết mâu
thuẫn vốn có giữa sản xuất và tiêu dùng.
Chúng ta có thể khẳng định tài sản lưu động có một vai trò quyết định đối
với hiệu quả sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nó chỉ phát huy tác dụng khi các nhà
quản lý tài chính biết quản lý một cách khoa học, sử dụng đúng hướng, đúng mục
đích, tiết kiệm và có hiệu quả. Ngoài ra, sử dụng tài sản lưu động hợp lý cho phép
khai thác tối đa năng lực làm việc của các tư liệu sản xuất (tài sản lưu động) góp
phần làm tốt công tác bảo toàn và phát triển vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Vì
vậy, việc quản lý và sử dụng tài sản lưu động giữ vai trò trọng yếu trong công tác
tài chính của doanh nghiệp .

1.1.2.2. Phân loại tài sản lưu động:
Để sử dụng tài sản lưu động hiệu quả cần phân loại tài sản lưu động theo
những tiêu thức khác nhau.
* Căn cứ vào phạm vi sử dụng, tài sản lưu động gồm các loại sau :
a. Tài sản lưu động sử dụng trong hoạt động kinh doanh chính :
- Đối với doanh nghiệp sản xuất thì tài sản lưu động sử dụng trong hoạt
động kinh doanh chính chủ yếu là nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, sản
phẩm dở dang, vật liệu bao bì đóng gói,…
- Nguyên vật liệu chính : gồm giá trị của những loại nguyên vật liệu khi
tham gia vào quá trình sản xuất là bộ phận cơ bản cấu thành nên sản
phẩm.
- Vật liệu phụ : là những loại vật liệu khi tham gia vào quá trình sản xuất
thì nó chỉ có tác dụng phụ trong quá trình sản xuất chế tạo, có thể kết hợp
với vật liệu chính làm thay đổi màu sắc, mùi vị, hình dạng bề ngoài của
sản phẩm hoặc tạo điều kiện cho quá trình chế tạo sản phẩm được thực
hiện bình thường hoặc phục vụ cho nhu cầu công nghiệp, kỹ thuật phục
vụ cho quá trình lao động.
- Nhiên liệu : Thực chất là một loại vật liệu phụ nhưng có tác dụng cung
cấp nhiệt lượng cho quá trình sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho quá
trình chế tạo sản phẩm diễn ra bình thường.
- Phụ tùng thay thế : là những loại vật tư sản phẩm dùng để thay thế sửa
chữa máy móc, thiết bị, phương tiện vật tư công cụ, dụng cụ sản xuất,…
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản là những vật liệu và thiết bị được sử
dụng cho công việc xây dựng cơ bản.
- Công cụ, dụng cụ lao động nhỏ là những tư liệu lao động mà doanh
nghiệp sử dụng trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, chúng
không đủ tiêu chuẩn là tài sản cố định vì giá trị nhỏ và thời gian sử dụng
tương đối ngắn. Công cụ, dụng cụ lao động sử dụng trong doanh nghiệp
được phân thành hai loại :
+ Công cụ, dụng cụ được phân bổ một lần ( phân bổ 100%) : đây là

loại công cụ, dụng cụ khi xuất kho đem sử dụng, toàn bộ giá trị của
chúng được phân bổ hết vào chi phí kinh doanh trong kỳ của doanh
nghiệp. Loại công cụ này được áp dụng với các loại công cụ, dụng cụ
có giá trị nhỏ, phát huy tác dụng trong thời gian ngắn, chúng không
ảnh hưởng lớn đến tổng chi phí kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ
kinh doanh.
+ Công cụ, dụng cụ được phân bổ nhiều lần : Là loại công cụ, dụng cụ
lao động có giá trị lớn, thời gian sử dụng tương đối dài và hư hỏng có
thể sửa chữa được.
- Bao bì, vật liệu đóng gói là những tư liệu lao động mà doanh nghiệp sử
dụng trong quá trình tiến hành sản xuất kinh doanh, nó luôn đi cùng sản
phẩm của doanh nghiệp trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
- Sản phẩm dở dang : Là những sản phẩm đang trong quá trình sản xuất
xây dựng hoặc đang nằm trên các địa điểm làm việc đợi chế biến tiếp, chi
phí trồng trọt dở dang, chi phí chăn nuôi dở dang, súc vật nhỏ và nuôi
béo,…
Bán thành phẩm tự chế : Cũng là những sản phẩm dở dang nhưng khác ở chỗ nó đã
hoàn thành giai đoạn chế biến nhất định.
b. Tài sản lưu động sử dụng trong hoạt động kinh doanh phụ :
Để linh hoạt trong sử dụng tài sản trên thực tế hiện nay người ta dùng tài sản
lưu động để chi cho công tác sửa chữa. Căn cứ vào đặc điểm kinh tế và kỹ thuật
sửa chữa được phân thành hai loại : Sửa chữa thường xuyên và sửa chữa lớn tài sản
lưu động.
Ngoài ra tài sản lưu động còn sử dụng trong hoạt động kinh doanh phụ như;
hoạt động cung cấp dịch vụ, lao vụ, …
c. Tài sản lưu động sử dụng trong công tác quản lý doanh nghiệp :
Công tác quản lý doanh nghiệp bao gồm cả quản lý kinh doanh và quản lý
hành chính.Tài sản lưu động được sử dụng bao gồm :
- Vật liệu cho văn phòng, cho phương tiện vận tải.
- Công cụ, dụng cụ văn phòng phẩm : Giấy, bút, mực, bàn ghế,…

- Khoản tạm ứng : hội nghị, tiếp khách, đào tạo cán bộ,…
d. Tài sản lưu động sử dụng trong công tác phúc lợi :
Công tác phúc lợi, chủ yếu tài sản lưu động dùng để đầu tư cho câu lạc bộ,
công trình phúc lợi công cộng của doanh nghiệp, cho công nhân, nhân viên đi
thăm quan, nghỉ mát, các hoạt động văn hóa nghệ,…
* Căn cứ theo đặc diểm chu chuyển, tài sản lưu động gồm các loại sau :
a. Tài sản bằng tiền:
Là bộ phận tài sản lưu động tồn tại dưới hình thái tiền tệ bao gồm:
- Tiền mặt tại quỹ: Là số tiền mà doanh nghiệp để lại quỹ của mình để sử dụng chi
tiêu hàng ngày. Bao gồm tiền Việt Nam, ngoại tệ, ngân phiếu, tiền bán hàng chưa
nộp...
- Tiền gửi ngân hàng: Là số tiền có trên tài khoản tiền gửi ngân hàng của doanh
nghiệp tại ngân hàng, kho bạc Nhà nước, công ty tài chính (nếu có). Bao gồm tiền
Việt Nam, ngoại tệ, vàng bạc, kim loại quý, đá quý...
- Tiền đang chuyển là số tiền mà doanh nghiệp đã nộp vào ngân hàng hay đã qua
đường bưu điện, đang làm thủ tục trích chuyển tiền từ tài khoản của doanh nghiệp
sang tài khoản tiền gửi của doanh nghiệp khác mà doanh nghiệp chưa nhận được
giấy báo có của ngân hàng.
Nếu lượng tiền dự trữ quá lớn so với nhu cầu tiêu dùng và sử dụng sẽ gây
lãng phí, không có hiệu quả. Ngược lại nếu lượng tiền dự trữ quá thấp lúc đó doanh
nghiệp sẽ thiếu tiền đầu tư dẫn đến hiệu quả sử dụng tài sản bằng tiền không cao.
b. Đầu tư ngắn hạn:
Là các khoản đầu tư của doanh nghiệp ra bên ngoài được thực hiện dưới
hình thức cho vay, cho thuê, góp vốn liên doanh, mua bán chứng khoán (trái phiếu,
cổ phiếu, tín phiếu...) có thời gian sử dụng, thu hồi vốn không quá một năm.
c. Các khoản phải thu:
Là các khoản mà doanh nghiệp có nghĩa vụ phải thu từ các đối tượng khác:
Phải thu từ khách hàng, phải thu nội bộ, các khoản thế chấp, cầm cố, ký quỹ, ký
cược...
Thực tế việc mua bán chịu trong các doanh nghiệp là thường xuyên xảy ra,

đôi khi để thực hiện các điều khoản trong hợp đồng kinh tế doanh nghiệp phải trả
trước một khoản nào đó. Vì vậy hình thành nên các khoản thu của doanh nghiệp.

×