NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ TOÁN BÁN HÀNG VÀ
XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN HÀNG Ở DOANH NGHIỆP
THƯƠNG MẠI.
1.1. VAI TRÒ, NHIỆM VỤ CỦA KẾ TOÁN DOANG NGHIỆP THƯƠNG
MẠI.
Trước đây khi mà nền kinh tế nước ta đang trong tình trạng tự cung tự cấp,
hàng hoá không nhiều, chủ yếu là các mặt hàng thiết yếu phục vụ cho nhu cầu thực
sự cần thiết của con người ở mức vẫn còn khan hiếm, quan hệ buôn bán không
phải là nhiều, vì thế hoạt động kinh doanh thương mại kém phát triển. Ngày nay,
khi nền kinh tế phát triển, kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng
XHCN, hoạt động kinh doanh buôn bán nhiều, hàng hoá giao dịch cũng lớn, hàng
hoá không chỉ giao dịch trong nước mà còn được xuất ra nước ngoài, quan hệ giữa
các nước không chỉ đơn thuần là quan hệ chính trị mà còn là mối quan hệ kinh tế,
quan hệ trao đổi. Chính vì sự mở rộng hợp tác về nhiều mặt như vậy nên các doanh
nghiệp trở thành đơn vị có tư cách pháp nhân, họ tự chủ về mặt tài chính và kinh
doanh theo nhiều hình thức khác nhau. Các doanh nghiệp đều muốn kinh doanh
sao cho đem lại lợi nhuận cao nhất bằng cách này cách khác. Do vậy, doanh nghiệp
phải tiến hành tính toán sao cho khi trừ đi các khoản chi phí và các khoản thuế,
phí…doanh nghiệp thu được lợi nhuận cao nhất và như vậy, kế toán trở thành công
cụ hết sức quan trọng vì nó là không thể thiếu được trong việc thu nhận, xử lý và
cung cấp thông tin về toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phục vụ
cho yêu cầu quản lý tài chính Nhà nước và yêu cầu quản lý kinh doanh, bảo vệ tài
sản và thực hiện hạch toán kinh doanh ở các doanh nghiệp.
Với vai trò hết sức quan trọng như vậy, công tác kế toán trong các doanh
nghiệp thương mại cần phải thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
1. Ghi chép, phản ánh số hiện có và sự vận động tài sản trong doanh nghiệp
cũng như quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
2. Kiểm tra, giám sát tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh,
luân chuyển hàng hoá, tình hình thanh toá tín dụng, phân tích chi phí, doanh thu,
lợi nhuận…nhằm ngăn ngừa các hành vi tiêu cực.
3. Cung cấp tài liệu phục vụ cho điều hành và quản lý, chỉ đạo các hoạt động
kinh doanh, phục vụ cho việc kiểm tra, kiểm soát của các đơn vị chủ quản và các
cơ quan quản lý kinh tế tài chính của Nhà nước đối với các hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp.
1. 2. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ
BÁN HÀNG.
1.2.1. Doanh thu bán hàng.
* Bán hàng: Là việc chuyển quyền sở hữu hàng hoá, dịch vụ cho khách hàng,
doanh nghiệp thu được tiền hoặc quyền được thu tiền.
Dù trong bất kỳ thời điểm nào, nhất là trong thời gian xã hội tiến tới hội nhập
kinh tế, thì việc bán hàng không chỉ bó hẹp trong phạm vi một nước mà còn ra thi
trường nước ngoài.
* Doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ: Là toàn bộ số tiền mà doanh
nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được từ việc bán hàng và cung cấp dịch vụ.
Ở đây, ta chỉ xét phần doanh thu bán hàng. Doanh thu bán hàng chỉ được ghi
nhận khi đồng thời thoả mãn 5 điều kiện sau:
- Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền
sở hữu sản phẩm hoặc hàng bán cho người mua.
- Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hoá như người sở hữu
hàng hoá hoặc quyền kiểm soát hàng hoá.
- Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn.
- Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi kinh tế từ giao dịch bán
hàng.
- Xác định được chi phí liên quan đến việc giao dịch bán hàng.
- Doanh thu bán hàng sau khi trừ đi các khoản làm giảm trừ doanh thu tấc
định được doanh thu thuần bán hàng.
- Trong điều kiện hiện nay, khi điều kiện cạnh tranh ngày càng mạnh mẽ, để
đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá bán ra, các doanh nghiệp luôn thực hiện chế độ khuyến
khích đối với khách hàng.
Chẳng hạn như: Nếu khách hàng mua nhiều sẽ được giảm giá hoặc nếu mua
phải những hàng không đúng quy cách, chất lượng thì khách hàng có thể được
quyền trả lại hoặc sẽ được doanh nghiệp giảm giá.
Tất cả những điều đó sẽ giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh hơn quá trình tiêu
thu hàng hoá.
1.2.2. Kết quả bán hàng:
Kết quả bán hàng là kết quả cuối cùng về bán hàng hóa của hoạt động kinh
doanh, được thực hiện qua chỉ tiêu lãi, lỗ. Nó là phần chênh lệch giữa doanh thu
bán hàng thuần và giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh
nghiệp:
Doanh thu bán h ng – Chià ết khấu thương mại –
- Giảm giá h ng bán – H ng bán bà à ị trả lại –
- Thuế tiêu thụ đặc biệt – Thuế xuất khẩu –
- Thuế GTGT được tính theo phương pháp trực tiếp.
=
Kết quả
bán hàng
Trong đó:
- Chiết khấu thương mại: Là số tiền người mua được hưởng do mua hàng
với khối lượng lớn.
- Giảm giá hàng bán: Là số tiền mà doanh nghiệp phải trả lại cho khách hàng
do doanh nghiệp bán hàng với chất lượng kém, sai với hợp đồng, khách hàng có
yêu cầu đựoc giảm giá và doanh nghiệp kiểm tra lại, chấp nhận giảm giá.
- Hàng bán bị trả lại: Là số hàng doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng sai
quy cách, chất lượng, chủng loại…và khách hàng trả lại cho doanh nghiệp.
- Thuế tiêu thụ đặc biệt: Là số tiền mà doanh nghiệp phải nộp tính trên tỷ lệ
phần trăm doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
- Thuế xuất khẩu: Là số tiền mà doanh nghiệp phải nộp tính trên tỷ lệ phần
trăm doanh thu bán hàng hoá, dịch vụ thuộc diện chịu thuế xuất khẩu.
- Phần thuế GTGT nộp theo phương pháp trực tiếp được tính trên doanh thu
bán hàng hoá thực tế mà doanh nghiệp đã thực hiện trong một kỳ kế toán.
- Giá vốn hàng bán: Là toàn bộ số tiền liên quan đến quá trình bán hàng, bao
gồm cả chi phí mua của hàng xuất kho để bán và chi phí thu mua phân bổ cho hàng
bán ra.
- Chi phí bán hàng: Là toàn bộ chi phí lưu thông, chi phí tiếp thị liên phát
sinh trong quá trình bán hàng bao gồm cả chi phí bảo quản, chi phí đóng gói, chi
phí quảng cáo…
- Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là các khoản chi phí dùng cho việc quản lý
doanh nghiệp.
- Chi phí quản lý doanh nghiệp để xác định kết quả bán hàng chỉ bao gồm
các khoản chi phí dùng cho việc quản lý phục vụ quá trình bán hàng. Kết quả bán
hàng là một chỉ tiêu hết sức quan trọng, nó là mối quan tâm hàng đầu của mọi
doanh nghiệp trong cơ chế thi trường và là mục đích cuối cùng của hoạt động kinh
doanh. Kết quả kinh doanh là tấm gương phản chiếu các mặt hoạt động của doanh
nghiệp. Mặt khác, kết quả kinh doanh có ảnh hưởng qua lại đến hoạt động kinh
doanh, kết quả kinh doanh tốt sẽ là điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp mở rộng
quy mô, tăng sức cạnh tranh, khẳng định vị trí của mình trên thương trường và
ngược lại, kết quả kinh doanh xấu sẽ làm ảnh hưởng không tốt đến tình hình chung
của doanh nghiệp, thậm chí còn đưa doanh nghiệp đến tình trạng phá sản.
1.2.3. Sự cần thiết phải quản lý quá trình bán hàng và xác định kết quả
bán hàng trong các doanh nghiệp thương mại. Vai trò, nhiệm vụ của
chúng.
Như ta đã biết, thương mại là một khâu trung gian nối liền giữâ sản xuất và
tiêu dùng. Hoạt động kinh tế cơ bản của nó là lưu chuyển hàng hóa. Đó là sự tổng
hợp các hoạt động thuộc quá trình mua bán, trao đổi và dự trữ hàng hoá.
Bán hàng trở thành một nghiệp vụ quan trọng trong quá trình lưu chuyển hàng
hoá của doanh nghiệp thương mại. Quá trình bán hàng chỉ được coi là hoàn thành
khi nó hội tụ hai điều kiện:
+ Đơn vị bán hàng phải chuyển quyền sở hữu hàng hoá đó.
+ Đơn vị mua đã thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán.
Mục tiêu của doanh nghiệp là thu được lợi nhuận cao. Doanh nghiệp thương
mại với mục tiêu không chỉ bán ra được hàng hoá mà phải bán được nhiều hàng
hoá, mới có khả năng thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường, đẩy
nhanh quá trình tiêu thụ( bán hàng nhiều trong thời gian ngắn), tăng vòng quay vốn
lưu động, tiết kiệm vốn, tránh sử dụng nguồn vốn một cách lãng phí, vốn bị chiếm
dụng nhiều. Do vậy, thực hiện tốt quá trình bán hàng thu tiền và xác định kết quả
bán hàng có ý nghĩa quan trọng trong các doanh nghiệp nói chung và trong các
doanh nghiệp thương mại nói riêng. Và cho dù là doanh nghiệp nào thì đều phải
quản lý quá trình này, việc quản lý nó là hết sức cần thiết. Để quản lý công tác bán
hàng, doanh nghiệp cần nắm bắt, theo dõi từng phương thức bán hàng, đôn đốc
thanh toán và thu hồi nợ, xác định đúng đắn phần doanh thu hàng bán ra và toàn bộ
chi phí phục vụ cho việc bán hàng.
* Vai trò kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng:
- Kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng là một công việc cần thiết,
nó giúp doanh nghiệp xác định đúng đắn các chỉ tiêu bán hàng, kết quả bán hàng,
có biện pháp thúc đẩy quá trình tuần hoàn vốn.
- Thông qua số liệu do kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng, Nhà
nước có thể nắm được tình hình tài chính của doanh nghiệp, thực hiện chức năng
quản lý và kiểm soát việc chấp hành pháp luật va nghĩa vụ đối với Nhà nước của
doanh nghiệp.
- Thông qua kế toán bán hàng và xác định kết quả bán hàng, doanh nghiệp
có thể quản lý các hoạt động của mình, xác định được khả năng tiêu thụ mặt hàng
nào có hiệu quả hơn, từ đó có biện pháp đầu tư hoặc xác định các đối tác quan hệ.
* Nhiệm vụ:
Xuất phát từ vai trò hết sức cần thiết như vậy của kế toán bán hàng và xác
định kết quả bán hàng, các doanh nghiệp cần phải thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
- Ghi chép đầy đủ, kịp thời khối lượng thành phẩm, hàng hoá bán ra, tính
toán đúng đắn trị giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng và các khoản chi phí liên
quan khác nhằm xác định đúng đắn kết quả bán hàng.
- Kiểm tra, giám sát việc thực hiện kế hoạch bán hàng, kế hoạch lợi nhuận.
- Cung cấp các thông tin trung thực, đáng tin cậy và đầy đủ về tình hình bán
hàng và xác định kết quả bán hàng phục vụ cho việc lập các báo cáo tài chính và
quản lý doanh nghiệp.
Tất cả những vấn đề như vậy, không phải lúc nào và doanh nghiệp nào cũng
thực hiện tốt được, nhưng quán triệt triệt để việc thực hiện chúng sao cho có hiệu
quả nhất. Có như vậy mới giúp doanh nghiệp kinh doanh mang lại hiệu quả cao
nhất.
1.2.4. Những ảnh hưởng của đặc điểm kinh doanh xuất nhập khẩu đến
quá trình bán hàng và xác định kết quả bán hàng.
Khi mà nền kinh tế ngày càng phát triển, các ngành nghề ra đời đáp ứng yêu
cầu đa dạng của xã hội, phát triển kinh tế quốc dân theo sự phân công lao động xã
hội và có tính chuyên môn hoá cao. Trong các doanh nghiệp thương mại nói riêng
thì sự phân công lao động xã hội biểu hiện càng rõ rệt và hoạt động kinh doanh
xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động mang tính đặc thù cho tính chuyên
môn hoá đó. Khi các quan hệ đối ngoại ngày càng được mở rộng với phương châm
đa phương hoá, đa dạng hoá hoạt động ngoại thương, đổi mới kỹ thuật và tạo
nguồn thu ngoại tệ, hàng hoá không chỉ được cung cấp trong nước mà còn đáp ứng
những nhu cầu trên thị trường nước ngoài.
Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ngày càng được mở rộng, phát triển
phức tạp hơn, đa dạng hơn, ngoài việc xuất nhập khẩu trên cơ sở các hợp đồng
kinh tế, các nghị định thư, các hiệp định mà Chính phủ nước ta ký kết với nước
ngoài, doanh nghiệp tìm cho mình hướng kinh doanh mới, hoạt động kinh doanh
thu lợi nhuận như các doanh nghiệp khác. Do vậy, các doanh nghiệp cũng phải tự
tìm cho mình những biện pháp, cơ chế quản lý, điều hành sao cho phù hợp, và
cũng giống như các doanh nghiệp thương mại nói chung, các doanh nghiệp tiến
hành kinh doanh xuất nhập khẩu thì kế toán là một công cụ quan trọng, giữ vị trí
lớn trong công tác quản lý doanh nghiệp. Tuy nhiên, do kế toán cũng thường xuyên
thay đổi cho phù hợp với điều kiện phát triển thực tế của xã hội, của nền kinh tế và
như vậy, kế toán trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu cũng có những thay đổi
phù hợp với đặc thù riêng của nó.
Đặc điểm chủ yếu của hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu:
- Kinh doanh trên một thị trường rộng lớn bao gồm cả thị trường trong nước
và ngoài nước, chịu ảnh hưởng trực tiếp cuả sự phát triển sản xuất của cả hai thị
trường này.
- Người mua, người bán thuộc các quốc gia khác nhau, có các phong tục, tập
quán, trình độ quản lý và chính sách ngoại thương khác nhau.
- Hàng hoá xuất nhâp khẩu đòi hỏi phải có chất lượng cao, mẫu mã đa dạng,
hợp thị hiếu của người tiêu dùng trong từng quốc gia và khu vực.
- Điều kiện về mặt địa lý, phương tiện chuyên chở, các điều kiện thanh toán,
thời gian giao hàng…khác nhau cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình kinh
doanh.
Tất cả những đặc thù riêng của ngành kinh doanh xuất nhập khẩu, kế toán
cũng có ảnh hưởng ít nhiều, ngoài việc tuân thủ các quy tắc hạch toán chung thì
trong các doanh nghiệp xuất nhập khẩu lại có những nét riêng và sẽ được trình bày
ở các mục sau.
1. 3. TỔ CHỨC CÔNG TÁC BÁN HÀNG VÀ XÁC ĐỊNH KẾT QUẢ BÁN
HÀNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP THƯƠNG MẠI.
1.3.1. Kế toán giá vốn hàng bán.
Kế toán giá vốn hàng bán là một chỉ tiêu để xác định kết quả bán hàng. Đối
với các doanh nghiệp thương mại, xác định trị giá vốn hàng xuất kho bao gồm: Trị
giá mua thực tế và chi phí mua của hàng đã xuất kho.
1.3.1.1. Phương pháp xác định giá vốn hàng bán:
* Đối với doanh nghiệp áp dụng hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp
kê khai thường xuyên có thể áp dụng một trong các phương pháp sau:
- Tính trị giá mua thực tế của hàng xuất kho
+ Tính theo đơn giá mua thực tế tồn đầu kỳ:
Trị giá mua thực tế h ng xuà ất kho
Số lượng h ng hoá xuà ất kho
Đơn giá mua thực tế h ng tà ồn đầu kỳ
=
×
Trị giá mua thực tế hàng xuất kho
+ Tính theo đơn giá bình quân hàng luân chuyển trong kỳ: Theo phương
pháp này có hai cách tính:
Tính theo phương pháp bình quân gia quyền cố định: Thời điểm tính là
cuối kỳ.
Giá thực tế h ng tà ồn đầu kỳ + giá thực tế h ng nhà ập trong kỳ
Số lượng h ng tà ồn đầu kỳ + số lượng h ng nhà ập trong kỳ
=
Đơn giá
bìnhquân
Sau đó xác định:
Trị giá mua thực tế h ng xuà ất kho
Số lượng h ng hoá xuà ất kho
Đơn giá bình quân
=
×
Tính theo phương pháp bình quân gia quyền di động: Theo phương pháp này, đơn
giá được xác định sau từng lần nhập
Giá thực tế h ng trà ước mỗi lần nhập + giá thực tế h ng sau mà ỗi lần nhập
Số lượng h ng trà ước mỗi lần nhập + số lượng h ng sau mà ỗi lần nhập
=
Đơn giá
bình quân
Trị giá mua thực tế h ng xuà ất kho
Số lượng h ng hoá xuà ất kho
Đơn giá bình quân
=
×
Sau đó xác định:
+ Tính theo phương pháp nhập trước, xuất trước:
Theo phương pháp này, giả định hàng nào nhập trước sẽ được xuất trước, lấy
giá trị mua thực tế của số hàng đó để tính.
+ Tính theo phương pháp nhập sau xuất trước: Theo phương pháp này, giả
định hàng nào nhập kho sau thì xuất kho trước và lấy giá trị thực tế của lô hàng đó
để tính.
+ Tính theo phương pháp đích danh:
Phương pháp này, chỉ áp dụng đối với các doanh nghiệp có vốn và lượng vật
tư, hàng hoá ít. Căn cứ vào số lượng hàng xuất kho của lô hàng đó để tính.
Trị giá vốn thực tế h ng xuà ất kho
Số lượng thực tế h ng xuà ất
Đơn giá của h ng nhà ập
=
×
Ngoài ra, các doanh nghiệp còn áp dụng một số phương pháp khác để tính,
chẳng hạn:
Trị giá mua thực tế Trị giá mua thực tế Trị giá mua thực tế
h ng tà ồn đầu kỳ h ng nhà ập trong kỳ h ng tà ồn cuối kỳ
+
=
-
Tính trị giá mua hàng xuất kho theo phương pháp cân đối: Theo phương pháp
này, trước hết tính trị giá mua thực tế của hàng còn lại cuối kỳ bằng cách lấy số
lượng còn lại cuối kỳ nhân với đơn giá mua lần cuối trong kỳ( tháng, quý). Sau đó
sử dụng phương pháp cân đối để tính trị giá mua thực tế của hàng xuất kho:
Trị giá thực tế hàng xuất kho
Để tính trị giá vốn thực tế của hàng xuất kho để bán, cần phải phân bổ chi phí
mua theo công thức:
Chi phí mua phân bổ chi phí mua
cho h ng tà ồn đầu kỳ phát sinh trong kỳ Trị giá mua
Trị giá mua h ng à Trị giá mua h ng à h ng xuà ất kho
tồn đầu kỳ nhập trong kỳ
tồn đầu kỳ
+
×
+
=
Chi phí phân
bổ cho hàng
xuất kho
Trên cơ sở xác định trị giá mua thực tế của hàng xuất kho và chi phí mua hàng
xuất kho đã được tính, kế toán tổng hợp lại để xác định giá vốn thực tế của hàng
xuất kho.
- Tính theo giá hạch toán:
Giá hạch toán là giá do doanh nghiệp định ra trong một thời gian dài, thường
được áp dụng đối với các doanh nghiệp mua hàng hoá thường xuyên có sự biến
động về giá cả, số lượng cũng như chủng loại hàng hoá nhập, xuất.
Giá thực tế h ng tà ồn đầu kỳ + giá thực tế h ng nhà ập trong kỳ
Trị giá hạch toán Trị giá hạch toán
h ng tà ồn đầu kỳ h ng nhà ập trong kỳ
=
+
Cuối kỳ, kế toán phải tính ra giá thực tế để ghi sổ kế toán tổng hợp. Để tính trị
giá thực tế hàng xuất kho, trước hết phải tính hệ số giá thực tế và giá hạch toán của
hàng luân chuyển:
Hệ số hàng luân
chuyển trong kỳ
Sau đó xác định:
Trị giá hạch toán hệ số h ng luân à
h ng xuà ất trong kỳ chuyển trong kỳ
×
=
Trị giá vốn thực tế hàng xuất kho
Trị giá thực tế hàng xuất kho
Từ kết quả tính được, kế toán xác định trị giá vốn thực tế của hàng đã bán.
Trị giá vốn chi phí bán h ng, chi phí quà ản
h ng xuà ất bán lý doanh nghiệp h ng à đã bán
+
=
Sau khi xác định trị giá vốn của hàng xuất kho để bán, ta phải tính toán, phân
bổ chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cho số hàng đã bán, sau đó kế
toán tổng hợp lại để xác định giá vốn hàng bán.
Giá vốn
hàng bán
Trong đó:
Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp được tính toán và phân bổ
theo công thức:
Chi phí bán h ng, chí phí quà ản lý doanh nghiệp phân bổ cho h ng tà ồn đầu kỳ
Chi phí bán h ng, chí phí quà ản lý doanh nghiệp phát sinh trong kỳ
Chi phí bán h ng, chí phí quà ản lý doanh nghiệp phân bổ cho h ng xuà ất trong kỳ
Chi phí bán h ng, chí phí quà ản lý doanh nghiệp phân bổ cho h ng tà ồn cuối kỳ
=
+
-
+
Chi phí bán h ng, chi phí à chi phí bán h ng, à
quản lý doanh nghiệp phân quản lý doanh nghiệp phân
bổ cho h ng còn cuà ối kỳ bổ cho h ng bán trong kà ỳ Trị giá h ngà
trị giá h ng còn cuà ối kỳ Trị giá h ng bán trong kà ỳ còn cuối kỳ
+