Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CƠ CHẾ LÃI SUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (169.57 KB, 19 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÃI SUẤT VÀ CƠ CHẾ LÃI SUẤT

I . Khái niệm lãi suất
1. Định nghĩa về lãi suất .
Lãi suất là gì ?
Theo J. M keynes ( 1883-1964) nhà kinh tế học nổi tiếng người Anh cho rằng
lãi suất không phải là số tiền phải trả cho công việc tiết kiệm hay nhịn chi tiêu vì
khi tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay cả
trường hợp tích trữ rất nhiều trong một khoảng thời gian nhất định nào đó. Vì vậy,
lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho “sở thích chi tiêu
tư bản”
Theo C. MAC: qua quá trình nghiên cứu bản chất của xã hội tư bản ông cho
rằng : khi nghiên xã hội phát triển thì tư bản tài sản tách rời tư bản chức năng, tức
là quyền sở hữu tư bản tách quyền sử dụng tư bản. Nhưng mục đích của tư bản là
giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không thay đổi. Vì vậy trong xã hội phát sinh
quan hệ đi vay và cho vay, đã là tư bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi
vay sử dụng, tư bản cho vay được hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá
trị tăng thêm và ông gọi đó là lợi tức.
Về thực chất lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi
vay trả cho nhà tư bản cho vay. Trong thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận bình
quân mà các nhà tư bản thương nghiệp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho
vay.
Trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cùng với tín dụng sự tồn tại và tác động
của nó đã do mục đích thoả mãn đầy đủ nhất các yêu cầu của tất cả các thành viên
trong xã hội . Lãi suất không chỉ là động lực của tín dụng mà nó còn phải bám sát
các mục tiêu kinh tế. Qua sự phân tích trên ta thấy :
Lãi suất là tỷ lệ phần trăm giữa khoản tiền người đi vay phải trả thêm cho người
cho vay trên tổng số tiền vay sau một thời gian nhất định đẻ được sử dụng khoản
tiền vay đó. Nói theo một cách khác lãi suất đó là giá cả của quyền sử dụng vốn
vay trong một thời gian nhất định mà người sở dụng trả cho người sở hữu nó. Lãi
suất phải được trả bởi lẽ đồng tiền ngày hôm nay có giá hơn đồng tiền nhận được


ngày mai khi tính đến giá trị thời gian của tiền tệ. Khi người cho vay chuyển quyền
sử dụng vốn cho người khác có nghĩa là anh ta hy sinh quyền sử dụng tiền tệ ngày
hôm nay của mình với hy vọng có được lựợng tiền tệ lớn hơn vào ngày mai. Sẽ
không có sự chuyển nhựơng vốn nếu không có p hần lớn thêm lên đó hoặc là nó
không thể cho giá thời gian của tiền tệ. Lãi suất ảnh hưởng trực tiếp đến các quyết
định của cá nhân trong việc hình thành tỷ lệ giữa tiêu dùng và tiết kiệm ;ảnh hưởng
đén quyết định phân vốn đầu tư của dóanh nghiệp và hộ gia đình. Xét ở
phạm vi toàn xã hội, các quyết định này sẽ ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng và tỷ
lệ thất nghiệp của quốc gia.
2 . Fhân loại lãi suất
Tuỳ thuộc vào từng tiêu chí, mục đích phân loại khác nhau mà lãi suất được chia
làm nhiều loại :
a ) Căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất được chia làm ba loại : lãi suất
ngắn hạn , lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn .
Các tổ chức tín dụng thực chất cũng là một doanh nghiệp vì vậy mục đích cuối
cùng của nó vẫn là lợi nhuận. Để tối đa hoá lợi nhuận các tổ chức tín dụng phải có
cách quản lí tài sản một cách tối ưu nhất. Một trong những nhân tố ảnh hưởng đến
việc quản lí tài sản của các tổ chức tín dụng là thời gian đáo hạn. Đây là độ dài về
giờ, ngày, tháng, năm của các khoản nợ từ ngày nhận cho đến khi nó được trở lại.
Chính sự khác nhau về thời gian của khoản vay (hoặc cho vay ) lãi suất cho mỗi
loại là khác nhau. Đó cũng là nguyên nhân cho sự phân biệt về lãi suất ngắn hạn,
lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn
Như vậy căn cứ vào thời hạn tín dụng lãi suất được chia làm ba loại :
- Lãi suất ngắn hạn được áp dụng với các khoản tín dụng ngắn hạn .
- Lãi suất trung hạn được áp dụng đối với các khoản tín dụng trung hạn.
- Lãi suất dài hạn được áp dụng đối với các khoản tín dụng dài hạn
Lãi suất ngắn hạn thường thấp hơn lãi suất trung hạn và lãi suất dài hạn vì lợi
tức của những khoản đầu tư ngắn như thế thường có lợi tức không ổn định. Hơn
nữa , chính lợi tức không ổn định của nó làm cho loại lãi suất này biến động khá
thường xuyên và dữ dội. Ngược lại lãi suất trung và dài hạn, vì tính lâu dài của nó,

các khoản đầu tư này thường được sử dụng cho các khu vực sản suất cơ bản, bền
chắc, với lợi tức ít thay đổi. Do lợi tức của đầu tư cơ bản ổn định, lãi suất của các
loại tài sản này cũng cao hơn các loại tài sản khác. khi nền kinh tế chưa phát triưển
các khoản vay ngắn hạn được sử dụng nhiều hơn các khoản cho vay trung và dài
hạn và có thể trong thời gian đầu lãi suất ngắn hạn có thể cao hơn lãi suất trung và
dài hạn. nhưng khi nền kinh tế cần nhiều nguồn vốn cho đầu tư hơn, cần chú trọng
đến các khoản vay trung và dài hạn thì cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn về vị
trí giữa lãi suất ngắn hạn, trung và dài hạnđể tránh những bất hợp lý . tinh trạng
này đã diễn ra ở nước ta trong một khoảng thời gian dài và gây ra nhiều bất hợp lý
cản trở sự phát triển của nền kinh tế, hnạ chế khuyến khích đầu tư. Vì vậy cần có sự
nhận thức đúng đắn vị trí của các loại lãi suất này để có được những điều chỉnh
phù hợp, góp phần phát triển nền kinh tế.
b) Căn cứ vào giá trị thực của lãi suất và cũng bởi mối liên hệ giữa lãi suất
và lạm phát người ta chia lãi suất làm hai loại :lãi suất danh nghĩa và lãi suất thực
tế .
- Lãi suất danh nghĩa : là lãi suất chưa loại trừ đi tỷ lệ lạm phát và thường
được thông báo chính thức trong các quan hệ tín dụng.
- Lãi suất thực tế : là loại lãi suất được điều chỉnh lại cho đúng theo những
thay đổi về lạm phát bao gồm hai loại lãi suất thực tính trước ( dự tính) và lãi suất
thực tính sau.
Việc phân chia hai loại lãi suất này có ý nghĩa lý luận và thực tiễn vô cùng
quan trọng. Nhận thức rõ ràng đâu là lãi suất thực đâu là lãi suất danh nghĩa sẽ
giúp nhà nước và các TCTD ứng biến kịp thời trước những thay đổi của tình hình
lạm phát .
Để giữ cho tài sản nợ và tài sản có có hiệu quả không đổi hệ thống ngân
hàng sẽ luôn cố gắng giữ cho lãi suất thực tế ổn định. Nhưng vì lãi suất thực tế
bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát nên nếu muốn cho lãi suất thực tế ổn
định lãi suất danh nghĩa phải tăng cùng với tỷ lệ lạm phát. Vì vậy có thể nói hai loại
lãi suất này có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, có tác dụng hỗ trợ lẫn nhau
trong việc quản lý lãi suất ở cả tầm vi mô và vĩ mô.

c) Căn cứ vào mức độ ổn định của lãi suất , lãi suất cố định và lãi suất thả
nổi.
Lãi suất cố định: được áp dụng suốt thời hạn vay. Với loại lãi suất này cả
người gửi tiền và người vay tiền đều có thể biết trước số lãi được trả và phải trả
nhưng lại làm cho các tổ chức cung ứng tín dụng và người vay tiền khó có khả
năng phản ứng linh hoạt với các biến động, nếu có, của cung cầu vốn trên thị
trường tài chính tiền tệ.
Lãi suất thả nổi : là lãi suất có thể thay đổi phù hợp với sự biến động của
thị trường và có thể báo trước hoặc không báo trước. Mặc dù khi áp dụng cơ chế
lãi suất này cả người đi vay và người cho vay không thể xác định chính xác mức
lãi suất sẽ phải trả nhưng nó thích hợp trong một môi trường không ổn định và các
quan nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất là khó dự đoán.
Việc phân chia hai loại lãi suất này chủ xuất phát từ yêu cầu quản lí lãi
suất. Đây là hai cách quản lý lãi suất. Cố định lãi suất có nghĩa là đưa ra những
thang, mức lãi suất lập sẵn trong quan hệ đi vay và cho vay.Thả nổi lãi suất có
nghĩa để lãi suất do cung cầu vốn của thị trường quyết định .
Cố định hay thả nổi lãi suất có liên quan chặt chẽ đến việc hoạch định
chính sách tiền tệ trong mỗi thờ kỳ cụ thể và theo từng giai đoạn phát triển của nền
kinh tế. Khi nền kinh tế chưa ổn định, thị trường tài chính còn sơ khai ngân hàng
trung ương thường sử dụng các biện pháp điều chỉnh trực tiếp mang tính hành
chínhđể tránh những xáo trộn bất lợi khó có thể kiểm soát được. Lãi suất trong thời
kỳ này thường được quy định từng mức cụ thể, với từng loại đối tượng trong các
bảng biểu. Khi nền kinh tế đã phát trển, khi thị trường tài chính đã ổn định nhà
nước sẽ thả nổi lãi suất cho cung cầu quyết định. Lãi suất cố định là bước đầu phải
trải qua của hầu hết các nền kinh tế chuyển đổi, là bước đệm tiến tới thả nổi lãi
suất.
d) Căn cứ vào các chủ thể tham gia vào quan hệ tín dụng lãi suất được chia
làm bốn loại : lãi suất tín dụng nhà nước, lãi suất tín dụng ngân hàng, lãi suất tín
dụng thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường nguồn vốn không còn có thể tự nhiên mà có, nhà

nước không thể cứ tiêu hết rồi lại in thêm, các tổ chức kinh tế cứ dùng hết vốn thì
lại có nhà nước cung cấp như trước đây.Trong nền kinh tế thị trường mọi thứ đòi
hỏi phải tuân theo quy luật thị trường. Mọi thứ phải tuân thủ quy luật giá trị, cân
đối giữa lượng và chất. Ngay cả lãi suất cũng vậy, người ta có thể quy định cụ thể
từng mức lãi suất nhưng phải luôn bảo đảm công thức lãi suất lớn hơn tỷ lệ lạm
phát và nhỏ hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của nền kinh tế, nếu không sẽ dẫn đến
những hậu quả nghiêm trọng. Nền kinh tế nước tavào nửa cuối thập kỷ 80 và nửa
đầu thập kỷ 90 đã lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế nghiêm trọng một phần
đã có những nhận thức sai lệch như trên. NHNN cứ phát hành ra thật nhiều tiền cho
nhu cầu chi tiêu của mình và cung cấp cho các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Kết
quả lượng hàng hoá làm ra thì có hạn, mức tiêu thụ thấp nhưng lượng tiền tương
ứng lại quá dư thừa. Trước tình hình trên đòi hỏi nhà nước cần nhìn nhận một cách
tổng thể về chính sách tiền tệ quốc gia, về mối quan hệ giữa chính sách cung ứng
tiền và lạm phát,về tác dụng của các loại lãi suất trong nền kinh tế. Các loại lãi suất
khác nhau tuỳ thuộc vào mục đích của các chủ thể tạo ra chúng. chính phủ tuỳ
thuộc vào nhu cầu chi tiêu nhiều hay ít mà vay nền kinh tế nhiều hay ít, lãi suất thấp
sẽ đồng nghĩa với việc thu hút được nhiều tiền trong lưu thông à ngược lại . NHNN
giao cho nhiệm vụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, tuỳ vào mục tiêu của chính
sách trong từng thời kỳ vào mục tiêu hút tiền và cung ứng tiền mà NHNN đặt giá
cao hay thấp cho nguồn vốn vay và cho vay của mình với nền kinh tế theo giá cao
hay thấp. Các TCTD, các doanh nghiệp cũng như các chủ thể khác trong nền kinh
tế, trong quan hệ đi vay và cho vay đèu can cứ vào mục đích và nhu cầu của mình
mà đặt giá cao hay thấp cho từng loại tín dụng.
* Lãi suất tín dụng nhà nước :
Lãi suất tín dụng nhà nước áp dụng trong các trường hợp nhà nước đi vay của
các chủ thể khác nhau trong xã hội dưới hình thức phát hành tín phiếu hoạc trái
phiếu. Loại lãi suất này có thể do nhà nước ấn định căn cứ vào lãi suất tiền gửi tiết
kiệm của ngân hàng, vào các yếu tố khác như sự biến động của lạm phát , nhu cầu
cấp thiết về vốn của nhà nước... hoặc hình thành thông qua hoặt động đấu thầu tín
phiếu, trái phiếu nhà nước.

* Lãi suất tín dụng ngân hàng
Lãi suất tín dụng ngân hàng được áp dụng trong hoặt động tái cấp vốn của ngân
hàng trung ương cho các ngân hàng, trong quan hệ giữa các ngân hàng với nhau
trên thị trường liên ngân hàng, trong quan hệ giữa ngân hàng với doanh nghiệp và
công chúng trong việc huy động tiền gửi và trong việc cho vay. Lãi suất tín dụng
ngân hàng bao gồm :
- Lãi suất tái chiết khấu: là hình thức lã suất tái cấp vốn được áp dụng khi
ngân hàng nhà nước tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn
khác cho các tổ chức tín dụng.
- Lãi suất cơ bản : là lãi suất do ngân hàng nhà nước công bố làm cơ sơ cho
các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh của mình.
- Lãi suất liên ngân hàng : là lãi suất mà các ngân hàng áp dụng khi cho nhau
vay trên thị trường liên ngân hàng.
- Lãi suất chiết khấu : là lãi suất được áp dụng khi các tổ chức tín dụng thực
hiện việc mua lại thương phiếu, giấy tờ có giá ngắn hạn khác của người thụ hưởng
trước khi đến hạn thanh toán.
- Lãi suất tiền gửi: là lãi suất được trả cho các khoản vay tiền gửi và được
quy địng nhiều mức khác nhau tuỳ thuộc vào thời hạn gửi, vào qui mô gửi tiền.
- Lãi suất tiền vay : là lãi suất mà người đi vay phải trả cho ngân hàng ,lãi
suất tiền vay theo nguyên tắc phải cao hơn lãi suất tiền gửi bình quân và có sự
phân biệt giữa các khoản vay với các thời hạn khác nhau cũng như mức rủi rokhác
nhau.
* Lãi suát tín dụng thương mại : là lãi suất được tính bao hàm trong tổng giá
cả hàng hoá bán chịu, được áp dụng khi cá doanh nghiệp cho nhau vay dưới hình
thức mua bán chịu hàng hoá.
* Lãi suất tín dụng tiêu dùng : áp dụng khi doanh nghiệp cho người lao động
vay phục vụ nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Mức lãi suất tín dụng tiêu dùng tiêu dùng
thường cao hơn lãi suất tín dụng ngân hàng và lãi suất tín dụng nhà nước.
Các loại lãi suất trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tuỳ theo mục tiêu
chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ NHNN có phuowng pháp tác động đến lãi suất

dưới nhiều hình thức khác nhau. Bằng cách tác động trực tiếp NHNN tác động trực
tiếp đến lãi suất bằng cáhc quy đinh các mức lãi suất cụ thể hoặc thông qua các
công cụ gian tiếp tác động đến lãi suất. Với cách quản lý lãi suất gián tiếp đòi hỏi
phải biết được mối liên kết giữa cac loại lãi suất, dể có thể thông qua lãi suất này
để tác động đén các loại lãi suất khác. ví dụ như khi nhà nước muốn hạ thấp mức
lãi suất trên thị trường mà không cần tác động trực tiếp vào chúng thì nhà nước có
thể hạ mức lãi suất tái cấp vốn xuống tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng vay
nhiều hơn tăng lượng tiền cung ứng trong lưu thông. Lượng tiền cung ứng cho vay
không bị khan hiếm sẽ khiến cho các TCTD giảm lãi suất huy động đồng thời lãi
suất cho vay cũng không bị đẩy lên cao.
3.Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất
Lãi suất là một loại giá cả vì vậy cũng như những loại hàng hoá khác lãi suất chịu
ảnh hưởng lớn của cơ chế cung cầu. Nhưng lãi suất không phải là một loại giá cả
thông thường vì vậy khi xem xét những biến đổi của lãi suất các nhà chuyên môn
thường dựa vào lý thuyết quỹ cho vay. Lý thuyết quỹ cho vay cho rằng : trong lãi
suất đã hàm chứa một mâu thuẫn giữa người đi vay và người cho vay. Người đi
vay coi lãi suất như khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền vốn
của người khác nên người đi vay muốn lãi suất càng thấp càng tốt, ngược lại, lãi
suất lại là giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời trao quyền sử
dụng khoản tiền của mình cho người khác nên muốn lãi suất càng cao càng tốt. Bởi
vậy, lãi suất cũng chịu ảnh hưởng hoạt động của cơ chế cung cầu.
* Cầu quỹ cho vay : cầu quỹ cho vay bao gồm nhiều thành phần và bắt nguồn
từ tất cả các khu vực của nền kinh tế, trong đó mọi khu vực có nhu cầu về quỹ cho
vay xuất phát từ các động lực khác nhau :
- Cầu của doanh nghiệp : khu vực doanh nghiệp là khách hàng chính tạo nên cầu
quỹ cho vay . Những nhu cầu về quỹ cho vay của doanh nghiệp chủ yếu xuất phát
từ nhu cầu đầu tư mua sắm các tài sản thực như nhà máy, thiết bị và hàng tồn kho.
- Cầu của chính quyền : khu xực chủ yếu khác liên quan đến cầu quỹ cho vay trong
các thị trường tài chính là chính quyền địa phương và trung ương. Nhu cầu về quỹ
cho vay của cơ quan địa phương chủ yếu phát sinh vào việc xây dựng tiện ích cho

giáo dục và những dịch vụ công quyền khác, nhu cầu này được quyết định trước
hết do tỷ lệ gia tăng dân số, các thay đổi về vị trí địa dư, sự tăng tuổi thọ dân số...

×