Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH Ở CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210.94 KB, 29 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM TIÊU
THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH Ở CÁC DOANH
NGHIỆP SẢN XUẤT.
1.1 SỰ CẦN THIẾT PHẢI TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM, TIÊU
THỤ THÀNH PHẨM VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH (KTTP - TTTP VÀ
XĐKQKD) Ở CÁC DN SẢN XUẤT.
Sản xuất ra của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội. Đời sống xã hội loài
người có nhiều mặt hoạt động khác nhau và có mối quan hệ với nhau như: chính
trị, văn hoá, tôn giáo, khoa học kỹ thuật.... Xã hội càng phát triển, các hoạt động
nói trên càng phong phú và phát triển ở trình độ cao hơn. Nhưng trong bất kỳ giai
đoạn phát triển nào của lịch sử, trước khi tiến hành các hoạt động đó loài người
phải sống, muốn sống phải có thức ăn, đồ mặc, nhà ở và những thứ cần thiết khác.
Để có những thứ đó cần phải tạo ra chúng, có nghĩa là phải sản xuất ra chúng. Hơn
thế nữa, không phải sản xuất một lần mà phải sản xuất không ngừng với quy mô
ngày càng mở rộng, đó là quá trình tái sản xuất xã hội.
Quá trình tái sản xuất xã hội bao gồm các khâu: sản xuất, phân phối, lưu thông
và tiêu dùng. Sản phẩm của xã hội vận động lần lượt qua các khâu từ sản xuất đến
tiêu dùng. Giữa các khâu của quá trình tái sản xuất có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Mỗi khâu giữ một vai trò nhất định, trong đó: sản xuất là khâu đầu tiên và là
khâu giữ vai trò quyết định còn tiêu dùng là khâu cuối cùng đồng thời là mục đích
của sản xuất. Xét về mặt vai trò và chức năng xã hội thì tiêu dùng là đơn đặt hàng
của sản xuất, thông qua đó xác định được cơ cấu, số lượng, chất lượng, chủng loại
mặt hàng cần sản xuất. Sản xuất phải căn cứ vào tiêu dùng, tiêu dùng là động lực
của sản xuất.
Như vậy tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của quá trình sản xuất kinh doanh,
hàng được tiêu thụ là đã thực hiện được giá trị và giá trị sử dụng của nó.
Tiêu thụ có vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân nói chung và
đối với bản thân doanh nghiệp nói riêng.
Đối với nền kinh tế quốc dân: Thực hiện tiêu thụ sản phẩm hàng hoá là tiền đề
cân đối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa tiền và hàng trong lưu thông, đặc biệt là
đảm bảo cân đối giữa các ngành, các khu vực trong nền kinh tế. Trong nền kinh tế


thị trường (khi mà sự phân công lao động, sự chuyên môn hoá diễn ra sâu sắc) các
DN không thể tồn tại và phát triển độc lập mà chúng luôn có mối quan hệ khăng
khít với nhau. Quá trình tiêu thụ sản phẩm tác động đến quan hệ cung cầu trên thị
trường một cách rõ rệt. Cung và cầu chỉ gặp nhau khi quá trình tiêu thụ sản phẩm
được tổ chức tốt.
Đối với bản thân DN: Sản phẩm được tiêu thụ thì DN mới có điều kiện bù đắp
toàn bộ chi phí đã chi ra, đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được diễn ra và duy trì
sự tồn tại của DN. Mặt khác, thông qua tiêu thụ sản phẩm DN mới có thể thực hiện
được giá trị lao động thặng dư, nghĩa là thu được lợi nhuận từ hoạt động kinh
doanh của mình.
LỢI NHUẬN = DOANH THU - CHI PHÍ
Từ ý nghĩa trên, đòi hỏi các DN phải áp dụng các biện pháp khác nhau để
quản lý quá trình sản xuất kinh doanh nói chung, quản lý thành phẩm, quá trình
tiêu thụ thành phẩm và kết quả kinh doanh nói riêng một cách khoa học, hợp lý,
đúng chế độ tài chính kế toán của Nhà nước. Kế toán là công cụ quản lý, vì vậy cần
thiết phải tổ chức công tác kế toán TP - TTTP và XĐKQKD ở DN.
1.1.1 Thành phẩm và yêu cầu quản lý thành phẩm (TP).
Sản phẩm của DN sản xuất ra bao gồm TP, nửa TP, lao vụ mà DN sản xuất ra
để phục vụ nhu cầu sản xuất hay tiêu dùng của xã hội. Trong đó TP chiếm tỷ trọng
lớn.
Thành phẩm là những sản phẩm đã kết thúc quá trình chế biến do các bộ phận
sản xuất chính và sản xuất phụ của DN sản xuất hoặc thuê ngoài gia công chế biến
xong đã được kiểm nghiệm phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật và nhập kho hoặc gửi
đi bán cho khách hàng.
Nửa thành phẩm là sản phẩm mới kết thúc một hay một số công đoạn trong
quy trình công nghệ sản xuất, chưa qua giai đoạn chế biến cuối cùng nhưng do yêu
cầu của sản xuất và tiêu thụ nó được nhập kho và khi bán cho khách hàng thì nửa
TP cũng có ý nghĩa như TP .
Tuy nhiên khái niệm nửa TP hay TP chỉ là khái niệm tương đối. Một loại sản
phẩm có thể là nửa TP đối với DN này nhưng nó lại là TP đối với DN khác, thậm

chí nó chỉ là nguyên vật liệu và ngược lại.
Thành phẩm là kết quả lao động sáng tạo của DN, nó thể hiện bộ mặt của DN.
Khối lượng của thành phẩm phản ánh quy mô của DN, chất lượng của TP tạo nên
uy tín và khả năng cạnh tranh của DN. Chính vì vậy công tác quản lý TP cần phải
được quan tâm trên cả 2 mặt khối lượng và chất lượng:
Về mặt khối lượng: Để quản lý được khối lượng đòi hỏi DN phải thường xuyên
phản ánh, giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch sản xuất, tình hình nhập - xuất - tồn
kho thành phẩm cả về mặt số lượng và giá trị từ đó phát hiện kịp thời hàng hoá ứ đọng
để có biện pháp giải quyết nhanh chóng. Đồng thời DN còn phải thường xuyên cải
tiến mẫu mã kiểu dáng phù hợp với sở thích của người tiêu dùng.
Về mặt chất lượng: Phải làm tốt công tác kiểm tra, phân cấp sản phẩm và có
chế độ bảo quản riêng đối với từng loại thành phẩm (Đặc biệt là TP dễ hư hỏng),
kịp thời phát hiện những mặt hàng kém phẩm chất. Đồng thời doanh nghiệp phải
đầu tư vào khoa học công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm, giá thành hạ, từ
đó tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Việc quản lý thành phẩm đòi hỏi phải đầy đủ, chính xác, kịp thời và khoa học.
Thường xuyên kế toán phải cung cấp thông tin về thành phẩm cho chủ DN từ đó
giúp chủ DN đề ra các quyết định ngắn hạn, các biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao
hiệu quả của công tác quản lý thành phẩm nói riêng và hiệu quả sản xuất kinh
doanh nói chung.
1.1.2 Tiêu thụ thành phẩm và yêu cầu quản lý tiêu thụ thành phẩm.
Tiêu thụ thành phẩm là quá trình đưa các loại thành phẩm mà DN đã sản xuất
ra vào lĩnh vực lưu thông để thực hiện giá trị của nó thông qua phương thức bán
hàng.
Bán hàng là việc chuyển quyền sở hữu về thành phẩm, hàng hoá, lao vụ, dịch
vụ cho khách hàng, DN thu được tiền hoặc được quyền thu tiền. Đó cũng chính là
quá trình vận động của vốn kinh doanh từ vốn thành phẩm, hàng hoá sang vốn
bằng tiền và hình thành kết quả. Bên cạnh quá trình tiêu thụ ra bên ngoài, trong DN
còn có thể phát sinh nghiệp vụ tiêu thụ nội bộ theo yêu cầu phân cấp quản lý và
tiêu dùng nội bộ.

Như chúng ta đã biết, việc tiêu thụ thành phẩm có ý nghĩa sống còn đối với
DN. Đòi hỏi DN phải quản lý chặt chẽ quá trình này. Quản lý quá trình tiêu thụ
thành phẩm là quản lý kế hoạch và tình hình thực hiện kế hoạch tiêu thụ đối với
từng thời kỳ, từng khách hàng, từng hợp đồng kinh tế, quản lý về mặt số lượng,
chất lượng mặt hàng tiêu thụ, giá bán, chi phí bán hàng, tình hình thanh toán của
khách hàng... Để thực hiện tốt yêu cầu quản lý công tác tiêu thụ thành phẩm mỗi
DN cần sắp xếp bố trí lực lượng lao động cho mạng lưới tiêu thụ một cách khoa
học và chuyên nghiệp. DN phải nghiên cứu nhu cầu tiêu dùng để đáp ứng một cách
tốt nhất để không những giữ được thị trường hiện có mà còn ngày một mở rộng thị
trường tiêu thụ thành phẩm, tăng thị phần.
1.1.3 Vai trò, nhiệm vụ của kế toán thành phẩm, tiêu thụ thành phẩm và
xác định kết quả kinh doanh.
Kế toán được coi là "Ngôn ngữ của kinh doanh", là công cụ phục vụ đắc lực
cho quản lý. Nếu KTTP- TTTP và XĐKQKD được tổ chức khoa học hợp lý thì sẽ
cung cấp thông kịp thời tin hữu ích cho các chủ DN trong việc ra quyết định lựa
chọn phương án sản xuất, tiêu thụ phù hợp với yêu cầu thị trường.
- Nó tạo điều kiện để duy trì và kích thích sản xuất phát triển, KTTP và TTTP
không những có vai trò quan trọng trong công tác hạch toán kế toán mà qua đó còn
phát hiện ra những thành phẩm luân chuyển chậm từ đó giúp chủ DN có những
biện pháp để khắc phục.
Để đạt được các mục tiêu trên thì kế toán TP - TTTP phải thực hiện được các
nhiệm vụ sau:
- Tổ chức theo dõi, phản ánh chính xác, đầy đủ, kịp thời và giám đốc chặt chẽ
tình hình hiện có và sự biến động của từng loại thành phẩm trên cả hai mặt hiện vật
và giá trị.
- Theo dõi, phản ánh và giám đốc chặt chẽ quá trình tiêu thụ, ghi chép kịp
thời, đầy đủ các khoản chi phí bán hàng, chi phí quản lý DN, doanh thu bán hàng
và các khoản thu nhập khác.
- Xác định chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Phản ánh và giám đốc tình hình phân phối kết quả, đôn đốc thực hiện nghĩa vụ với

Nhà nước.
- Lập các báo cáo nhằm cung cấp thông tin kinh tế cần thiết cho các bộ phận
có liên quan. Định kỳ tiến hành phân tích kinh tế đối với các hoạt động bán hàng,
thu nhập và phân phối kết quả.
1.2 TỔ CHỨC CÔNG TÁC KẾ TOÁN THÀNH PHẨM, TIÊU THỤ THÀNH PHẨM VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ KINH DOANH TRONG DN SẢN XUẤT.
1.2.1 Chứng từ và luân chuyển chứng từ.
Chứng từ là yếu tố quan trọng đầu tiên của bất kỳ phần hành kế toán nào. Nó
vừa là căn cứ pháp lý chứng minh cho các sự kiện kinh tế phát sinh, vừa là căn cứ
để ghi sổ kế toán.
Để quản lý thống nhất toàn bộ nền kinh tế, bộ tài chính đã ban hành mẫu biểu
của hệ thống các chứng từ, hướng dẫn ghi chép ban đầu đồng thời quy định rõ
trách nhiệm cho những người có liên quan về mức độ trung thực của thông tin của
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh được phản ánh trên chứng từ, nhằm ngăn chặn các
biểu hiện làm sai lạc thông tin, vi phạm chế độ, bòn rút, tham ô, lãng phí tài sản. Ở
mỗi DN thì việc tổ chức hệ thống chứng từ có khác nhau, tuy nhiên phải tuân thủ
đúng những quy định mà bộ tài chính ban hành.
* Các chứng từ ban đầu để phản ánh các nghiệp vụ về tình hình nhập xuất
thành phẩm có thể bao gồm:
- Phiếu nhập kho.
- Phiếu xuất kho.
- Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ.
- Và một số chứng từ khác như: Biên bản kiểm kê, hoá đơn cước vận chuyển,...
* Các chứng từ làm căn cứ hạch toán các nghiệp vụ tiêu thụ thành phẩm có thể
bao gồm:
- Hoá đơn bán hàng.
- Hoá đơn giá trị gia tăng.
- Phiếu thu, giấy báo có của ngân hàng...
Việc hạch toán ban đầu trên các chứng từ thường do các nhân viên nghiệp vụ ở
từng bộ phận thực hiện. Đối với các chứng từ liên quan đến quá trình hạch toán

thành phẩm, doanh thu có thể do các nhân viên kinh tế ở các xưởng sản xuất hoặc do
phòng kế hoạch thực hiện. Song việc ghi chép các nghiệp vụ này phải đạt được yêu
cầu chính xác, đầy đủ và đúng chế độ quy định của nhà nước. Nhất là trong điều
kiện sử dụng máy vi tính (MVT) thì do MVT chỉ xử lý thông tin theo một chương
trình đã định sẵn. MVT là công cụ giúp cho công việc của kế toán được đơn giản,
nhanh chóng và chính xác hơn, MVT không có chức năng phân tích, phát hiện và
sửa chữa những sai sót của con người. Việc ảnh hưởng của thông tin là theo cả một
dây chuyền nên thông tin khi nhập từ chứng từ vào máy phải đảm bảo tính chính
xác, đầy đủ và tính pháp lý theo chế độ hiện hành. Muốn vậy, đòi hỏi chứng từ gốc
phải được kiểm tra trước khi nhập dữ liệu vào MVT.
* Tổ chức luân chuyển chứng từ và bảo quản lưu giữ chứng từ.
- Luân chuyển chứng từ: Là đường đi của chứng từ được xác định đến các
bộ phận để thông báo những thông tin về các hoạt động kinh tế tài chính được phản
ánh trên các chứng từ kế toán.
Việc luân chuyển chứng từ một cách khoa học, hợp lý là rất cần thiết đối với
mọi DN. Trình tự luân chuyển chứng từ cần đảm bảo tính hợp lý và dễ kiểm tra,
đối chiếu giữa các bộ phận có liên quan, tạo điều kiện cho việc kiểm tra lẫn nhau
nhằm phát hiện những sai sót và tránh được những gian lận.
- Tổ chức bảo quản chứng từ: Như chúng ta đã biết, chứng từ là cơ sở pháp
lý chứng minh nghiệp vụ kế toán đã xảy ra. Do đó việc bảo quản chứng từ đảm bảo
cho chứng từ không bị mất mát, hư hỏng là rất quan trọng đối với DN.
1.2.2 Mã hoá các đối tượng quản lý.
Một trong những công việc đầu tiên khi áp dụng MVT vào công tác kế toán
là phải mã hoá các đối tượng quản lý theo ngôn ngữ của máy tính và phải dựa trên
nguyên tắc của máy tính.
Mã hoá là cách thức thực hiện việc phân loại, gắn ký hiệu, xếp lớp các đối
tượng cần quản lý. Mã hoá được sử dụng trong tất cả các hệ thống thông tin, đặc
biệt là thông tin kế toán. Mã hoá các đối tượng cần quản lý cho phép nhận diện,
tìm kiếm một cách nhanh chóng, không nhầm lẫn các đối tựơng trong quá trình xử
lý thông tin tự động, mặt khác cho phép tăng tốc độ xử lý, độ chính xác, giảm thời

gian nhập liệu và tiết kiệm bộ nhớ.
Để đạt được điều đó, khi tiến hành mã hoá các đối tượng cần quản lý phải
đảm bảo mã hoá đầy đủ, đồng bộ, có hệ thống cho tất cả các đối tượng cần quản lý,
đảm bảo tính thống nhất và nhất quán, phù hợp với chế độ kế toán hiện hành, phần
mềm kế toán và phần mềm quản trị dữ liệu.
Có nhiều cách để mã hoá một chương trình như: Dùng bộ chữ cái để mã hoá,
dùng bộ số đếm để mã hoá hoặc kết hợp cả hai.
Việc xác định đối tượng cần mã hoá là hoàn toàn phụ thuộc và yêu cầu quản
trị của DN. Trong công tác kế toán TP-TTTP và XĐKQKD thông thường có các
đối tượng cần mã hoá theo các danh mục sau:
- Danh mục thành phẩm.
- Danh mục kho.
- Danh mục chứng từ.
- Danh mục đơn vị khách hàng.
- Danh mục doanh thu
Trong đó danh mục thành phẩm có thể mã hoá theo từng loại thành phẩm, theo
từng đặc điểm thành phẩm hoặc theo từng loại doanh thu thành phẩm.
Việc xác định hệ thống các đối tượng cần quản lý để thực hiện mã hoá là điều
kiện bắt buộc đối với mỗi DN khi áp dụng kế toán trên MVT.
1.2.3. Vận dụng hệ thống tài khoản kế toán thống nhất.
Hệ thống Tài khoản kế toán do Bộ Tài Chính ban hành theo quyết định số
1141/TC/QĐ/CĐKT ngày 01/11/1995 và các thông tư bổ sung, được quy định sử
dụng thống nhất cho tất cả các DN thuộc mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế trong
nền kinh tế quốc dân. Song nó mới chỉ phục vụ cho việc ghi chép kế toán tài chính,
đáp ứng yêu cầu quản lý vĩ mô, kiểm tra ghi chép tài chính kế toán trên các tài khoản
cấp I, cấp II. Vì vậy trong quá trình tổ chức công tác kế toán nói chung, kế toán máy
nói riêng, ngoài việc sử dụng các TK cấp I, cấp II theo đúng nội dung, phương pháp
ghi chép đã được quy định trong chế độ hiện hành, các DN cần phải căn cứ vào yêu
cầu quản trị của mình, yêu cầu quản lý vật tư, tài sản, công nợ và căn cứ vào trình độ
quản lý của DN để xây dựng hệ thống tài khoản kế toán chi tiết cấp III, cấp IV, cấp

V, ...cho từng đối tượng cần quản lý chi tiết cho phù hợp.
Đối với KTTP - TTTP và XĐKQKD có thể mở kế toán chi tiết theo từng địa
điểm quản lý hoặc từng loại thành phẩm. Doanh nghiệp có thể áp dụng phương
pháp kê khai thường xuyên hoặc phương pháp kiểm kê định kỳ để kế toán tổng
hợp thành phẩm. Với việc áp dụng kế toán máy thì phương pháp kê khai thường
xuyên sử dụng phù hợp hơn, cho phép DN quản lý thành phẩm một cách liên tục,
giúp DN lập được kế hoạch sản xuất và tiêu thụ một cách chủ động.
Tuỳ theo yêu cầu của công tác quản lý, công tác kế toán mà xây dựng hệ thống
mã hoá các đối tượng cần quản lý của DN phục vụ cho yêu cầu của Kế toán áp
dụng MVT. Một hệ thống tài khoản được xây dựng hợp lý sẽ đảm bảo cho việc
quản lý, xử lý, cung cấp thông tin kinh tế trong đơn vị được thuận tiện, nhanh
chóng, chính xác, tránh được việc ghi chép trùng lặp và thuận lợi cho hiện đại hoá
công tác quản lý.
1.2.4. Tổ chức công tác kế toán thành phẩm.
1.2.4.1. Đánh giá thành phẩm.
Đánh giá thành phẩm là việc biểu hiện giá trị của các loại thành phẩm ra thành
tiền theo những nguyên tắc nhất định.
Khi đánh giá thành phẩm, DN phải tôn trọng nguyên tắc giá phí (Giá gốc).
- Đối với thành phẩm nhập kho.
+ Thành phẩm do DN sản xuất ra: Được đánh giá theo giá gốc bao gồm: Chi
phí mua, chi phí chế biến và các chi phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để có
được thành phẩm tồn kho ở địa điểm và trạng thái hiện tại.
Trong đó:
. Chi phí mua bao gồm giá mua, các loại thuế không được hoàn lại, chi phí vận
chuyển, bốc xếp, bảo quản trong quá trình mua hàng và các chi phí khác có liên
quan trực tiếp đến việc mua NVL sử dụng để sản xuất thành phẩm. Các khoản
chiết khấu thương mại và giảm giá hàng mua do hàng mua không đúng quy cách,
phẩm chất được trừ khỏi chi phí mua.
. Chi phí chế biến thành phẩm bao gồm những chi phí có liên quan trực tiếp
đến sản phẩm sản xuất, như chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung cố

định và chi phí sản xuất chung biến đổi phát sinh trong quá trình chuyển hoá
nguyên liệu, vật liệu thành thành phẩm.
Chi phí sản xuất chung cố định là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường
không thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất, như chi phí khấu hao, chi phí bảo
dưỡng máy móc thiết bị, nhà xưởng,... và chi phí quản lý hành chính ở các phân
xưởng sản xuất.
Chi phí sản xuất chung biến đổi là những chi phí sản xuất gián tiếp, thường
thay đổi theo số lượng sản phẩm sản xuất, như chi phí nguyên liệu, vật liệu gián
tiếp, chi phí nhân công gián tiếp.
. Chi phí liên quan trực tiếp khác tính vào giá gốc của thành phẩm bao gồm
các khoản chi phí khác ngoài chi phí mua và chi phí chế biến thành phẩm, như chi
phí thiết kế thành phẩm cho một đơn đặt hàng cụ thể,...
Giá thành sản
xuất thực tế
=
Chi phí sản xuất
dở dang đầu kỳ
+
Chi phí sản xuất
phát sinh trong kỳ
-
Chi phí sản xuất
dở dang cuối kỳ
+ Thành phẩm thuê ngoài gia công: được đánh giá theo giá thành thực tế gia
công bao gồm: CFNVLTT xuất gia công, chi phí thuê ngoài gia công chế biến và
các chi phí khác liên quan trực tiếp đến thành phẩm thuê ngoài gia công như: chi
phí vận chuyển,...
- Đối với thành phẩm xuất kho:
Để tính trị giá vốn thực tế của thành phẩm xuất kho có các phương pháp sau:
+ Phương pháp đích danh.

Phương pháp này áp dụng đối với các doanh nghiệp có ít mặt hàng hoặc mặt
hàng ổn định và nhận diện được. Theo phương pháp này thì thành phẩm xuất thuộc
lô thành phẩm nào thì căn cứ vào số lượng xuất kho và đơn giá nhập kho thực tế
của lô thành phẩm đó để tính trị giá thực tế xuất kho.
Phương pháp này có ưu điểm là thể hiện được thực tế sự tương xứng phù
hợp giữa doanh thu và chi phí của thành phẩm bán ra, song đòi hỏi DN phải quản
lý theo dõi thành phẩm theo từng lô hàng và kết quả tính được không mang lại
thông tin bổ ích cho việc ra quyết định kinh doanh.
+Phương pháp bình quân gia quyền.
Theo phương pháp này trị giá từng loại hàng tồn kho được tính theo giá trị
trung bình của từng loại tương tự đầu kỳ và giá trị từng loại hàng tồn kho sản xuất
trong kỳ. Giá trị trung bình có thể được tính theo thời kỳ (bình quân cố định) hoặc
trước mỗi lần xuất (bình quân liên hoàn), phụ thuộc vào tình hình của DN.
Trị giá thực tế của thành
phẩm xuất kho trong kỳ
=
Số lượng thành phẩm
xuất kho trong kỳ
*
Đơn giá bình quân
của thành phẩm xuất
Phương pháp tính đơn giá bình quân gia quyền cố định (vào cuối kì) che đậy
sự biến động của giá. Đôi khi kết quả sản xuất kinh doanh tính được dựa vào trị giá
vốn thành phẩm xuất kho theo phương pháp này sẽ phản ánh không đúng thực
trạng sản xuất kinh doanh với giá cả hiện hành.
Nếu tính theo phương pháp đơn giá bình quân gia quyền liên hoàn thì sẽ xát
với sự vận động của thành phẩm đồng thời cũng giảm bớt sự che đậy về biến động
giá cả trên thị trường. Tuy nhiên khối lượng tính toán nhiều và phức tạp.
+ Phương pháp nhập trước xuất trước.
Theo phương pháp này thì trị giá hàng xuất kho được tính theo giá trị của lô

hàng nhập kho ở thời điểm đầu kỳ hoặc gần đầu kỳ, trị giá của hàng tồn được tính
theo giá của hàng nhập kho ở thời điểm cuối kỳ hoặc gần cuối kỳ còn tồn.

×