Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY MAY CHIẾN THẮNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.26 KB, 29 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU CỦA CÔNG TY MAY CHIẾN
THẮNG
1. PHƯƠNG HƯỚNG, NHIỆM VỤ VÀ MỤC TIÊU CỦA CÔNG TY.
Công ty may Chiến Thắng là một doanh nghiệp Nhà nước sau gần 15 năm
hoạt động qua những kết quả mà Công ty đã đạt được, với việc đánh giá những
thành tựu, những mặt hạn chế để tìm ra những nguyên nhân đang tồn tại làm ảnh
hưởng tới phát triển đi lên của Công ty trong giai đoạn mới. Bước vào năm 2002,
Công ty đã đề ra phương hướng và mục tiêu phát triển giai đoạn 2002 - 2003 và
những năm tiếp theo như sau:
1.1. Phương hướng và nhiệm vụ của Công ty:
- Đẩy mạnh xuất nhập khẩu, đặc biệt chú trọng tới công tác xuất khẩu. Đây
là một trong những chủ trương khuyến khíach trong đường lối phát triển kinh tế
của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Mục tiêu của Công ty đề ra là xuất khẩu các sản phẩm may mặc với việc đa
dạng hóa các mặt hàng. Như vậy sẽ đem lại nguồn ngoại tệ, tạo nguồn vốn cho
Công ty mở rộng sản xuất, tăng năng suất lao động, tạo điều kiện cho Công ty có
thêm nguồn vốn và có cơ hội mở rộng thị trường, đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu.
Với nhập khẩu, Công ty ưu tiên nhập khẩu các sản phẩm là máy móc,
nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuất.
- Ổn định và giữ vững các thị trường sẵn có, từng bước xâm nhập vào các thị
trường khác nhất là khu vực các nước EU và khu vực Bắc Mỹ, khu vực Châu Phi.
Để có thể tổ chức tốt các hoạt động xuất nhập khẩu, Công ty phải xuất phát từ
nhu cầu của thị trường trong nước và thị trường thế giới. Chỉ mở rộng thị trường,
đa dạng hóa chủng loại mặt hàng thì Công ty mới có điều kiện tăng kim ngạch xuất
nhập khẩu và giảm rủi ro trong hoạt động kinh doanh quốc tế.
- Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh là trọng tâm và chủ yếu, song không vì thế
mà coi nhẹ các công tác khác như: khuyến khích, tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ
cán bộ công nhân viên học tập nâng cao trình độ, đặc biệt là đội ngũ cán bộ chủ
chốt. Đặt mục tiêu 100% cán bộ chủ chốt theo các lớp học nghiệp vụ ngắn hạn và
dài hạn.


Đề cử một số cán bộ trong Công ty ra nước ngoài học hỏi, nâng cao trình độ
kỹ thuật, quản lý, từ đó mà nâng cao năng suất lao động, nâng cao nghiệp vụ xuất
nhập khẩu.
Công ty thường xuyên chăm lo đến các tổ chức đoàn thể, bổ sung đội ngũ
cán bộ, đầu tư thời gian, kinh phí. Sắp xếp, bố trí đề bạt cán bộ ở những vị trí cần
thiết, tuyển dụng thêm một số cán bộ, nhân viên mới trong đó 85% có trình độ cao
đẳng và đại học.
- Đảm bảo thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, tạo việc
làm và cải thiện đời sống cho cán bộ của toàn Công ty.
1.2. Mục tiêu kinh doanh của Công ty:
Kinh doanh trong cơ chế thị trường Công ty phải đảm bảo ba mục tiêu sau:
- Kinh doanh có lợi nhuận:
Đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh thì mục tiêu hàng đầu, quan trọng nhất
là hoạt động phải đem lại lợi nhuận. Chỉ khi có lợi nhuận thì mới đảm bảo cho
doanh nghiệp mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay nói chung và với riêng Công ty
may Chiến Thắng, vốn đề hoạt động đang là vấn đề mang tính thời sự, hầu hết các
doanh nghiệp chỉ có thể huy động được 50% - 60% vốn cho hoạt động sản xuất
kinh doanh. Do đó, lợi nhuận càng cao, Công ty càng có điều kiện để bổ sung vào
nguồn vốn, tăng cường các điều kiện vật chất kỹ thuật, tăng quỹ nghiên cứu thị
trường, quảng cáo, các điều kiện thúc đẩy các hoạt động kinh doanh khác, duy trì
và không ngừng nâng cao đời sống của công nhân viên cũng như không ngừng
thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước...
- Kinh doanh an toàn:
Trong nền kinh tế thị trường, kinh doanh nhất là kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hóa, dịch vụ sẽ gặp rất nhiều các yếu tố có ảnh hưởng tích cực cũng như
những tiêu cực đến hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp. Các yếu tố tích
cực sẽ đem lại thành công và ngược lại, các yếu tố tiêu cực sẽ đem lại thất bại, thua
lỗ. Nếu chỉ chạy theo những khoản lợi nhuận lớn mà không lường trước những rủi
ro bất chắc có thể xảy ra thì rất dễ đưa Công ty đến chỗ nợ nần, phá sản.

Phạm vi hoạt động kinh doanh của Công ty không những ở trong nước mà
còn vươn ra trên phạm vi quốc tế. Do đó, ngoài mục tiêu lợi nhuận ban lãnh đạo
Công ty luôn luôn phải chú trọng đến mục tiêu an toàn trong kinh doanh. Nhờ đó,
đảm bảo Công ty tránh được những rủi ro, tránh được những thiệt hại lớn không
đáng có mà một số Công ty đã vấp phải. Công ty kinh doanh với phương châm:
“kinh doanh phải có lợi nhuận và phải đảm bảo an toàn”, nghĩa là kinh doanh có
tính toán dựa trên cơ sở nắm bắt thông tin được phân tích chọn lọc, trên cơ sở khoa
học chứ không liều lĩnh, bất chấp rủi ro.
- Tăng cường uy tín của Công ty:
Uy tín của một doanh nghiệp được coi như tài sản vô hình đem lại giá trị lớn
cho doanh nghiệp đó trong hoạt động sản xuất cũng như trong kinh doanh, trên thị
trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế. Vì thế, để có được tài sản “Uy
tín” là mục tiêu luôn luôn được các doanh nghiệp sản xuất - kinh doanh quan tâm
hàng đầu.
Tạo được một uy tín tốt, một hình ảnh đáng tin cậy đối với cả người bán lẫn
người mua, đối với khách hàng trong và ngoài nước là mục tiêu mà Công ty may
Chiến Thắng luôn luôn đề cao và cố gắng thực hiện.
Để thực hiện mục tiêu này, Công ty xác định kinh doanh phải đảm bảo thực
hiện đúng, nghiêm túc, chính xác các điều khoản đã được ký kết, đúng pháp luật
của quốc gia các bên tham gia hợp đồng và pháp luật quốc tế quy định, đồng thời
luôn luôn thoả mãn những yêu cầu hợp lý của khách hàng, tạo dựng niềm tin với
khách hàng và giữ vững mối quan hệ hợp tác lâu dài trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau
và các bên cùng có lợi.
2. CÁC BIỆN PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH XUẤT NHẬP KHẨU.
Làm thế nào để thực hiện các phương hướng, mục tiêu mà ban lãnh đạo
Công ty đã đề ra cũng như để hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh xuất nhập khẩu
là vấn đề quan trọng, quyết định sự phát triển đi lên hay sẽ bị phá sản của toàn
Công ty.
Nâng cao hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu, Công ty phải quán triệt quan

điểm về kinh tế, xã hội, nguồn nhân lực,... đồng thời phải khẳng định địa vị hiện tại
của mình, đánh giá những điểm mạnh, điểm yếu tìm ra những nguyên nhân yếu
kém đang tồn tại để thực hiện kinh doanh đạt kết quả cao.
Là doanh nghiệp Nhà nước được phép kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp,
do đó việc nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu của Công ty phải là mối quan tâm
hàng đầu.
Tuy nhiên, để nâng cao được hiệu quả của hoạt động xuất nhập khẩu, Công
ty phải chịu tác động của nhiều yếu tố cả chủ quan lẫn khách quan. Về phía Công
ty, cần có những biện pháp để hoàn thiện hơn nữa quá trình kinh doanh cũng như
các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh, có lãi và giảm thiểu những rủi ro
trong quá trình kinh doanh.
Các biện pháp chủ yếu Công ty đặt ra bao gồm:
2.1. Tăng cường điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường:
Với chức năng kinh doanh tổng hợp mà sản phẩm xuất khẩu của Công ty
chủ yếu là hàng may sẵn trên phạm vi quốc tế thì việc nghiên cứu, nắm bắt tình
hình cung - cầu trên thị trường phải được đặc biệt lưu ý.
Công ty cần phải làm chủ được thị phần và dự báo sự biến động của thị
trường (bao gồm cả người mua và người bán), có như vậy Công ty mới có khả
năng hoàn thành được nhiệm vụ của mình, kinh doanh bù đắp được chi phí và có
lãi, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, giải quyết tốt đời sống của cán bộ
công nhân viên...
Thực tế trong những năm vừa qua cho thấy: Công ty chưa có thị trường ổn
định cho cả xuất và nhập khẩu, Công ty kinh doanh chưa chủ động, chưa có khă
năng dự báo thị trường chính xác. Nguyên nhân chính là Công ty chưa thực sự coi
trọng việc nghiên cứu thị trường đối với từng mặt hàng, nhóm hàng, cho từng khu
vực thị trường... từ đó chưa có được chiến lược cụ thể ró rệt trong quá trình tổ chức
và chỉ đạo thực hiện kinh doanh.
Để có thể khắc phục điểm yếu này, Công ty cần giải quyết một số công việc
cụ thể sau:
- Tổ chức nghiên cứu thị trường, cung cấp và xử lý thông tin:

Công ty cần có kế hoạch tổ chức lại bộ phận nghiên cứu thị trường, đào tạo
thêm để đội ngũ những chuyên viên Marketing có trình độ, có đầu óc phân tích
tổng hợp chính xác. Tổ chức quá trình thu thập thông tin từ các nguồn: sách báo,
phương tiền truyền thanh, truyền hình, thông qua các tổ chức và cá nhân trong và
ngoài nước... phát huy thế mạnh của đội ngũ chuyên gia tư vấn, đề xuất phương án
kinh doanh một cách kịp thời, nhanh chóng nắm bắt thời cơ. Đồng thời phát hiện
và khai thác nhu cầu của thị trường, phát hiện nguồn hàng... để tổ chức phân phối
hàng từ nơi này đến nơi khác một cách hợp lý.
Bên cạnh đó, Công ty cũng nên có một lượng chi phí nhất định để tạo điều
kiện cho cán bộ Marketing thâm nhập, nghiên cứu trực tiếp tại thị trường.
- Thiết lập kênh phân phối hợp lý:
Để nghiên cứu thị trường thực hiện đạt kết quả, việc xây dựng một hệ thống
phân phối hoàn chỉnh phù hợp với khả năng sản xuất kinh doanh của Công ty vừa
là đầu mối giao dịch mua bán hàng hóa sản phẩm, vừa là nơi cung cấp những
thông tin phản hồi từ phía khách hàng một cách nhanh chóng, chính xác sẽ làm
giảm đáng kể những sai sót trong việc sản xuất hàng hóa, từ đó nâng cao chất
lượng hàng hóa...
Tổ chức lại và nếu điều kiện cho phép có thể thành lập thêm các chi nhánh,
đại lý, cửa hàng ở thị trường nước ngoài.
- Chọn các đại lý phân phối sản phẩm ở nước ngoài:
Giải pháp này ít chi phí hơn, đảm bảo phân phối được hàng hóa tới tau
người tiêu dùng, giảm bớt chi phí trung gian qua người nhập khẩu nước ngoài.
Ngoài hình thức đặt đại lý, để đưa các sản phẩm xuất khẩu đến tay người
tiêu dùng nước ngoài và đảm bảo ổn định thị trường, Công ty cần liên doanh với
các đối tác nước ngoài.
Liên doanh với đối tác nước ngoài là hình thức rất phù hợp với điều kiện
thực tế của Công ty, trong khi Công ty chưa có khả năng tìm và xâm nhập thị
trường nước ngoài để xuất khẩu nhưng phải tham gia kinh doanh để thị trường làm
quen với Công ty và hàng hóa xuất khẩu của Công ty. Với hình thức này, thị trường
xuất khẩu sẽ do bên nước ngoài đảm nhận họ sẽ là người hiểu biết tốt nhất thị

trường nước mình, do đó hoạt động kinh doanh của Công ty ổn định hơn và an
toàn hơn, đem lại hiệu quả cao. Tuy nhiên, áp dụng hình thức này Công ty sẽ bị lệ
thuộc vào phía đối tác và Công ty không tự kiểm soát được thị trường, đây là điểm
Công ty phải đặc biệt lưu ý.
- Tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm một cách nhanh nhất và có hiệu quả:
Từ trước đến nay, Công ty vẫn chủ yếu tiêu thụ sản phẩm qua hệ thống các
cửa hàng và bán buôn cho các mạng lưới tiêu thụ trong nước. Hiện nay Công ty
mới chỉ có một số cửa hàng ở:
Thành Công - Ba Đình - Hà Nội
Lê Trực - Ba Đình - Hà Nội
Kim Mã - Ba Đình - Hà Nội
Phố Bà Triệu
Điện Biên Phủ
Như vậy là khả năng tiếp xúc với khách hàng trong nước hiện nay bị hạn chế
vì có quá ít cửa hàng trong khi đó các cửa hàng này đều ở những phố nhỏ, cho nên
khách hàng không chú ý đến.
Tổ chức lại hệ thống các cửa hàng, kho trạm một cách hợp lý, có địa điểm
phù hợp với thị trường tiêu thụ, thuận tiện cho người mua.
2.2. Các giải pháp để mở rộng thị trường.
Khó khăn chủ yếu của ngành dệt may hiện nay và cả những năm trước mặt
là tìm kiếm thị trường xuất khẩu. Để mở rộng thị trường xuất khẩu cần tiến hành
đồng bộ một số giải pháp sau:
2.2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong tìm kiếm thị trường, nâng cao hiệu quả
hoạt động của các tổ chức xúc tiến thị trường:
- Marketing thị trường đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm đệt may do đặc
điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xã hội,
truyền thống văn hóa, xu hướng thời trang... Đã có nhiều doanh nghiệp quan tâm
tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng
tài chính của các doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương
mại như, tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt

Nam ở nước ngoài qua các hội chợ triển lãm... cung cấp thông tin về thị trường
cũng như các đặc điểm về kinh tế và xã hội, quy định về pháp luật, chính sách
thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan... cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết.
- Trong các hoạt động này, đại diện thương mại tại các nước nhập khẩu đóng
vai trò quan trọng. Việt Nam đã có đại diện thương mại tại hầu hết các nước có
quan hệ song phương. Các đại diện thương mại có thể nắm bắt nhanh nhạy các nhu
cầu diễn biến thị trường để thông tin kịp thời cho các doanh nghiệp. Tuy nhiên, đại
diện thương mại nói chung khó có thể bao quát các vấn đề của từng ngành. Vì vậy,
để nâng cao hiệu quả hoạt động của thương vụ, có thể cử một vài đại diện của
ngành tại các thị trường có tiềm năng lớn: Bắc Mỹ, Đông Âu, và SNG...
- Tiếp cận kịp thời các biến động thị trường, các quy đổi về quy định, luật
pháp, xu hướng thương mại, thuế quan... của các thị trường nhập khẩu, từ đó định
hướng cho hoạt động xuất khẩu.
- Thúc đẩy sản xuất mẫu mốt, các mẫu chào hàng sẽ phong phú và sát thực
tế thị trường.
- Giới thiệu nguyên liệu, phụ liệu: vải chất lượng cao do ta sản xuất được
chưa nhiều nhưng cần thông tin, quảng cáo, tiếp cận và giới thiệu được với khách
hàng. Các phụ liệu may, Việt Nam đã sản xuất được với chất lượng cao: chỉ may,
tấm bông hóa học làm lót áo lạnh, cúc, khóa... cần được trưng bày tại phòng đại
diện của ngành dệt may Việt Nam.
- Tìm hiểu và tiếp cận với hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng
nước và giúp doanh nghiệp tiếp cận với các nhà nhập khẩu trực tiếp.
- Với thị trường EU, Việt Nam sẽ có điều kiện sử dụng tốt hơn số hạn ngạch
công nghiệp (30% tổng hạn ngạch) bằng cách tiếp cận trực tiếp với khách hàng.
- Các đại diện thương mại, bên cạnh việc nghiên cứu thị trường nước ngoài,
còn có nhiệm vụ giúp doanh nghiệp trong nước tìm hiểu, tiếp cận các đối tác nước
ngoài, nâng cao hiệu quả của việc tham gia hội chợ triển lãm, các doanh nghiệp
cần có danh mục các đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu
sản phẩm, ký kết hợp đồng.
Một kinh nghiệm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Q uốc

hay Thái Lan là cử nhân viên tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp
với các Công ty nhập khẩu hàng dệt may. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ
lưỡng, tìm hiểu kỹ về hệ thống phân phối ở các nước nhập khẩu thông qua các
phòng thương mại, các đại diện thương mại và có một đội ngũ nhân viên tiếp thị
giàu kinh nghiệm. Phương pháp tiếp thị thứ hai cũng được nhiều doanh nghiệp sử
dụng là thuê nhân viên tiếp thị của các thị trường nhập khẩu dưới hình thức trả hoa
hồng theo hợp đồng mà họ đã ký được.
Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt kim với các chức năng: Thu thập,
phân tích và thông tin cho các doanh nghiệp thành viên về xu thế mới, kiểu dáng,
chất liệu vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thị trường thế
giới, tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư
vấn khác.
2.2.2. Tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp:
Xuất khẩu trực tiếp là biện pháp rất quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất
khẩu. Để nâng cap tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp cần:
2.2.2.1. Đảm bảo cung cấp nguyên phụ liệu:
Sản phẩm của ngành dệt phải đáp ứng được yêu cầu của ngành may, tạo lập
mối quan hệ qua lại mật thiết giữa dệt và may. Thành lập bộ phận chuyên trách
nắm bắt nhu cầu của ngành may để đặt hàng cho ngành dệt để ngành dệt có hướng
đầu tư và tổ chức sản xuất hợp lý.
Phát triển hệ thống Công ty sản xuất phụ liệu may trong nước. Ngay từ đầu
phải đầu tư công nghệ hiện đại, sản xuất ra các sản phẩm phù hợp với yêu cầu may
xuất khẩu.
Có chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước.
Quỹ thưởng xuất khẩu có 5% dành cho các doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu
sản xuất trong nước là một biện pháp tốt cho vấn đề này.
Kết hợp phát triển sản xuất phụ liệu trong nước với việc tranh thủ đàm phán
để giành quyền chủ động chọn nhà cung cấp phụ liệu cho sản phẩm may. Ước tính
phụ liệu chiếm từ 10 - 15%, có khi lên đến 25% giá thành sản phẩm may nên chủ
động và hạ chi phí về phụ liệu có thể đem lại hiệu quả đáng kể trong việc giảm giá

thành sản phẩm.
2.2.2.2. Tạo lập tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường quốc tế.
Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm Việt Nam phải được kinh doanh bằng nhãn
mác của mình trên thị trường quốc tế. Muốn vậy:
- Cần tập trung đầu tư cho công nghệ tiên tiến trong khâu thiết kế mẫu mã
của sản phẩm dệt.
- Tổ chức công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
Trước mắt có kế hoạch hợp tác với các Viện mốt, hoặc thuê chuyên gia thiết
kế mốt của nước ngoài để đẩy nhanh quá trình hòa nhập vào thị trường thế giới.
- Khắc phục những khó khăn về thiếu nguồn tài chính và nhân lực trong
khâu thiết kế mẫu, phát triển sản phẩm mới thông qua việc trao đổi bản quyền giữa
các Công ty và tranh thủ sự hỗ trợ của các nhà nhập khẩu cũng như đại diện của
các mạng lưới phân phối tại nước nhập khẩu.
- Khi chưa có tên tuổi trên thị trường thế giới thì cách tốt nhất để thâm nhập
thị trường trong giai đoạn đầu là mua bằng sáng chế, nhãn hiệu của các Công ty
nước ngoài để làm ra các sản phẩm với giá rẻ hơn, qua đó thâm nhập vào thị
trường thế giới bằng sản phẩm “sản xuất tại Việt Nam”, đồng thời học tập kinh
nghiệm, tiếp thu công nghệ để tiến tới tự thiết kế mẫu.
- Khai thác lợi thế của việc tham gia chương trình hợp tác công nghiệp
ASEAN (AICO) nhằm thu hút công nghệ cao của các nước ASEAN, hợp tác trong
phát triển sản phẩm mới, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và khai thác lợi thế về thuế
suất, thuế quan ưu đãi bằng mức thuế suất CEPT của sản phẩm thời điểm 2006
theo quy định của AICO cũng như các ưu đãi thuế quan khác.
Để tiến nhanh tiến trình triển khai chương trình hợp tác công nghiệp ASEAN
(AICO), các tổ chức, các cơ quan chức năng - Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp,
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam... cần tổ chức tuyên truyền rộng rãi
cho các doanh nghiệp về AICO cũng như có các hoạt động hỗ trợ các doanh nghiệp
dệt may như tìm đối tác ở các nước ASEAN khác hoặc khuyến khích tăng hàm
lượng nội địa sản phẩm, tăng tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu... để đáp ứng các tiêu chuẩn
tham gia AICO.

2.3.2.3. Tăng cường công tác đăng ký nhãn hiệu hàng hóa.
Ở nhiều nước, đăng ký nhãn hiệu hàng hóa của doanh nghiệp là điều kiện
bắt buộc. Hiện Việt Nam chủ yếu xuất khẩu qua các nước trung gian hoặc gia công
cho các nước khác. Để xuất khẩu trực tiếp, sản phẩm may Việt Nam cần khẳng
định vị trí trên thị trường thế giới bằng nhãn hiệu của mình. Tuy nhiên, đăng ký
nhãn hiệu hàng hóa phải chịu chi phí bởi có khi lên tới vài ngàn USD. Vì vậy, để
tiết kiệm chi phí, các doanh nghiệp có thể kết hợp với nhau để đăng ký một nhãn
hiệu xuất khẩu chung cho từng loại sản phẩm.
2.2.3. Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để
chuyển sang xuất khẩu trực tiếp.
Cần khẳng định rằng, trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công mặt hàng
may xuất khẩu là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất
yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ
“nội lực” để xuất khẩu trực tiếp.
Trong điều kiện hiện nay, khi khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế...
và đặc biệt là phối hợp các “công đoạn” này để cho ra đời một sản phẩm có sức

×