Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Luận văn thạc sĩ vai trò của phật giáo trong văn hóa huế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (721.06 KB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------*****-----------

VÕ QUỐC ĐỨC

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA HUẾ

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÂU Á HỌC

Hà Nội – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------*****-----------

VÕ QUỐC ĐỨC

VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA HUẾ

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Châu Á học
Mã số: 60 31 06 01

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TS. Mai Ngọc Chừ

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:


- Luận văn Thạc sĩ này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của người hướng dẫn khoa học, chưa từng được cơng bố trong các cơng
trình của ai khác.
- Luận văn đã tiến hành nghiên cứu một cách nghiêm túc, cầu thị.
- Kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác đã được tiếp thu một
cách chân thực, cẩn trọng, có trích dẫn nguồn cụ thể trong luận văn.
Tác giả luận văn

Võ Quốc Đức


LỜI CẢM ƠN
Tơi xin bày tỏ lịng tri ân tới GS.TS. Mai Ngọc Chừ , người hướng dẫn
khoa học đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo khơng chỉ trong giới hạn nghiên
cứu của đề tài luận văn, mà còn trong nhiều vấn đề khoa học khác.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban lãnh đạo Trường Đại Học Khoa Học
Xã Hội Và Nhân Văn, quý thầy cô giáo trong khoa Đông phương học, thầy
Bổn sư cùng chư tôn đức, huynh đệ, các thầy cô, bạn bè đã tạo điều kiện
thuận lợi và động viên khích lệ trong suốt thời gian tơi học tập và hồn thành
luận văn.
Tác giả luận văn cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thành viên trong các
Hội đồng đánh giá luận văn, bởi những góp ý của Hội đồng sẽ giúp tác giả
luận văn có những tiến bộ trên con đường học tập và nghiên cứu.
Tác giả luận văn

Võ Quốc Đức


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................... 3

1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................... 3
2. Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài................................................................. 4
3. Lịch sử vấn đề .................................................................................................................... 5
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................................................... 7
5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................................... 8
6. Đóng góp của luận văn ...................................................................................................... 8
7. Câu trúc luận văn ............................................................................................................... 8
NỘI DUNG ........................................................................................................................... 9
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ SỰ DU NHẬP PHẬT GIÁO VÀO VIỆT NAM VÀ
TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO VÀO HUẾ ............................................................................. 9
1.1. Phật giáo và sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam ............................................... 9
1.1.1. Sự hình thành Phật giáo............................................................................................... 9
1.1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam .......................................................................... 11
1.1.3. Các thiền phái Phật giáo ở Việt Nam. ....................................................................... 12
1.2. Phật giáo ứ Hu - quá tr nh du nhập và những đặc điểm ..................................... 15
1.2.1. Từ Ô Châu Ơ Rí đến Thuận Hóa-Phú Xn- Huế ..................................................... 15
1.2.2. Thuận Hóa buổi đầu và q trình du nhập Phật giáo ............................................... 16
1.2.3. Các dịng thiền có mặt tại Thuận Hóa ....................................................................... 18
Tiểu kết ................................................................................................................................ 22
CHƢƠNG 2: VAI TRỊ CỦA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA VẬT CHẤT XỨ
HUẾ ..................................................................................................................................... 23
2.1. Vai trò Phật giáo trong các mộc bản ở Hu ............................................................. 23
2.1.1. Mộc bản và giá trị lịch sử .......................................................................................... 23
2.1.2. Mộc bản Phật giáo tại Huế ........................................................................................ 25
2.1.3. Ý nghĩa và giá trị mộc bản Phật giáo Huế................................................................. 28
2.2. Vai trò Phật giáo trong các ki n trúc chùa tháp ứ Hu ........................................ 30
2.2.1. Kiến trúc chùa tháp Phật giáo ................................................................................... 30
2.2.2. Kiến trúc chùa tháp Phật giáo xứ Huế ...................................................................... 33
2.2.3. Giá trị chùa Huế ........................................................................................................ 35


1


2.3. Vai trị Phật giáo trong văn hóa ẩm thực ngƣời Hu .............................................. 36
2.3.1. Quan điểm của Phật giáo về ẩm thực ........................................................................ 36
2.3.2. Văn hóa ẩm thực chay của Thiền mơn xứ Huế .......................................................... 38
2.3.3. Văn hóa ẩm thực chay của Phật tử tại gia và người dân Huế ................................... 40
Tiểu kết ................................................................................................................................ 43
CHƢƠNG 3: VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO TRONG VĂN HÓA TINH THẦN CỦA
NGƢỜI DÂN XỨ HUẾ ..................................................................................................... 44
3.1. Vai trò Phật giáo trong nghi lễ tâm linh ngƣời Hu ................................................ 44
3.1.1. Quan điểm và quy cách thờ cúng của người Huế ...................................................... 44
3.1.2. Sự ảnh hưởng tương hỗ của Phật giáo đối với tín ngưỡng tâm linh của người Huế 46
3.2. Vai trò Phật giáo trong các lễ hội xứ Hu ................................................................. 49
3.2.1. Các lễ hội Phật giáo Huế trở thành lễ hội chung của xứ Huế................................... 49
3.2.2. Ảnh hưởng Phật giáo trong một số lễ hội khác ở Huế .............................................. 53
3.3. Vai trò Phật giáo trong văn hóa lối sống người xứ Huế ............................................... 56
3.3.1. Ứng xử với thiên nhiên............................................................................................... 57
3.3.2. Ứng xử giữa con người với con người ....................................................................... 60
Tiểu kết ................................................................................................................................ 63
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 64
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 67
PHỤ LỤC............................................................................................................................ 73

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Huế là mảnh đất nằm ở miền Trung Việt Nam, lưng dựa vào dãy

Trường Sơn hùng vĩ, mặt hướng ra biển Đông mênh mông. Địa giới phía Bắc
giáp với tỉnh Quảng Trị ở sơng Ô Lâu, phía Nam giáp Thành phố Đà Nẵng ở
núi Hải Vân. Với lịch sử hình thành và phát triển hơn 700 năm, Huế đã tích tụ
cho mình một nền văn hóa sâu đậm và đặc trưng.
Huế là kinh đơ của triều đại nhà Nguyễn - chế độ phong kiến cuối cùng
của Việt Nam nên những giá trị vật chất và tinh thần của Phong kiến vẫn hiện
diện. Hệ thống cung đình hồng thành, hệ thống lăng tẩm của vua chúa, hệ
thống chùa chiền xưa cổ… cùng với những khung hệ giá trị văn hóa tinh thần
đã làm nên diện mạo một vùng đất kinh kỳ đậm đà bản sắc. Văn hóa xứ Huế
trở thành di sản chung của nhân loại. Huế là thành phố có 5 danh hiệu
UNESCO ở Việt Nam: Quần thể Di tích Cố đơ Huế vào năm 1993; Nhã nhạc
cung đình Huế vào năm 2003; Mộc bản triều Nguyễn vào năm 2009; Châu
bản triều Nguyễn vào năm 2014 và Hệ thống thơ văn trên kiến trúc cung đình
Huế vào năm 2016.
Đồng hành cùng với việc hình thành và phát triển vùng đất này, Phật
giáo đã có đóng góp rất nhiều làm nên giá trị văn hóa của xứ Huế. Ngay từ thời
còn thuộc đất Chăm, xứ này đã có Phật giáo của Chăm. Đến khi lưu dân Việt
vào khai hoang lập làng, rồi chúa Nguyễn cát cứ xây dựng chính quyền riêng
biệt cho đến khi trở thành kinh đô của triều Nguyễn, Phật giáo luôn luôn được
ưu tiên phát triển, là nền tảng tư tưởng bản lề cho kế sách phát triển đất nước.
Huế không những là nơi địa linh phát xuất nhân kiệt mà còn là nơi lưu
dấu ấn Phật giáo từ thế kỷ 14 cho đến nay. Nếu văn hóa được định nghĩa như
là đỉnh cao của những thành tựu cả về đời sống vật chất lẫn tinh thần, thì Phật
giáo khởi sinh và hội tụ trên đất Huế chính là suối nguồn đóng góp những
thành tựu của văn hóa Huế.

3


Từ buổi đầu du nhập, Phật Giáo đã nhanh chóng hịa mình vào tín

ngưỡng dân gian, lan rộng và ảnh hưởng sâu xa trong mọi tầng lớp, từ thành thị
đến làng quê, từ tầng lớp nông phu cho đến hàng quý tộc. Dù là lúc rực rỡ huy
hoàng hay là lúc ngã nghiêng suy yếu, Phật giáo Huế vẫn luôn sánh bước kề
vai đi cùng phát triển xã hội và văn hóa miền đất xứ Huế, là bộ phận văn hóa
bất khả phân ly của nền “văn hóa Huế”. Nó đã trở thành sức mạnh tâm linh để
bảo vệ, che chở, phụng sự cho nhiều thế hệ. Cũng chính nhờ sự hài hòa vững
chắc giữa đạo pháp và dân tộc mà ngày nay, Huế được xem là nơi cổ kính với
bao thuần phong mỹ tục. Do vậy nói đến Huế người ta thường nói là “vùng đất
Phật”, “xứ sở của những ngơi chùa”, chính bởi sự hiện diện mật tập của số
lượng lớn chùa chiền trên một diện tích khiêm tốn. Người Huế khi sinh ra đã
sớm tập quen với tiếng chuông chùa, với câu kinh tiếng kệ, một ngày hai buổi
công phu sớm chiều. Tiếng chuông âm vang nơi thâm sơn cùng cốc, vọng
xuống dịng sơng, đi sâu vào lòng mỗi người, xua đuổi mọi tạp niệm.
Thiết nghĩ, bản thân là người gốc xứ Huế cũng là người xuất gia theo
Phật giáo. Trong quá trình sinh sống và tu học tại Huế, bản thân cảm nhận
Phật giáo ảnh hưởng rất sâu đậm đến văn hóa xứ Huế. Phật giáo đóng vai trị
quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Huế. Con người xứ Huế
sống ung dung, bình đạm, trầm lặng nhưng hiền hòa và đời sống nội tâm rất
phong phú. Phong cách này có phần do mơi trường, thổ nhưỡng, khí hậu
nhưng một phần lớn là ảnh hưởng Phật giáo.Với mong muốn đóng góp một
phần nhỏ bé của mình vào việc tơn vinh văn hóa Phật giáo Huế, người viết đã
chọn đề tài Vai trò của Phật giáo trong văn hóa Huế làm đề tài nghiên cứu
cho Luận văn thạc sĩ của mình.
2. Giá trị khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ giá trị của
Phật giáo trong văn hóa Việt Nam. Một cách trực tiếp, đề tài góp phần xây
dựng cơ sở đánh giá vai trị của Phật giáo trong văn hóa xứ Huế.

4



Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là tư liệu tham khảo
hữu ích, giúp bạn đọc hiểu rõ hơn về Phật giáo và vai trò của Phật giáo đối
với con người xứ Huế.
3. Lịch sử vấn đề
Phật giáo và văn hóa Phật giáo là thành tố có ảnh hưởng sâu đậm trong
văn hóa Việt Nam nói chung và văn hóa Huế nói riêng. Việc nghiên cứu Phật
giáo Huế cũng như văn hóa Phật giáo Huế là chủ đề của nhiều chuyên luận,
bài nghiên cứu công phu từ trước đến nay.
Trước hết là vấn đề nghiên cứu văn hóa Huế. Huế có một nền văn hóa
đa dạng và nhiều đặc trưng nên đã thu hút rất nhiều các nhà nghiên cứu văn
hóa quan tâm và tìm hiểu. Chẳng hạn những cơng trình của Nguyễn Đắc
Xn với Văn hóa cố đơ, Nxb Thuận Hóa năm 1997; Hồ Vĩnh với Dấu tích
văn hóa thời Nguyễn, Nxb Thuận Hóa năm 1998… Đặc biệt các nhà nghiên
cứu người Huế như Phan Thuận An, Nguyễn Hữu Thông, Trần Đức Anh Sơn,
Trần Đại Vinh, Trần Đình Hằng, Hồng Ngọc Vĩnh với hàng loạt cơng trình
đồ sộ. Ở đây chúng tơi nghiên cứu Phật giáo ảnh hưởng đến văn hóa Huế nên
sẽ quan tâm các cơng trình liên quan đến Phật giáo và văn hóa Phật giáo.
Đầu tiên có thể kể đến cơng trình tiêu biểu như Lịch sử Phật giáo Đàng
Trong của Nguyễn Hiền Đức do Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh phát
hành năm 1995, trình bày về q trình du nhập, hình thành và phát triển của
Phật giáo vào Đàng Trong Việt Nam.
Chi tiết hơn về Phật giáo xứ Huế có cuốn Lịch sử Phật giáo xứ Huế của
Thích Hải Ấn – Hà Xuân Liêm, Nxb Văn hóa Sài Gòn, 2006; Những chùa
tháp Phật giáo ở Huế của Hà Xn Liêm, Nxb Văn hóa thơng tin, 2007; Chư
tơn thiền đức Phật giáo Thuận Hóa của Thích Trung Hậu- Thích Hải Ấn, Nxb
Văn Hóa Sài Gịn, 2010… đã khái qt quá trình du nhập và phát triển của
Phật giáo xứ Huế. Các tác giả phân tích và khẳng định những giá trị nổi bật

5



cùng sự phát triển của Phật giáo xứ Huế cũng như những ảnh hưởng đến đời
sống tâm linh người dân xứ Huế.
Liên quan đến việc nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống
của người dân Huế cũng như những đặc trưng của Phật giáo Huế đã có các
Luận văn của Tăng Ni sinh viên tại Học viện Phật giáo như tác giả Thích Nữ
Từ Tịnh làm đề tài “Những nét đặc trưng của Phật giáo Huế” vào năm 2005;
Thích Nữ Liên Minh với đề tài “Ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời sống
người dân xứ Huế” vào năm 2001; Thích Nữ Nguyên Hải với đề tài Một vài
nét đẹp trong lịch sử Phật giáo Thuận Hóa năm 2001; Thích Thiện Trì với đề
tài “Ảnh hưởng của văn hóa Phật giáo qua các lễ hội xứ Huế” năm 2009…
Tuy nhiên những cơng trình này chưa đi sâu phân tích một cách tồn diện và
hệ thống sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với văn hóa Huế.
Từ góc độ ảnh hưởng của Phật giáo đến kiến trúc xứ Huế có thể thấy
những cơng trình của Nguyễn Hữu Thơng với tựa đề Mỹ thuật Huế nhìn từ
góc độ ý nghĩa và biểu tượng trang trí, Nxb Thuận Hóa 2001; cơng trình của
Phan Thuận An có tựa đề Kiến trúc cố đô Huế, Nxb Đà Nẵng 2006 … đã chỉ
ra những nét đặc trưng của kiến trúc xứ Huế, đặc biệt chỉ ra được những ảnh
hưởng tương quan giữa kiến trúc Huế với kiến trúc Phật giáo Huế. Bên cạnh
đó cịn nhiều bài viết liên quan trực tiếp đến kiến trúc chùa Huế được tuyển
đăng trên Tạp chí Liễu Quán số 15 tháng 8/2018 như “Chùa Huế trong nguồn
mạch đời sống văn hóa-tâm linh xứ Huế” của Nguyễn Hữu Thơng-Lê Thọ
Quốc; “Đặc trưng biểu tượng trang trí tại các ngơi chùa Huế” của Đặng Vinh
Dự; “Kiến trúc chùa Huế-giá trị của một di sản giữa lòng thành phố di sản của
Nguyễn Phước Bảo Đàn; “Một vài đặc điểm vườn chùa Huế truyền thống”
của Lê Anh Tuấn; “Kiến trúc, cảnh qua chùa làng vùng Thuận Hóa: Khảo sát
chùa Giác Lương” của Lê Đình Hùng – Nguyễn Thăng Long; “Đặc trưng kiến
trúc chùa Khuôn hội ở Huế” của Lê Thị Như Khuê…


6


Nghiên cứu về mộc bản Phật giáo Huế vẫn còn là mảng đất hiếm người
tìm. Người khởi đầu cho việc nghiên cứu mộc bản Phật giáo Huế chính là chủ
trương của ban văn hóa Phật giáo tỉnh Thừa Thiên Huế. Những kết quả bước
đầu được cơng bố trên Tạp chí Liễu Quán số 6 tháng 8/2015. Trong đó có các
bài nổi bật như “Bước đầu khảo sát di sản mộc bản Phật giáo Huế” của Thích
Khơng Nhiên; “Mộc bản kinh Phật từ thời chúa Nguyễn đến đầu triều Gia
Long” của Võ Vinh Quang-Đỗ Minh Điền…
Nghiên cứu ảnh hưởng của Phật giáo trong ẩm thực Huế phải kể đến
cơng trình của Bùi Minh Đức với tựa đề Văn hóa ẩm thực Huế, Nxb Văn hóa
văn nghệ năm 2011. Đây là cơng trình giá trị đã đánh giá những nét đặc trưng
của ẩm thực xứ Huế. Trong cơng trình này, tác giả đã đề cập đến ẩm thực
chay, một nét đặc sắc của ẩm thực Huế.
Đa số các cơng trình nghiên cứu văn hóa Huế đều có đề cập đến sự ảnh
hưởng của Phật giáo. Phật giáo như một tiền đề, một bản lề quan trọng trong
việc sinh thành, giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa vật chất cũng như tinh
thần xứ Huế. Tuy nhiên các cơng trình nói trên vẫn chưa chỉ ra những biểu
hiện của sự ảnh hưởng Phật giáo trong các giá trị văn hóa Huế một cách chi
tiết. Tất cả các cơng trình kể trên vẫn chỉ là những cơng trình nổi bật mà
chúng tơi tiếp cận được, ngồi ra cịn nhiều cơng trình giá trị khác chúng tơi
vẫn chưa có cơ hội để tìm hiểu. Song với những thành tựu như vừa nêu là rất
đáng quý, tất cả là chỗ dựa, là những gợi ý quan trọng để chúng tôi suy nghĩ,
tiếp thu và triển khai nội dung, ý tưởng khi thực hiện đề tài.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Vai trị của Phật giáo trong văn hóa
Phạm vi khơng gian nghiên cứu: Giới hạn trong thành phố Huế.
Phạm vi thời gian: Từ khi Phật giáo xuất hiện ở Huế cho đến nay


7


5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này được thực hiện dựa trên sự phối hợp của nhiều phương pháp
nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu. Phương pháp này được thực hiện
bằng việc thu thập thông tin từ thư viện, hiệu sách, v.v.
- Phương pháp tổng hợp và phân tích tài liệu, tư liệu thu thập được.
- Phương pháp logic và lịch sử: Tìm hiểu tiến trình lịch sử Phật giáo
truyền vào Huế.
- Cách tiếp cận liên ngành: Văn hóa học, sử học...
6. Đóng góp của luận văn
Thực hiện đề tài này chúng tơi mong muốn góp phần tìm hiểu sự du
nhập và thấm sâu của Phật giáo trong đời sống cư dân Huế. Từ đó tìm hiểu
vai trị của Phật giáo trong việc tạo thành văn hóa xứ Huế gồm văn hóa vật
chất và văn hóa tinh thần. Qua việc phân tích hai khía cạnh văn hóa vật chất
và văn hóa tinh thần trong đời sống cư dân Huế luận văn sẽ xác lập hệ giá trị
đóng góp của Phật giáo.
Luận văn còn khẳng định thêm giá trị văn hóa Huế, góp phần tạo nên
giá trị văn hóa của Việt Nam.
Luận văn sẽ là tư liệu cho các chuyên ngành liên quan đến văn hóa Việt
Nam, lịch sử và Phật giáo Việt Nam tham khảo.
7. Câu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, Nội dung chính
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam và truyền
bá Phật giáo vào Huế
Chương 2: Vai trò của Phật giáo trong văn hóa vật chất xứ Huế
Chương 3: Vai trị của Phật giáo trong văn hóa tinh thần của người dân

xứ Huế.

8


NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ SỰ DU NHẬP PHẬT GIÁO
VÀO VIỆT NAM VÀ TRUYỀN BÁ PHẬT GIÁO VÀO HUẾ
1.1. Phật giáo và sự du nhập của Phật giáo vào Việt Nam
1.1.1. Sự hình thành Phật giáo
Phật giáo là một hệ thống tư tưởng triết lý hình thành ở Ấn Độ do đức
Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập vào năm 533 trước Tây Lịch. Ngay từ khi ra
đời, Phật giáo đã ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tư tưởng văn hóa Ấn Độ.
Với quan điểm bình đẳng và khả năng thành Phật, Đức Phật đã xóa bỏ sự
phân chia giai cấp - một điều cố hữu của Ấn Độ phục vụ quyền lợi của một
thành phần xã hội. Phật giáo nhanh chóng lan truyền ra các nước xung quanh
và toàn thế giới.
Bài thuyết pháp đầu tiên của đức Phật là Tứ diệu đế (bốn chân lý vi
diệu) gồm: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế và Đạo đế. Với bài thuyết pháp này, Đức
Phật dạy cho chúng sanh thấy rõ được nỗi khổ của cuộc đời, nguyên nhân của
nỗi khổ, quả vị giải thoát và con đường đưa đến giải thốt. Những tư tưởng
khác cịn được trình bày trong Thập Nhị nhân duyên, Bát Chánh đạo, Nhân
quả, Tánh Không, Sắc Danh…
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, Phật giáo chia thành hai bộ phái là
Đại thừa (cổ xe lớn - chở được nhiều người) và Tiểu thừa (cổ xe nhỏ - chở
được ít người). Hai bộ phái này truyền đi theo hai hướng, Đại thừa theo
hướng Bắc gọi là Bắc tông, phổ biến ở các nước Trung Quốc, Triều Tiên,
Nhật Bản; Tiểu thừa theo hướng Nam gọi là Nam Tông, phổ biến ở các nước
Srilanka, Lào, Thái, Campuchia…
Hệ thống tư tưởng triết lý của Phật giáo gói gọn trong Tam tạng Kinh

điển gồm Kinh, Luật và Luận. Tạng Kinh ghi lại lời thuyết pháp, lời dạy của
Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đối với chúng đệ tử; Tạng Luật ghi lại giới luật

9


phải chấp hành của Tăng đoàn; Tạng Luận là những lời luận giải của các vị
Tổ sư Cao tăng luận bàn chi tiết lời dạy của Phật.
Trong quá trình phát triển, Phật giáo chia thành nhiều tông phái khác
nhau như Tịnh độ tông, Thiền tông, Mật tông, Hoa Nghiêm tông… Mỗi tông
phái được các vị Tổ sư phát triển theo một tư tưởng cụ thể nhằm tùy căn cơ
trình độ tiếp nhận của chúng sanh để giúp chúng sanh giải thốt khổ đau,
chứng quả giải thốt. Thiền tơng ảnh hưởng sâu đậm đến đời sống văn hóa và
văn học của nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Theo lịch sử Thiền tơng
thì Thiền bắt đầu hình thành từ sự kiện “niêm hoa vi tiếu” được thuật lại trong
Đại Phạm Thiên vương vấn Phật quyết nghi kinh. Tương truyền, Phạm Thiên
vương cúng dường Phật một cành hoa và thỉnh Phật thuyết pháp. Phật chỉ
cầm hoa và im lặng mỉm cười. Chẳng ai trong hội chúng hiểu được điều này,
chỉ có ngài Ma ha Ca Diếp hiểu được thâm ý của Phật và mỉm cười lĩnh hội.
Đức Phật liền nói: “Ta có Chánh pháp nhãn tạng, Niết bàn diệu tâm, thật
tướng không tướng, vi diệu pháp môn, bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền,
nay trao lại cho Ma ha Ca Diếp”[52; tr. 302]. Như vậy, Ma ha Ca Diếp được
suy tôn là sơ tổ của Thiền tông. Các Tổ truyền nhau đến đời thứ 27 là tổ Bồ
Đề Đạt Ma sang Trung Quốc để truyền đạo. Tại đây, Thiền tông trở thành một
tông phái vững mạnh, phát triển rực rỡ. Đến thời Lục tổ Huệ Năng, Thiền
tông phát triển mạnh mẽ ở Trung Quốc. Để phù hợp với tâm lý con người và
xã hội, Thiền chia làm hai phái là Nam tông và Bắc tông. Nam tông chủ
trương “đốn ngộ” - “ngộ bất thình lình, ngộ ngay bây giờ” [52; tr.153] do ngài
Huệ Năng đề xướng. Bắc tông do ngài Thần Tú khởi xướng lại chủ trương
“tiệm ngộ” - “ngộ từ từ, theo từng cấp bậc” [52; tr.429]. Đến thời Đường,

Minh, Nguyên, Thiền tông phát triển rực rỡ ở Trung Quốc và dần dần ảnh
hưởng đến Nhật Bản, Việt Nam, Hàn Quốc và mang đậm dấu ấn đặc sắc của
mỗi dân tộc.

10


1.1.2. Sự du nhập Phật giáo vào Việt Nam
Phật giáo truyền vào Việt Nam bằng hai con đường: Một là con đường
biển từ phương Nam Ấn Độ trực tiếp truyền sang gọi là Nam truyền; Hai là
con đường bộ từ phương Bắc truyền xuống gọi là Bắc truyền. Ban đầu Phật
giáo Việt Nam tiếp nhận trực tiếp từ Phật giáo Ấn Độ, sau đó truyền qua
Trung Quốc. Nhưng sau đó, Phật giáo ở Trung Quốc đạt đến đỉnh cao, có cái
riêng của mình, đã ảnh hưởng trở lại Việt Nam.
Ðạo Phật truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Trong
Việt Nam Phật giáo sử luận, Nguyễn Lang cho rằng: “Các tài liệu như Hậu
Hán Thư trong đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật Giáo, sách Lý Hoặc
Luận của Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai, kinh Tứ Thập
Nhị Chương và một số tài liệu khác, có tính cách lặt vặt hơn, cho ta thấy rằng
trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm Phật Giáo ở
Trung Hoa, cịn có một trung tâm Phật Giáo rất quan trọng khác ở Giao Chỉ,
tức Việt Nam, lúc bấy giờ đang nội thuộc Trung Quốc là trung tâm Phật giáo
Luy Lâu (hiện nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh)” [44; tr.23].
Phật giáo lúc mới truyền bá vào nước ta, chỉ là tín ngưỡng bình dân,
chưa có kinh điển phiên dịch, chưa có tăng sĩ và tự viện. Nhân dân ta tiếp thu
đạo Phật một cách tự nhiên, khơng gặp bất kỳ phản ứng và trở ngại gì, bởi lẽ
tư tưởng Phật giáo vốn rất gần gũi với tín ngưỡng dân gian Việt Nam.
Những nhà truyền đạo đầu tiên vào nước ta hầu hết là các tăng sĩ người
Ấn Độ như Ma ha Kỳ vực, Khương Tăng Hội… Điều đó chứng tỏ Phật giáo
trước khi ảnh hưởng đến Trung Quốc, đã phát triển tại Giao Châu.

Giao Châu lúc bấy giờ là nơi giao lưu các tín ngưỡng – truyền thống Vệ
đà từ Ấn Độ và truyền thống Hán học từ Trung Quốc, một bên hướng tới vũ
trụ siêu nhiên, một bên hướng vào xã hội thực tiễn. Trải qua q trình du
nhập, thâu hóa, các dịng tư tưởng đó đã kết tinh thành nền văn hóa mang tinh
thần riêng của dân tộc Việt Nam.

11


Theo “tập luận thuyết đầu tiên về đạo Phật được Mâu Tử viết tại Giao
Châu, Khương Tăng Hội (cuối thế kỷ thứ II) được xem là tăng sĩ đầu tiên của
Việt Nam” [52; tr.332].
Sang thế kỷ III, tại Giao Châu có “khoảng 500 vị tăng sĩ và lưu hành ít
nhất 15 bộ kinh”[52; tr.332] thời gian này Thiền Đại thừa Phật giáo đã du
nhập vào Việt Nam và “Khương Tăng Hội được xem là Khai tổ của Thiền học
Việt Nam ”[52; tr.332].
Thế kỷ V, ở Giao Châu có những Thiền sư tiếng tăm như Đạt ma Đề
bà, Huệ Thắng, Pháp Thiên… được giới trí thức Trung Hoa ngưỡng mộ.
Ở Việt Nam, mỗi thời kỳ có một tơng phái trở thành chủ đạo. Thời Bắc
thuộc, tông phái Phật giáo chủ yếu là Mật tông. Các nhà sư lớn từ cuối Bắc
thuộc đến đầu nhà Lý như Nguyễn Minh Không, Từ Đạo Hạnh… đều rất giỏi
pháp thuật. Khi nước nhà giành độc lập tự chủ, và nhất là từ thời Lý-Trần,
Phật giáo thiền tông phát triển một cách rực rỡ. Dưới thời Lý-Trần, Phật giáo
được xem là quốc giáo, có đóng góp rất lớn trong việc khẳng định chủ quyền
độc lập dân tộc và ổn định phát triển đất nước. Sang thời Lê sơ, Phật giáo mất
dần địa vị trên chính trường, lùi dần vào đời sống sinh hoạt dân gian, nhường
vị trí ấy cho Nho giáo. Tuy nhiên, Phật giáo vẫn phát triển, ảnh hưởng đến đời
sống văn hóa, cách nghĩ, nếp sống sinh hoạt của quần chúng nhân dân. Trải
qua các triều đại khác nhau, Phật giáo vẫn là nền tảng tư tưởng cốt yếu của
dân tộc Việt Nam.

1.1.3. Các thiền phái Phật giáo ở Việt Nam.
Thiền phái đầu tiên ở Việt Nam là thiền phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi do Tỳni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) thành lập năm 580. Thiền sư Tỳ-ni-đa-lưu-chi đã
vân du tham học thiền ở Ấn Độ nhiều năm, sau đó mới qua Trung Quốc gặp
Tổ sư Tăng Xán. Sau khi được Tổ sư Tăng Xán truyền tâm ấn, Sư lại về chùa
Chế Chỉ hoằng hóa và dịch kinh Tượng đầu Tinh xá (Tinh xá Đầu Voi). Đến
Việt Nam, thiền sư Tỳ ni đa lưu chi gặp và truyền pháp cho thiền sư Pháp

12


Hiền và Quán Duyên. Đây là Thiền phái đầu tiên có hệ thống truyền thừa, kế
tục được 19 đời, từ Thiền sư Pháp Hiền đến Thiền sư Y Sơn, kết thúc cuối
thời Lý.
Thiền phái thứ hai là thiền phái Vô Ngôn Thông do thiền sư Vô Ngôn
Thông (người Trung Quốc) sáng lập. Thiền sư nhận yếu chỉ Thiền tông từ
Thiền sư Bách Trượng Hồi Hải sang nước ta du hóa vào năm 820. Dòng
Thiền này kế tục được 17 thế hệ, đến đầu thời Trần thì thất truyền.
Thiền phái thứ ba là thiền phái Thảo Đường do thiền sư Thảo Đường
sáng lập từ cuối thế kỷ XI. Trong cuộc chinh phạt Chiêm Thành năm 1096,
vua Lý Thánh Tông đã mang về Đại Việt một số tù nhân, trong đó có Thiền
sư Thảo Đường – vốn là môn đệ của Thiền sư Tuyết Đậu Trùng Hiển, là phái
chủ trương dung hợp giữa Phật giáo và Nho giáo tại Trung Quốc. Dòng Thiền
Thảo Đường duy trì được 6 thế hệ.
Cả ba thiền phái này đều là người ngoại quốc khai phát tông phái và có
những thế hệ truyền thừa trên đất Đại Việt.
Đầu thế kỷ XIII, nhà Trần lên ngôi vẫn tiếp tục chính sách ủng hộ Phật
giáo. Chính vì thế mà Phật giáo dưới thời Trần rất phát triển. Xu hướng lúc
bấy giờ là “ba Thiền phái Tì ni đa lưu chi, Vô Ngôn Thông, Thảo Đường dần
dần nhập lại một” [52; tr.333]. Trên cơ sở đó, Trần Nhân Tơng, vị vua thứ 3
của nhà Trần đã sáng lập nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái này

được xem là sự tổng hợp của ba dòng Thiền trên và mở đầu cho nền Thiền
học mang bản sắc Việt Nam. “Thiền phái Trúc Lâm chủ trương niệm Phật,
thụ giới, tọa Thiền. Ngồi Thiền để tĩnh tâm, ngăn ác hướng thiện. Niệm Phật
là cách tự giáo dục, tự điều chế để miệng và tâm thanh tịnh. Thụ giới là cách
răn giữ bản thân theo giới luật để thân trong sạch và không làm điều ác”[48;
tr.100]. Đây chính là biểu hiện nhập thế của Thiền phái Trúc Lâm. Chính điều
này đã tạo nên một nhân sinh quan “gần gũi với đời, trở về với cuộc sống trần

13


thế”[48; tr.101] mà Thiền phái này đã tạo dựng – nó chính là biểu hiện cho
tinh thần và bản sắc Đại Việt.
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử truyền qua ba đời, Sơ tổ Phật Hồng Trần
Nhân Tơng, Nhị Tổ Pháp Loa và Tam Tổ Huyền Quang. Có lẽ vì nhà Trần
mất ngơi nên sau 3 đời truyền thừa thì thiền phái này khơng cịn thư tịch nào
ghi rõ về sự truyền thừa nữa. Mặc dù vậy tư tưởng thiền phái này lại ảnh
hưởng rất lớn trong đời sống văn hóa xã hội và để lại nhiều dấu ấn.
Phật giáo dưới thời Lý Trần được xem là Quốc giáo, có ảnh hưởng toàn
diện trong đời sống xã hội lúc bấy giờ.
Thiền phái thứ năm là thiền phái Tào Động do thiền sư Động Sơn
Lương Giới và Tào Sơn Bản Tịch sáng lập tại Trung Quốc. Thiền phái này
truyền vào Việt Nam vào thế kỷ thứ XVII do thiền sư Thông Giác Thủy
Nguyệt truyền ở Đàng Ngoài và thiền sư Thạch Liêm Thích Đại Sán truyền ở
Đàng Trong.
Thiền phái thứ sáu là thiền phái Lâm Tế. Thiền phái này xuất phát từ
Trung Quốc do thiền sư Lâm Tế sáng lập. Vào thế kỷ XVII, đệ tử đời thứ 33
của thiền phái này là thiền sư Nguyên Thiều đã sang du hóa tại Đàng Trong.
Phật giáo Đàng Trong được sự ủng hộ nhiệt tình của chúa Nguyễn đã phát
triển rực rỡ. Từ dịng thiền này lại xuất phát thành hai dòng thiền khác là dòng

thiền Lâm Tế Liễu Quán và dòng thiền Lâm Tế Chúc Thánh. Trong đó, thiền
phái Lâm Tế Liễu Quán do thiền sư Liễu Quán người Phú Yên sáng lập là
dòng thiền thuần Việt thứ 2 của Phật giáo Việt Nam.
Phật giáo ngay từ khi du nhập vào Việt Nam đã nhanh chóng được
chấp nhận và bám rễ sâu vào đời sống văn hóa của dân tộc. Phật giáo ngay
từ đầu đã thực hiện lý tưởng đồng hành cùng dân tộc, tạo nên bản sắc văn
hóa sâu đậm để từ đó cố kết nhân tâm thành sức mạnh vững vàng, chống lại
ngoại xâm, xây dựng đất nước. Phật giáo trở thành lối sống, nếp nghĩ của
dân tộc Việt.

14


1.2. Phật giáo ứ Hu - quá tr nh du nhập và những đặc điểm
1.2.1. Từ Ơ Châu Ơ Rí đến Thuận Hóa-Phú Xuân- Huế
Huế là địa danh thuộc miền Trung Việt Nam. Có nhiều tài liệu giải
thích tên Huế khác nhau. Trang Wikipedia đã tổng hợp lại như sau:
“Vua Lê Thánh Tơng có lẽ là người đầu tiên nói đến địa danh Huế
trong bài văn nôm Thập giới cô hồn quốc ngữ văn. Trong đó có câu: "Hương
kỳ nam, vảy đồi mồi, búi an tức, bì hồ tiêu, thau Lào, thóc Huế, thuyền tám
tầm chở đã vạy then". Những tài liệu sử học cũ ngoại trừ Quốc Triều Chính
Biên Tốt Yếu khi nói tới Huế, đều dùng cái tên Phú Xuân hoặc Kinh đô,
hoặc Kinh, chứ không dùng tên Huế. Bộ Việt Nam Sử Lược của Trần Trọng
Kim là bộ sử đầu tiên của Việt Nam viết bằng chữ quốc ngữ, ngoài nguồn sử
liệu truyền thống, tác giả đã sử dụng nguồn sử liệu của phương Tây, và tên
Huế xuất hiện.Trong hồi ký của Pierre Poivre, một thương nhân Pháp đến Phú
Xuân vào năm 1749, cái tên Huế xuất hiện nhiều lần dưới dạng hoàn chỉnh
là Hué.Năm 1787, Le Floch de la Carrière đã vẽ bản đồ duyên hải Đàng
Trong cho Bộ Hải Quân Pháp, trong đó bản đồ đô thành Huế được vẽ một
cách khá rõ và cái tên Huế đã được ghi như cách người Pháp thường viết về

sau: HUÉ.Trong một lá thư viết tại Sài Gòn ngày 15 tháng 7 năm 1789 của
Olivvier de Puynamel gởi cho Létodal ở Macao, hai lần cái tên Hué được
nhắc đến khi nói về tình hình nơi này”.
Đa số người dân Huế cho rằng từ Huế là đọc từ chữ Hóa trong từ
Thuận Hóa, bởi Huế trước đây là vùng đất có tên là Thuận Hóa.
Vào năm 1306, vua Chiêm dâng hai châu Ơ, Lý cho Đại Việt để cưới
cơng chúa Huyền Trân. Từ đó châu Ơ châu Lý thuộc về người Việt và được
đặt lại tên là Thuận Châu và Hóa Châu. Năm 1558, Nguyễn Hồng xin chính
quyền Lê Trịnh vào trấn nhậm xứ Thuận Hóa, thực hiện cơng cuộc khai
hoang, lập làng lập ấp. Chúa Nguyễn chọn Phú Xuân làm kinh đô Đàng
Trong, thực hiện công cuộc ly khai với chính quyền Lê Trịnh ở Đàng Ngồi.

15


Đến đời vua Nguyễn vẫn tiếp tục chọn Phú Xuân làm kinh đô. Năm 1945, chế
độ phong kiến Việt Nam khai tử, địa bạ hành chính Việt Nam được thay đổi
với sự lãnh đạo của chính phủ Việt Nam.
Thuận Hóa-Phú Xuân-Huế kể từ khi có dấu chân người Việt đến hôm
nay đã trải qua hơn 700 năm. Xứ Huế mang đặc trưng văn hóa đặc sắc riêng
biệt, tạo thành một dấu ấn của văn hóa Việt Nam.
1.2.2. Thuận Hóa buổi đầu và q trình du nhập Phật giáo
Thuận Hóa trước khi thuộc về người Việt thì đây là vùng đất của Chăm
pa. Vùng đất này có một nền văn hóa Chăm pa đặc sắc lâu đời, chịu ảnh
hưởng của văn hóa Ấn Độ. Phật giáo từng đóng một vị trí khá quan trọng
trong đời sống tinh thần của người Chăm, tồn tại và phát triển song song với
đạo Bà la môn. Sau khi giao đất cho người Việt hai châu Ô Rí, người Chăm đi
lùi dần về phía Nam thế nhưng những ảnh hưởng của văn hóa Chăm vẫn tồn
tại trên vùng đất này.
Những lưu dân Việt đầu tiên đến đây là những người bị tội đày, trốn

chính quyền Lê Trịnh. Đây là vùng phên dậu, rừng thiêng nước độc, cư dân
lại đa dạng thành phần. Năm 1558, Nguyễn Hoàng vào trấn nhậm xứ Thuận
Hóa đã có những chính sách phù hợp nên Thuận Hóa phát triển một cách
nhanh chóng, trở thành một trung tâm kinh tế chính trị đủ sức để đối trọng lại
với chính quyền Đàng Ngồi.
Đứng trước tình hình cư dân Thuận Hóa đa thành phần, trình độ nhận
thức cũng khác nhau, hơn nữa, trong tình cảnh chúa Nguyễn là người ly khai,
đi trái tư tưởng trung quân của nhà Nho nên chúa Nguyễn cần sự lựa chọn tư
tưởng để phát triển vương quyền. Thuận Hóa buổi đầu chưa thật sự phát triển
nhưng cư dân ở đây hầu như đã biết đến đạo Phật, gồm: đạo Phật của người
Chăm để lại và đạo Phật của người Việt di dân đến đây. Trong Ô Châu cận
lục, Dương Văn An đã ghi chép lại những ngôi chùa xuất hiện ở đây như chùa
Thiên Mụ, chùa Sùng Hóa… Nhân dân đã có những lễ hội, “vào ngày Tết

16


hoặc lễ nghi thì các quan ở tam ty, các nha môn và vệ sở đều đến, áo mũ lễ
nhạc tụ tập như mây” [1; tr.94].
Phật giáo Thuận Hóa-Huế trước hết là Phật giáo từ Đàng Ngoài theo
chân những di dân vào đây khai hoang lập ấp. Đến với vùng rừng thiêng nước
độc (Ở đây đất nước lạ lùng/ Con chim kêu cũng sợ con cá vùng cũng kinh)
khiến họ mang niềm tin cầu nguyện từ Phật giáo. Hình ảnh đức Bụt, Bồ tát là
hình ảnh từ bi, giúp họ thoát khỏi những tai ương, bệnh tật. Họ đến đâu lập
chùa đến đấy, tạo dựng niềm tin để chống lại thiên nhiên và thú dữ.
Sự lựa chọn tư tưởng để là kế sách kết nối và xây dựng tư tưởng cho cư
dân là điều hết sức quan trọng. Đứng trước tình hình này, chúa Nguyễn đã
chọn Phật giáo làm tư tưởng bản lề để phát triển Thuận Hóa. Litana đã nhận
xét rằng:
“Trong tình hình mới này, các nhà lãnh đạo họ Nguyễn cảm thấy cần

phải đưa ra một cái gì khác với tín ngưỡng của người Chăm để củng cố các di
dân người Việt về mặt tinh thần và tâm lý. Khơng thể sử dụng Khổng giáo vì
những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẫn với vị trí của
họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình. Tuy
nhiên, họ Nguyễn lại không dám đi quá xa và không dám tìm ra một giải pháp
hồn tồn khác biệt với truyền thống người Việt ở phía Bắc. Trong những
hồn cảnh đó, Phật giáo Đại thừa đã cung cấp một giải pháp đáp ứng nhu cầu
của họ Nguyễn. Phật giáo, một mặt đẩy mạnh bản sắc dân tộc của người Việt
và mặt khác, làm lắng đọng các mối lo âu của người di dân mà khơng đặt lại
vấn đề tính hợp pháp của những người cai trị” [60; tr.222].
Như đã nói ở trên, Phật giáo đã có mặt tại Thuận Hóa từ sớm nhưng
phải đến khi chúa Nguyễn trấn nhậm, ly khai thì Phật giáo mới bắt đầu phát
triển vượt trội.
Thuận Hóa bước sang thế kỷ XVII, Phật giáo phát triển rực rỡ bởi
chính sách ưu tiên của chúa Nguyễn. Chính quyền chúa Nguyễn đã có nhiều

17


động thái tích cực trong việc phát triển Phật giáo như cho xây dựng lại chùa
Thiên Mụ trên đồi Hà Khê vào năm 1601, chùa Sùng Hóa năm 1602… mở
các lễ hội Phật đản, Vu Lan tại các chùa này, người đi dự lễ đông như trẩy
hội. Thời kỳ này có nhiều thiền sư nổi tiếng như thiền sư Viên Khoan, Viên
Cảnh, Hương Hải… Chúa Nguyễn cùng hoàng tộc, quan lại đều là những đệ
tử thọ giới với các thiền sư.
Đặc biệt, chúa Nguyễn cho thỉnh mời các vị cao tăng từ Trung Quốc
sang hoằng hóa. Thiền sư Nguyên Thiều, thuộc tông Lâm Tế đời thứ 33
sang Đàng Trong hoằng hóa vào năm 1677. Lúc đầu sang ở phủ Quy Ninh
(Bình Định), lập chùa Thập Tháp Di Đà, sau đó được chúa mời ra Thuận
Hóa để hoằng hóa. Thiền sư là người đầu tiên truyền thiền phái Lâm Tế

vào Đàng Trong.
Năm 1694, Chúa Nguyễn Phúc Chu cho người sang mời thiền sư Thạch
Liêm Thích Đại Sán sang Thuận Hóa hoằng hóa. Thiền sư thuộc phái Tào
Động, đời thứ 29. Nhận lời mời của Chúa, Thiền sư Thạch Liêm cùng các vị
cao tăng khác sang mở giới đàn tại chùa Thiền Lâm và truyền giới cho hơn
1400 giới tử. Chúa Nguyễn Phúc Chu thọ giới với thiền sư, có pháp danh là
Hưng Long.
Thời kỳ này, Phật giáo Thuận Hóa cịn có nhiều cao tăng khác cũng từ
Trung Quốc sang hoằng hóa như thiền sư Giác Phong khai sơn chùa Báo
Quốc trên núi Hàm Long, thiền sư Từ Lâm khai sơn chùa Từ Lâm, thiền sư
Minh Hoằng Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tơn Từ Đàm…
Phật giáo Thuận Hóa thật sự hưng thịnh và lan tỏa vào tận Nam Bộ khi
xuất hiện dòng thiền Lâm Tế Liễu Quán do thiền sư Thiệt Diệu Liễu Qn
sáng lập.
1.2.3. Các dịng thiền có mặt tại Thuận Hóa
Như đã nói, Phật giáo có mặt từ rất sớm trên đất Thuận Hóa. Thời kỳ
đầu ảnh hưởng của Phật giáo Chăm pa, sau đó là Phật giáo Đại Việt từ Đàng

18


Ngoài theo chân các lưu dân vào. Sau nữa là các dòng thiền du nhập từ Trung
Quốc. Trong vòng hai thế kỷ XVII, XVIII, tại Thuận Hóa xuất hiện 4 dòng
thiền lớn, khẳng định sự phát triển của Phật giáo Thuận Hóa.
Đầu tiên là thiền phái Trúc Lâm Yên Tử. Thiền phái này xuất hiện từ
thời Trần, truyền thừa qua 3 đời thì khơng thấy thư tịch ghi chép rõ ràng sự
truyền thừa này nữa. Nhưng đến thế kỷ XVII, xuất hiện các thiền sư được
cho là thuộc thiền phái này với công lao phục dựng lại thiền phái Trúc Lâm
Yên Tử như thiền sư Chân Nguyên, Hương Hải. Thiền phái Trúc Lâm Yên
Tử có mặt tại Thuận Hóa từ thế kỷ XIV với sự kiện Phật hồng Trần Nhân

Tơng du hóa tại Chăm pa vào năm 1301. Sau này, các lưu dân đã mang tư
tưởng của thiền phái này tiếp tục đến với Thuận Hóa, làm nền móng tư
tưởng của vùng đất này. Thiền phái này thật sự được phục hưng tại Thuận
Hóa bởi cơng lao của thiền sư Hương Hải. Tuy nhiên vào năm 1682, vì mối
nghi ngờ của chúa Nguyễn nên thiền sư đã cùng với đệ tử bỏ ra Đàng Ngoài,
chấm dứt sự hiện diện của thiền phái này tại Thuận Hóa. Mặc dù vậy, tư
tưởng của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm trong
đời sống cư dân Thuận Hóa.
Thiền phái thứ hai là thiền phái Lâm Tế do thiền sư Nguyên Thiều
(Trung Quốc) truyền sang.
Thiền phái thứ ba là thiền phái Tào Động do thiền sư Thạch Liêm
Thích Đại Sán (Trung Quốc) truyền sang.
Thiền phái thứ tư là thiền phái Liễu Quán do thiền sư Thiệt Diệu Liễu
Quán (người Phú Yên) sáng lập. Thiền sư Liễu Quán (1667-1742), được thiền
sư Minh Hoằng Tử Dung ấn chứng tâm pháp với công án “Vạn pháp quy
nhất, nhất quy hà xứ” (Muôn pháp về một, một đi về đâu?). Sau khi được ấn
chứng, thiền sư vân du đây đó giáo hóa độ sinh. Năm 1722, Thiền sư lên núi
Thiên Thai dựng thảo am (chùa Thiền Tôn ngày nay) tu tập, thu nhận đệ tử và
xuất kệ biệt phái thành Lâm Tế Liễu Quán.

19


“Thiệt tế đại đạo

(Ðường lớn thực tại

Tính hải thanh trừng

Biển thể tính trong


Tâm nguyên quảng nhuận,

Nguồn tâm thấm khắp

Ðức bổn từ phong

Gốc đức vun trồng

Giới định phúc tuệ

Giới định cùng tuệ

Thể dụng viên thơng

Thể dụng viên thơng

Vĩnh siêu trí quả

Quả trí siêu việt

Một khế thành cơng

Hiểu thấu nên cơng

Truyền trì diệu lý

Thuyền giữ lý mầu

Diễn xướng chính tơng


Tun dương chính tông

Hành giải tương ứng

Hành giải song song

Ðạt ngộ chân không”.

Ðạt ngộ chân không).

Tháng 11 năm 1742, thiền sư viên tịch và để lại bài kệ:
“Thất thập dư niên thế giới trung
Không không sắc sắc diệc dung thông
Kim triêu nguyện mãn hồn gia lý
Hà tất bơn man vấn tổ tơng”.
(Tuổi đời đã quá bảy mươi niên,
Không không sắc sắc chẳng ưu phiền.
Hôm nay mãn nguyện về quê cũ,
Hà tất lăng xăng hỏi Tổ Tơng)
Thiền sư được chúa Nguyễn Phúc Khốt sắc lập văn bia và ban thụy là
Chánh Giác Viên Ngộ hịa thượng.
Thiền sư có rất nhiều đệ tử đắc pháp và trở thành những cao tăng có
cơng lớn trong việc hoằng hóa khắp xứ Đàng Trong. Theo thiền sư Thích
Nhất Hạnh thì “hiện bây giờ 95% các thầy, các sư cô, các Phật tử ở Thừa
Thiên và các tỉnh lân cận đều là con cháu của Tổ Liễu Quán”[82].

20



Phật giáo Huế có vị trí quan trọng trong diễn trình lịch sử Phật giáo
Việt Nam. Trên phương diện đồng đại, thế kỷ XVIII với sự phục hưng trở lại
của Phật giáo Việt Nam thì Phật giáo Huế có nhiều thành tựu hơn hết khi
xuất hiện dòng Liễu Quán là dịng thiền thuần Việt. So với Đàng Ngồi thì
Phật giáo Huế dù xuất hiện muộn hơn nhưng lại có nhiều thành tựu nổi bật
hơn. So với phía Nam tổ quốc thì Phật giáo Huế vừa là sự chuyển tiếp Phật
giáo từ Đàng Ngồi vừa là cội nguồn truyền hóa Phật giáo vào phía Nam,
giúp cho Phật giáo ở đây phát triển. Trên phương diện lịch đại, Phật giáo
Huế từ khi xuất hiện đến nay đều có nhiều hoạt động nổi bật hơn hết. Những
năm đầu thế kỷ XX, Phật giáo Huế là xuất phát điểm cho các phong trào
chấn hưng Phật giáo Việt Nam qua sự thành lập hội An Nam Phật học
(1932), Đoàn Phật học Đức Dục (1942), Gia đình Phật tử hóa phổ (1944),
cuộc đấu tranh Phật giáo 1963…
Phật giáo Huế có đặc trưng riêng biệt, khẳng định vị trí của mình trong
dịng chảy của Phật giáo Việt Nam. Với hệ thống kiến trúc, tổ chức thờ tự của
chùa Huế; nếp sống của chùa Huế, hệ thống pháp phái truyền thừa, thái độ tu
hành, và tổ chức giáo dục, hoằng pháp, từ thiện xã hội; tổ chức giáo hội, nghi
lễ, văn hóa văn học nghệ thuật… tạo diện mạo Phật giáo một cách đầy đủ và
riêng biệt, nổi bật. Chính vì thế mà Phật giáo đã sớm thấm sâu vào đời sống
sinh hoạt tinh thần và văn hóa cư dân xứ Huế. Nếp sống nếp nghĩ của người
Huế đều mang hương vị của Phật giáo, góp phần làm nên bản sắc văn hóa
Huế mà “chẳng nơi nào có được”.

21


×