Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Nghiên cứu thành phần loài mối Insecta Isoptera trong một số công trình di tích tỉnh Thanh Hóa và đề xuất biện pháp phòng trừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.47 MB, 81 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

TRẦN VĂN THÀNH

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI MỐI (INSECTA: ISOPTERA)
TRONG MỘT SỐ CƠNG TRÌNH DI TÍCH TỈNH THANH HĨA
VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN

TRẦN VĂN THÀNH

NGHIÊN CỨU THÀNH PHẦN LOÀI MỐI (INSECTA: ISOPTERA)
TRONG MỘT SỐ CƠNG TRÌNH DI TÍCH TỈNH THANH HĨA
VÀ ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP PHÒNG TRỪ

Chuyên ngành:
Mã số:

Động vật học
60 42 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC


CÁN BỘ HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. NGUYỄN QUỐC HUY
PGS. TS. NGUYỄN VĂN QUẢNG

Hà Nội – 2014


LỜI CẢM ƠN!

Để hoàn thành luận văn này, trước tiên, em xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc
đến Thầy PGS. TS. Nguyễn Văn Quảng và Thầy TS. Nguyễn Quốc Huy, đã tận
tình hướng dẫn trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu.
Em chân thành cảm ơn các Thầy, Cô khoa Sinh học, trường Đại học
Khoa học Tự nhiên, đã giảng dạy, truyền đạt kiến thức làm nền tảng cơ sở để
hồn thành luận văn.
Tơi chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Viện Sinh thái và Bảo vệ cơng trình,
đã tạo điều kiện thời gian, cơ sở vật chất để học tập và hồn thành luận văn đạt
kết quả tốt nhất.
Tơi xin cảm ơn tập thể cán bộ Trung tâm Nghiên cứu Phịng trừ mối đã
giúp đỡ về cơng việc và tìm kiếm tài liệu, nguồn tham khảo trong quá trình học
tập, nghiên cứu.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình và bạn bè ln gần gũi động viên để tơi
hồn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày

tháng

năm

Học viên


Trần Văn Thành


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................... 3
1.1.

Tình hình nghiên cứu mối hại cơng trình kiến trúc trên thế giới ............... 3

1.2.

Tình hình nghiên cứu mối hại cơng trình kiến trúc tại Việt Nam ............ 14

1.3.

Tình hình nghiên cứu mối tại tỉnh Thanh Hóa ........................................ 18

Chương 2. THỜI GIAN, ĐỊA ĐIỂM, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN
CỨU...................................................................................................................... 19
2.1.

Thời gian, địa điểm nghiên cứu .............................................................. 19

2.2.

Khái quát điều kiện tự nhiên, lịch sử, xã hội khu vực nghiên cứu ........... 21

2.3.


Nội dung nghiên cứu .............................................................................. 23

2.4.

Phương pháp nghiên cứu ........................................................................ 24

2.4.1. Phương pháp thu mẫu .......................................................................... 24
2.4.2. Phương pháp định loại mẫu vật............................................................ 24
2.4.3. Phương pháp xác định lồi gây hại chính ............................................ 25
2.4.4. Phương pháp hồi cứu ........................................................................... 25
2.4.5. Phương pháp xử lý số liệu .................................................................... 25
Chương 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN..................................... 26
3.1.

Cấu trúc thành phần loài và phân bố của mối trong khu vực nghiên cứu 26

3.1.1. Cấu trúc thành phần loài mối trong khu vực nghiên cứu ...................... 26
3.1.2. Đặc điểm phân bố của mối trong khu vực nghiên cứu .......................... 31
3.2.

Lồi gây hại chính trong các khu vực nghiên cứu ................................... 38

3.2.1. Hiện trạng mối gây hại trong các di tích nghiên cứu ............................ 38
3.2.2. Lồi gây hại chính tại các khu di tích tỉnh Thanh Hóa ......................... 40
3.3.

Một số đặc điểm sinh học, sinh thái học của loài gây hại chính làm cơ sở

đề xuất biện pháp phịng trừ............................................................................... 43

3.3.1. Loài Cryptotermes domesticus ............................................................. 43


3.3.2. Loài Coptotermes gestroi ..................................................................... 46
3.3.3. Loài Odontotermes hainanensis ........................................................... 48
3.4.

Đề xuất biện pháp phịng trừ lồi gây hại chính...................................... 50

3.4.1. Cơ sở khoa học phòng trừ mối ............................................................. 50
3.4.2. Đề xuất biện pháp phòng trừ hiệu quả ................................................. 53
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ ................................................................................... 56
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................................... 58


Danh mục bảng

Nội dung

Trang

Bảng 2.1.

Danh sách địa điểm các di tích nghiên cứu

Bảng 3.1.

Danh sách thành phần lồi mối thu được trong các khu di tích

20


trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

26

Bảng 3.2.

Cấu trúc thành phần giống và lồi mối trong các khu di tích

29

Bảng 3.3.

Phân bố của lồi mối theo điểm nghiên cứu

32

Bảng 3.4.

Tỷ lệ bắt gặp của các loài mối trong tổng số 33 di tích điều tra

33

Bảng 3.5.

Phân bố của mối theo khơng gian khu di tích nghiên cứu

35

Bảng 3.6.


Phân bố của mối theo các vùng cảnh quan

37

Bảng 3.7.

Thành phần lồi mối gây hại đối với cơng trình kiến trúc trong
các di tích trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Bảng 3.8.

Số lượng lồi mối xâm hại đối với mỗi cơng trình di tích trong
khu vực điều tra

Bảng 3.9.

39
40

Tỉ lệ bắt gặp mối gây hại trong các hạng mục của các cơng
trình trong các di tích ở khu vực nghiên cứu

41


Danh mục hình

Nội dung


Trang

Hình 2.1.

Sơ đồ địa điểm thu mẫu

19

Hình 3.1.

Tỉ lệ % số loài của các giống mối trong các khu di tích

28

Hình 3.2.

Tỉ lệ % số lồi và số giống của các phân họ mối trong các khu
di tích

Hình 3.3.

30

Mức độ mối hại trên các đối tượng trong các hạng mục điều
tra

38

Hình 3.4.


Hình dạng mối lính lồi C. domesticus

44

Hình 3.5.

Hình dạng mối cánh lồi C. domesticus

44

Hình 3.6.

Khung cửa bị hại bởi loài C. domesticus (trái) và phân mối khi
đùn ra bên ngồi (phải)

Hình 3.7.

45

Mối Coptotermes gestroi gây hại cột (A) và cấu kiện gỗ (B)
trong cơng trình di tích

47

Hình 3.8.

Hình dạng mối cánh lồi O.hainanensis

48


Hình 3.9.

Lỗ vũ hóa của lồi O. hainanensis trên nền di tích (trái) và

Hình 3.10.

đường mui của chúng trong cơng trình (phải)

49

Trạm nhử mối đặt dưới chân cột trong cơng trình

54


MỞ ĐẦU
Mối là nhóm cơn trùng xã hội được xếp vào bộ Cánh đều (Isoptera). Có
khoảng 2.900 lồi mối đã được phát hiện trên thế giới và 141 loài được ghi nhận tại
Việt Nam [36]. Từ lâu con người đã quan tâm chú ý đến mối bởi khả năng phá hại
các vật liệu bằng gỗ của chúng. Mối sống cộng sinh với các vi sinh vật có khả năng
phân giải cellulose, nhờ đó chúng sử dụng các thức ăn có nguồn gốc từ loại vật liệu
này. Mối đem lại lợi ích trong tự nhiên, phân giải thảm mục trả lại mùn cho đất, tuy
vậy đối với đời sống con người, một số loài mối được xem là sinh vật gây hại. Số
loài gây hại chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ so với tổng số lồi mối được tìm thấy trong tự
nhiên. Ước tính có khoảng 183 lồi được biết đến là tấn cơng các cơng trình kiến
trúc và chỉ có 83 loài được xem là gây nguy hại đáng chú ý [26], [16].
Đối với các cơng trình kiến trúc, mối gây suy yếu, có thể dẫn đến phá hủy
các kết cấu của cơng trình. Thiệt hại về kinh tế hàng năm do mối gây ra tại Mỹ
khoảng 1 tỷ đô la, tại Nhật là 800 triệu đô la, tại Úc là 780 triệu đô la và tại Trung
Quốc là hơn 300 triệu đô la (dẫn theo Ghaly, 2011) [35].

Các công trình di tích là những cơng trình kiến trúc có ý nghĩa đặc biệt với
con người về văn hóa, lịch sử. Kết cấu đặc trưng của của loại cơng trình này chủ
yếu bằng các vật liệu gỗ truyền thống, khiến cho chúng trở thành đối tượng bị mối
gây hại nặng nề. Đã có rất nhiều những ghi nhận về tình hình mối gây hại trong
những cơng trình di tích nổi tiếng trên thế giới như tại một số đền thờ ở Trung
Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia, thậm chí cả một số di sản thế giới do
UNESCO công nhận như Khiva… Tại Việt Nam, mối cũng được coi là một trong
những nguyên nhân quan trọng đối với sự xuống cấp của các di tích lịch sử, văn hóa
lâu đời.
Thanh Hố là một trong các tỉnh Bắc Trung Bộ, có vị trí chuyển tiếp giữa
miền Bắc và miền Trung. Các điều kiện tự nhiên tại đây có những đặc trưng rất
khác biệt, tạo cho Thanh Hóa có một hệ động, thực vật đa dạng, đặc biệt là khu hệ
côn trùng phong phú trong đó có mối. Tuy nhiên, những nghiên cứu về mối tại khu
vực này cịn khá ít ỏi và chưa được quan tâm. Thanh Hóa cũng là một vùng đất có
lịch sử lâu đời, có nhiều di tích lịch sử. Theo số liệu mới nhất của Sở Văn hóa, Thể
1


thao và Du lịch tỉnh Thanh Hóa, tồn tỉnh có 715 di tích, trong đó, có 141 di tích
được xếp hạng di tích cấp Quốc gia và 574 di tích được xếp hạng cấp tỉnh. Phần lớn
các di tích lịch sử là đền, đình, chùa, có nhiều vật liệu gỗ trong kiến trúc. Trải qua
thời gian, nhiều di tích đang phải đối mặt với nguy cơ bị xuống cấp do nhiều tác
nhân gây hại khác nhau, trong đó có sự gây hại của mối.
Vì vậy, để đánh giá được hiện trạng mối gây hại di tích trên địa bàn tỉnh
Thanh Hóa, góp phần nâng cao hiệu quả phịng chống mối cho cơng trình di tích nói
chung và di tích lịch sử văn hóa cấp quốc gia trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa nói riêng,
chúng tơi đã tiến hành thực hiện đề tài “Nghiên cứu thành phần loài mối (Insecta:
Isoptera) trong một số cơng trình di tích tỉnh Thanh Hóa và đề xuất biện pháp
phịng trừ” với các mục tiêu chính:
-


Xác định thành phần loài và đặc trưng phân bố của mối tại các di tích trong
tỉnh Thanh Hóa. Hiện trạng mối gây hại các di tích tại tỉnh Thanh Hóa.

-

Xác định các lồi mối gây hại chính trong các di tích tại tỉnh Thanh Hóa.

-

Đề xuất một số biện pháp phịng trừ các lồi mối gây hại chính.
Do hạn chế về thời gian nghiên cứu và hiểu biết nên kết quả trong luận văn

này mới chỉ là những tiếp cận bước đầu cho những nghiên cứu sâu hơn về sau.

2


Chương 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1.

Tình hình nghiên cứu mối hại cơng trình kiến trúc trên thế giới
Trong số hơn 2.800 lồi mối được mơ tả trên thế giới chỉ có 183 lồi được

biết đến là tấn cơng các cơng trình kiến trúc và chỉ có 83 lồi được xem là có gây
nguy hại đáng chú ý [26], [16]. Dựa theo thói quen, bản chất của việc gây hại và
nhất là nhu cầu về độ ẩm, các loài mối gây hại trong cơng trình kiến trúc được chia
làm 3 nhóm. Nhóm mối gỗ khơ có nhu cầu độ ẩm dưới 13%, chúng có khả năng
sống hồn tồn trong các cấu kiện gỗ mà không cần nguồn cung cấp độ ẩm bên
ngồi và đất. Nhóm mối gỗ ẩm sống trong đất, nhưng có khả năng làm tổ trong các

thân cây, gỗ mục và có khả năng tấn cơng làm tổ trong các cấu kiện gỗ của cơng
trình kiến trúc. Nhóm mối đất xây tổ hoàn toàn trong đất hoặc liên hệ chặt chẽ với
đất, độ ẩm phụ thuộc vào đất.
Tại các vùng ôn đới như Hoa Kỳ, Châu Âu hay Nhật Bản, nghiên cứu mối
tập trung vào một số giống mối gây hại thuộc về họ Rhinotermitidae, bao gồm các
giống Reticulitermes, Coptotermes và Heterotermes. Thơng thường hiếm khi có thể
tìm thấy một giống mối khác ngoài các giống mối trên gây hại các cơng trình kiến
trúc tại các khu vực này [48]. Tại Mỹ, có 45 lồi được xem là gây hại và chỉ có 9
lồi trong số chúng là lồi gây hại nghiêm trọng [80]. Trong đó, bao gồm một loài
mối bậc cao Nasutitermes costalis (Holmgren), hai loài mối gỗ khơ: Cryptotermes
brevis (Walker) và Incisitermes minor (Hagen) và 6 lồi mối ngầm: Coptotermes
formosanus Shiraki, C. gestroi (Wasmann), Reticulitermes flavipes (Kollar), R.
virginicus (Banks), R. hesperus Banks, Heterotermes aureus (Snyder) [79], [85].
Ngược lại, các nước nằm trong khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới là nơi có
các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các loài mối, sự đa dạng của các loài
mối tại đây cũng cao hơn hẳn so với tại các khu vực ôn đới. Tại Malaysia và
Singapore, có 12 lồi mối thuộc 7 giống được tìm thấy ở trong và ngồi các cơng
trình

kiến

trúc

(Coptotermes,

Macrotermes,

Microtermes,

Globitermes,


Odontotermes, Schedorhinotermes và Microcerotermes). Tại Thái Lan, các lồi mối
được tìm thấy trong các khu đô thị thuộc 5 giống (Coptotermes, Microcerotermes,

3


Macrotermes, Hypotermes và Odontotermes), trong đó lồi phổ biến nhất là
Coptotermes gestroi [74], [75]. Tại Úc, có 7 giống mối được tìm thấy trong các tịa
nhà và các cơng trình kiến trúc, phổ biến là Coptotermes và Schedorhinotermes
[76].
Để việc phòng chống mối gây hại đạt hiệu quả cao nhất, điều quan trọng là
phải dựa trên những hiểu biết về các đặc tính đặc trưng của các lồi mối, đồng thời
cũng phải nắm rõ mối quan hệ của mối đối với môi trường sống xung quanh, các
yếu tố tự nhiên cũng như sự tương tác trong quần thể mối hoặc quần xã sinh vật
trong khu vực nghiên cứu xử lý [75].
Năm 1996, Sornuwat đã có nghiên cứu tổng hợp về mối Coptotermes gestroi
tại Thái Lan. Trong nghiên cứu này, tác giả đã tìm hiểu các đặc điểm sinh học và
sinh thái của mối như phạm vi kiếm ăn, quần thể kiếm ăn và hoạt động kiếm ăn của
mối C. gestroi, cũng như phản ứng của chúng với một số chất hóa học được sử
dụng trong việc phòng trừ mối. Số lượng cá thể kiếm ăn của loài mối này cũng
trong một quần tộc là khoảng từ 1,13 đến 2,75 × 106 cá thể. Sự biến động về số
lượng cá thể kiếm ăn trong mỗi quần tộc có thể tùy thuộc vào độ tuổi của chúng,
điều kiện môi trường và theo mùa [74]. Năm 2011, Gautam đã tổng hợp những
nghiên cứu của mình về sự tác động của độ ẩm nền đất, độ ẩm khơng khí tương đối
và nhiệt độ đối với sự tồn tại và hành vi kiếm ăn của loài mối Coptotermes
formosanus [34].
Ngày nay, khi hiệu quả của các phương pháp diệt trừ mối bằng bả đã được
chứng minh, việc nghiên cứu chế tạo cũng như cải tiến các sản phẩm bả ngày càng
được quan tâm. Bên cạnh đó, các nghiên cứu về số lượng cá thể, tập tính kiếm ăn,

phạm vi kiếm ăn, dinh dưỡng tương hỗ giữa các cá thể trong quần tộc mối làm cơ
sở cho việc nghiên cứu và sử dụng bả để phòng trừ mối hiệu quả cũng được tăng
cường. Vào năm 1988, Nan Yao Su và Rudolf Scheffrah đã nghiên cứu về quần thể
và phạm vi kiếm ăn của mối Coptotermes formosanus bằng phương pháp đánh dấu
– thả ra – bắt lại. Kết quả cho thấy số lượng cá thể kiếm ăn trong một quần tộc là
khoảng 1,4 – 6,8.106 cá thể, phạm vi kiếm ăn của quần tộc là 162 – 3.571m2 [78].

4


Năm 2004, Ngee P-S và các cộng sự đã nghiên cứu quần thể mối kiếm ăn, đưa ra
chiến lược kiểm sốt lồi mối đất trong mơi trường đơ thị [56].
Ngồi ra có các nghiên cứu của French (2010) đã dựa trên phương pháp vật
lý thực nghiệm và mơ hình tốn học của Reotramel (2003) để hỗ trợ trong việc tính
tốn ước lượng tuổi của mối ngầm tấn công và gây hại trong các cơng trình kiến
trúc [29].
Các đặc điểm về bay phân đàn của mối cũng đã được nghiên cứu từ rất lâu.
Năm 1983, Higa và Tamashiro đã nghiên cứu thời điểm bay giao hoan của mối C.
formosanus tại Hawaii. Tại đây, loài mối này bay phân đàn vào từ tháng 4 đến
tháng 7, trong đó mạnh nhất là vào tháng 5, cùng thời gian bay của hai loài mối gỗ
khô Cryptotermes brevis và Incitistermes immigrans, tuy nhiên thời gian cực đỉnh
có thể muộn hơn 1 – 2 tháng [40].
Năm 2012 tại hội nghị TRG 9, Ching-Chen Lee, Foong-Kuan Foo và ChowYang Lee đã thông báo kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của số lượng cá thể mối và
kích thước hộp ni đến việc duy trì mối Macrotermes gilvus trong phịng thí
nghiệm, nhằm mục đích thử nghiệm các thuốc diệt trừ chúng [49]. Kok-Boon Neoh
và cộng sự (2009) đã nghiên cứu về hoạt động bay trong hai vùng phân bố của
Macrotermes gilvus và Macrotermes carbonarius tại Malaysia. Kết quả cho thấy,
mùa bay giao hoan của mối M. gilvus được ghi nhận trong vòng 7 tháng (từ tháng 3
đến tháng 9) trong khi ở M. carbonarius là từ tháng 11 đến tháng 1. Ngồi ra, các
tác giả cịn nghiên cứu những điều kiện ảnh hưởng đến việc bay giao hoan của

chúng như áp suất khơng khí, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng [54]. Đồng thời, chỉ ra
được thành phần đẳng cấp và kích cỡ tổ mối M. gilvus [55].
Đối với mối gỗ ẩm (Rhinotermitidae), hệ vi sinh vật trong ruột của chúng
đóng một vai trị rất quan trọng, phân giải thức ăn thành những thành phần đơn giản
hơn, giúp mối có khả năng tiêu hóa thức ăn. Chính vì vậy, việc nghiên cứu hệ vi
sinh vật trong ruột mối cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng trong nghiên cứu
phòng trừ mối. Năm 2013, König và các cộng sự đã tổng hợp và nghiên cứu khu hệ
vi sinh vật phân giải cellulose trong ruột mối một cách toàn diện [46]. Hệ thống
phát sinh phân tử của quần xã vi sinh vật trong ruột mối Coptotermes formosanus
5


được nghiên cứu bằng cách sử dụng dòng gen 16S rRNA thông qua phương pháp
PCR. Kết quả cho thấy 94% các dịng vi khuẩn thuộc về các nhóm Bacteroidales,
Spirochaetes, các vi khuẩn gram dương (Clostridiales, Mycoplasmatales, Bacillales,
và Lactobacillales) [70].
Trong nhóm mối bậc cao thì mối có vườn cấy nấm được tập trung nghiên
cứu hơn cả. Một mặt vì chúng là nhóm mối gây hại chính cho rất nhiều cơng trình
trong đó có cả cơng trình kiến trúc, đê đập và cây trồng, mặt khác cịn do chúng có
tập tính phức tạp trong sự thu nhận và chế biến thức ăn. Do có khả năng cộng sinh
với nấm Termitomyces trong tổ, chúng có phổ thức ăn từ cellulose rất rộng, tính
thích nghi cao và rất khó xử lý bằng phương pháp sử dụng bả. Nghiên cứu mối quan
hệ của mối và nấm Termitomyces góp phần quan trọng trong nghiên cứu việc kiểm
soát mối bằng cách kiềm chế sự hoạt động của nấm [27]. Trong nghiên cứu của
mình Aanen và cộng sự (2002) đã cho thấy sự lan truyền của nấm trong các tổ mối
theo cả chiều ngang và chiều dọc [15].
Các phương pháp phòng chống mối đã được nghiên cứu triển khai song
song, đồng thời với những hiểu biết về sinh học, sinh thái học. Lý Đông (1994)
trong cuốn “Vương quốc thần bí hay Bí mật của lồi mối” đã tổng hợp tất cả những
kiến thức chung về mối như tập tính, vịng đời, đặc điểm gây hại... Vào năm 1999,

tập thể các nhà nghiên cứu mối của Quảng Đông đã cùng cho xuất bản cuốn sách
“Nghiên cứu mối”, ngoài phần giới thiệu chung, mỗi tác giả lại đi sâu vào từng chủ
đề như mối hại cơng trình thủy lợi, mối hại cơng trình kiến trúc, mối hại cây xanh.
Lin Shu - Qing (2004) cùng các nhà khoa học của Trung tâm Phịng trừ mối tồn
quốc cũng biên soạn cuốn “Sổ tay hướng dẫn phòng trừ mối ở Trung Quốc”. Nội
dung cuốn sách bao gồm tất cả các kiến thức chung về mối như hình thái giải phẫu,
đặc điểm sinh học, sinh thái học cũng như thành phần loài và các biện pháp phịng
trừ. Năm 1986, trong cuốn sách của mình Edwards và Mill đã đưa ra được các đặc
điểm sinh học, nhận dạng phân bố, vịng đời, cũng như khóa phân loại đến các họ
mối. Ngoài ra, tác giả cũng nêu lên được các tác động về kinh tế của mối đến các
cơng trình kiến trúc. Các phương pháp xử lý mối, trong đó tập trung vào phương
pháp hóa học [26].
6


Ngày nay, với sự phát triển mạnh của công nghệ sinh học, trong các nghiên
cứu về mối hại cơng trình kiến trúc, việc ứng dụng công nghệ ADN, công nghệ gen
cũng được sử dụng rộng rãi. Đã có nhiều nghiên cứu nhằm xác định hệ thống phân
loại của các nhóm mối như Coptotermes, Reticulitermes, Odontotermes [91]. Năm
2009, Yeap và các cộng sự đã dựa vào bằng chứng sinh học phân tử khi xếp 11 lồi
mối Coptotermes thành 6 nhóm. Các tác giả đã nhận định rằng C. cochlearus and C.
dimorphus có khả năng chỉ là lồi đồng dạng với C. formosanus do sự sai khác về
ADN chỉ lên đến 1% [93].
Các nghiên cứu về mối trên thế giới tập trung vào tìm kiếm các biện pháp
phịng trừ. Việc kiểm sốt mối cho một cơng trình kiến trúc bao gồm sự kết hợp của
các biện pháp bảo vệ như các hàng rào hóa học, vật lý.
Các rào cản vật lý được áp dụng cho việc ngăn chặn mối xâm nhập vào các
cơng trình kiến trúc, phát hiện tổ mối cũng như để diệt trừ mối. Harrington (2004)
đã đưa ra một rào cản để ngăn chặn xâm nhập của mối trên bề mặt của một cấu trúc,
bao gồm một chất keo dính có khả năng cản trở và bẫy mối trên bề mặt [39]. Các

nhà khoa học cũng nghiên cứu sử dụng các biện pháp và thiết bị điện tử để bảo vệ
các cơng trình khỏi sự phá hoại của các đàn mối đi kiếm ăn bằng việc kiểm soát số
lượng và phạm vi hoạt động của chúng. Có một số lượng khá lớn các công nghệ chú
trọng vào việc sử dụng sóng điện từ để kiểm sốt hoạt động, sự di chuyển và số
lượng cá thể của đàn mối đi kiếm ăn. Ví dụ như ở phát kiến của Pedersen (1995),
tác giả đã trình bày phương pháp xử lý mối qua cách tạo nhiệt làm nóng các khu
vực có mối sinh sống bằng năng lượng vừa phải của sóng điện từ [59]. Ở phát kiến
của mình, Lawrence (1993) mơ tả một phương pháp và thiết bị sử dụng tần số quét
để diệt mối. Thiết bị là một dụng cụ tạo ra nguồn điện cao thế kết hợp với thiết bị
truyền năng lượng điện tử để xử lý mối [47]. Mankin (2002) đã sử dụng hệ thống
máy âm xách tay, tần số thấp để tìm mối hại các cây trong thành phố [52]. Từ các
thử nghiệm thành công ở hiện trường, họ cho biết hệ thống âm có khả năng phát
hiện và kiểm tra mối hại ngầm cho cây trong thành phố và xung quanh cơng trình,
hỗ trợ việc tìm và kiểm tra mối bên trong cơng trình. Ứng dụng năng lượng sóng
siêu âm cũng đã được nghiên cứu trong xử lý mối. Ví dụ như phát kiến do
7


Biederman (1996) mơ tả phương pháp sử dụng sóng siêu âm để diệt quần tộc mối
[21]. Gần đây nhất là phát kiến số WO 2007/037899 của Amburgey, họ sử dụng
một nguồn điện tử có tần số nhỏ hơn 4000 Hz với cường độ 1miliwat - 1kw như là
một nguồn hấp dẫn mối. Nguồn điện tử bao gồm một điện thế và một anten gắn lên
hoặc gần kề với chất hấp dẫn mối. Nguồn điện từ có tần số 1 - 4000Hz có thể được
phát ra bởi một oscillator và một anten. Tùy thuộc vào phạm vi vùng cần được bảo
vệ, mà cường độ nguồn điện của đầu ra có thể chạy từ 1mmw đến 1kw [20]. Farah
Diba và cộng sự (2013) phát triển các phương pháp sử dụng điện từ máy sóng để
kiểm sốt mối ngầm Coptotermes curvignathus Holmgren và Coptotermes
formosanus Shiraki. Tần số của sóng điện từ được sử dụng trong nghiên cứu này là
30 Hz ~ 300 Hz, 0,3 KHz ~ 3 KHz, và 3 KHz ~ 300 KHz với sự thay đổi của thời
gian phơi sáng chiếu xạ (15, 30, 45 và 60 phút) cho C. curvignathus Holmgren. Kết

quả tối ưu đã đạt được trên máy phát sóng điện từ với tần số 300 KHz và thời gian
chiếu xạ khoảng 60 phút cho cả C. curvignathus Holmgren và C. fcormosanus
Shirak [25].
Ngồi các phương pháp vật lý thì các phương pháp tiếp cận trong việc sử
dụng hóa chất để diệt trừ và ngăn cản mối đã được sử dụng từ những hơn 80 năm
trước. Việc xử lý bằng các chất hóa học trong đất tạo ra một rào cản hóa học trong
đất, ngăn khơng cho mối xâm nhập từ mơi trường tự nhiên vào các cơng trình cần
bảo vệ. Phương thức này được thực hiện theo hai cách: áp dụng cho đất trước khi
đổ sàn và chu vi quanh cơng trình hoặc xung quanh tường nhà và đồ nội thất (đối
với cơng trình đã xây dựng) [60]. Ban đầu, các hóa chất được sử dụng là các hợp
chất của arsen được sử dụng để bảo vệ các cấu kiện bằng gỗ [62], [65]. Từ những
năm sau của thập kỉ 40 của thế kỉ 20, việc kiểm soát mối chuyển sang sử dụng chất
hóa học cho việc xử lý đất bằng các hợp chất clo hữu cơ (cyclodiene) [80]. Tuy
nhiên, các hợp chất này gây độc khá cao đối với môi trường cũng như với sức khỏe
con người, do đó chúng đã bị cấm sử dụng vào năm 1988. Sau đó người ta chuyển
sang sử dụng các hợp chất phosphate hữu cơ như chlorpyrifos, pryfon và các
pyrethroid tổng hợp. Tuy nhiên, các chlorpyrifos nhanh chóng bị ngừng sử dụng
cho lượng tồn dư ngắn và các phản ứng không tốt đối với môi trường, gây độc cao
8


đối với động vật và con người nhưng lại ít độc với mối đất ngầm [50], [73]. Các
pyrethroid tổng hợp mặc dù có tác dụng trong việc tiêu diệt mối bằng phương pháp
tiếp xúc trực tiếp nhưng đặc tính xua đuổi của chúng khiến cho các mối thợ khác
phát hiện ra hóa chất và sẽ tránh xa các khu vực được xử lý [79]. Do đó, việc sử
dụng các thuốc diệt cơn trùng khơng có tác dụng xua đuổi trong q trình kiểm sốt
mối đất ngầm đã trở nên rất phổ biến từ những năm cuối thập niên 90 và đầu những
năm 2000. Một phần nào đó do tác động chậm của các thuốc diệt côn trùng cho
phép mối được xử lý có thể truyền các chất độc qua cá thể cùng tổ và dạng sinh sản
thông qua tương tác xã hội dẫn đến kết quả loại trừ được các tổ mối [34].

Những phản ứng bất thường của mối khi bị xử lý với thuốc diệt côn trùng đã
được nghiên cứu và ghi nhận. Năm 2007, Quarcoo đã tìm cách kiểm tra ảnh hưởng
của nồng độ thuốc và thời gian tiếp xúc với đất đã được xử lý thuốc đối với mối
ngầm Reticulitermes theo cá thể và theo nhóm. Khởi đầu của hành vi bất thường
phụ thuộc vào cả nồng độ và thời gian tiếp xúc với đất được xử lý bằng indoxacarb
[63]. Ab Majid, Abdul Hafiz (2008) đã nghiên cứu về hành vi kiếm ăn và đánh giá
tác động của hoạt chất imidacloprid trong việc kiểm soát mối ngầm [51]. Casarin và
cộng sự (2009) đã tiến hành 2 thử nghiệm sinh học lần lượt đánh giá hiệu quả của a
xít boric và fipronil chống lại các quần thể C. gestroi khác nhau. Dữ liệu cho thấy
mối chết nhanh khi nhiễm fipronil, kể cả với liều lượng nhỏ, vì thế fipronil không
phù hợp để sử dụng làm bả. Nghiên cứu hiện tại cho thấy độc chất tác động chậm
của a xít boric chống lại mối ngầm C. gestroi được khuyến cáo thử nghiệm rộng
hơn trên hiện trường [28].
Từ giữa những năm 90, hệ thống trạm bả diệt mối bắt đầu được sử dụng
trong việc phòng trừ mối nhằm thay thế các hợp chất chống mối dưới dạng lỏng do
các quan ngại về môi trường, đầu tiên là tại Mỹ. Các hệ thống trạm bả khác nhau
với các thiết kế và hoạt chất khác nhau đã được sử dụng ngày càng phổ biến, ví dụ
như Sentricon TM system (hoạt chất: hexaflumuron, Dow AgroSciences),
FirstLine® (hoạt chất: sulfuramid; FMC Corp.), hydramethylnon bait (hoạt chất:
Chất ức chế trao đổi chất, American Cyanamid Co.), Exterra® (hoạt chất:
diflubenzuron, Ensystex) [61]. Phương pháp này lợi dụng tập tính kiếm ăn và sự
9


truyền thức ăn trong tổ của mối để làm giảm số lượng quần thể mối hoặc loại trừ
hoàn toàn tổ mối [85].
Một vấn đề khi kiểm soát mối trong các khu đơ thị tại các vùng nhiệt đới là
có nhiều nhóm mối cùng một lúc xâm hại các cơng trình ở đây, trong đó có cả nhóm
mối bậc cao (Termitidae). Nghiên cứu của Klangksew Chirasak và cộng sự (2002)
về mối gây hại trong các khu đô thị cho thấy mặc dù C. gestroi là loài gây hại phổ

biến nhất trong và xung quanh cơng trình kiến trúc nhưng trong mơi trường đơ thị
thì họ mối Termitidae vẫn là họ có số lượng loài đa dạng nhất [45]. Nếu chỉ xử lý
nhóm mối gỗ ẩm thì sẽ gia tăng sự phát triển của nhóm mối bậc cao. Tuy nhiên
nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc loại trừ các tổ mối bậc cao bằng phương pháp
sử dụng bả, đặc biệt là đối với nhóm mối có xây dựng vườn nấm (Macrotermitinae)
là khá khó khăn. Lee Chow Yang chỉ ra rằng việc loại trừ các tổ mối Macrotermes
gilvus sẽ khó khăn hơn khi vùng bị nhiễm trước đó đã được xử lý bả đối với
Coptotermes. M. gilvus được tìm thấy trong nhà chỉ sau khoảng 2 tháng sau khi tổ
mối Coptoteremes bị yếu đi hoặc bị loại trừ. Phương pháp thường được áp dụng để
xử lý vấn đề này là sử dụng các thuốc hóa học nhằm xử lý đất ngăn ngừa mối [48].
Tuy nhiên, cũng có một số nghiên cứu về bả sử dụng cho nhóm mối bậc cao. Năm
2006, các nhà khoa học Qiu-ying Huanga, Chao-liang Leib và Dong Xue đã tiến
hành đánh giá hiệu quả của bả fipronil đối với mối Odontotermes formosanus, một
trong những lồi mối có vườn cấy nấm gây hại nhiều cho các cơng trình kiến trúc.
Kết quả cho thấy khoảng 3 - 5mg fipronil có thể hạn chế được tổ mối O.
formosanus có khoảng 0,4 - 0,7 triệu mối thợ kiếm ăn [42]. Neoh Kok Boon và
cộng sự (2011) đã có những nghiên cứu về việc sử dụng bả có hoạt chất bistrifluron
trong việc loại trừ các tổ mối Globitermes sulphureus [55]. Mo và cộng sự (2005)
đã nghiên cứu độc tính của acetamiprid đối với mối thợ của một số lồi mối gây hại
cho cơng trình kiến trúc trong đó có lồi O. formosanus. Hơn 90% cá thể mối chết
trong 120 giờ sau khi tiếp xúc với đất có chứa 4,8 ppm acetamiprid [53].
Ngồi ra, Indrayani (2010) đã bước đầu thí nghiệm bả diệt mối gỗ khơ
Incisitermes minor trong phịng thí nghiệm. Hợp chất bả được dùng dưới dạng gel
với thành phần gồm hoạt chất (2,15% hydramethylnon) và chất hấp dẫn được sử
10


dụng để thử nghiệm. Nghiên cứu cho thấy việc sử dụng bả dạng gel có thể áp dụng
cho việc loại trừ mối gỗ khô và khuyến cáo nghiên cứu sâu hơn để áp dụng phương
thức này cũng như việc xây dựng hệ thống trạm bả để xử lý mối gỗ khô [43].

Mark Janowiecki (2012) đã nghiên cứu tác động của các tác nhân sinh
trưởng đến quần thế mối Reticulitermes flavipes, sử dụng các hóa chất kìm hãm
sinh trưởng để phịng trừ chúng [44]. Phát kiến của Nan-Yao Su và các cộng sự
(2011) đã nghiên cứu và đưa ra phương thức cho việc sử dụng hóa chất trong bả
diệt mối bằng cách kết hợp các hợp chất đẩy nhanh quá trình lột xác và các chất ức
chế tổng hợp kitin. Sự kết hợp này thể hiện sự tăng cường hoạt động của mối hơn
hẳn so với hai nhóm hợp chất riêng biệt [83].
Những năm gần đây, việc sử dụng các hợp chất hóa học trong phịng trừ mối
ngày càng được khuyến cáo hạn chế do các ảnh hưởng đến môi trường hoặc đối với
sức khỏe con người. Nhằm hạn chế những tác hại đó, những nghiên cứu về phịng
trừ mối gần đây có xu hướng nghiêng về việc sử dụng cátermes domesticus
(mối gỗ khơ). Tổ của lồi mối này nằm hồn toàn trong các cấu kiện gỗ, số lượng cá
thể hạn chế, vì vậy dễ bị tiêu diệt hơn so với lồi thuộc nhóm mối gỗ ẩm và nhóm
mối đất.
* Biện pháp lây nhiễm: Nguyên lý của biện pháp này là sử dụng các hộp
chứa thức ăn đặt vào những nơi mối hay đến kiếm ăn nhằm thu hút các cá thể mối
đến ăn. Sau đó phun các chất độc tác dụng chậm lên mình các cá thể mối. Nhờ tập
tính làm sạch cơ thể và mớm thức ăn cho nhau, các cá thể này mang chất độc về tổ
và truyền chất độc cho các cá thể khác, gây ngộ độc cho cả đàn mối.
Về lý thuyết, biện pháp này đơn giản và dễ phổ cập, tuy nhiên để thành cơng
địi hỏi phải nhử được trên 15% số cá thể của tổ. Đối với nhóm mối có vườn cấy
nấm thường khơng thể nhử được số lượng cá thể lớn và đặc biệt khơng nhử được
mối gỗ khơ. Do đó, biện pháp này chỉ có tác dụng đặc hiệu với nhóm mối gỗ ẩm.
Mặt khác, do diện tích cơ thể nhỏ nên đại đa số thuốc độc bị phát tán ra môi trường,
chỉ một lượng nhỏ theo mối về tổ, do đó dễ gây ơ nhiễm mơi trường. Vì vậy, biện
pháp này nên hạn chế sử dụng.

51



* Biện pháp lập hàng rào ngăn mối trong và ngồi cơng trình: Ngun lý
của phương pháp này là sử dụng hóa chất có độ độc và bền cao để trộn vào đất làm
hàng rào ngăn mối xâm nhập từ ngồi vào và từ nền lên cơng trình.
Tuy khơng có tác dụng diệt mối đang gây hại nhưng phương pháp này có
hiệu quả phịng mối cao. Tuy nhiên, do hóa chất được trộn vào trong đất, nếu ở điều
kiện mực nước ngầm cao như những di tích vùng ven biển và vùng đồng bằng sẽ dễ
gây ô nhiễm môi trường. Vì vậy, biện pháp này chỉ nên thực hiện để phịng mối cho
các cơng trình ở vùng đồi, trung du.
3.4.1.3. Một số biện pháp xử lý phòng trừ mối tiên tiến trong cơng trình kiến trúc ở
nước ta và trên thế giới
* Biện pháp sử dụng chế phẩm sinh học diệt mối: Nguyên lý của phương
pháp này là dùng các tế bào vi sinh vật gây bệnh cho mối phun lên cá thể mối, nhờ
các cá thể này mang mầm bệnh về và truyền bệnh cho các cá thể khác trong tổ. Biện
pháp này khơng dùng hóa chất nên hầu như không gây ô nhiễm môi trường. Biện
pháp này được các nước tiên tiến như Mỹ, Úc khuyến khích áp dụng và đã sử dụng
thành công ở Mỹ.
Hiện nay, ở nước ta đã sản xuất thành công chế phẩm Metarhizium, được thử
nghiệm rất hiệu quả đối với nhóm mối có vườn cấy nấm. Sau khi xác định được vị
trí tổ mối, dùng máy khoan hoặc thuốn khoan sâu vào khoang tổ, bơm trực tiếp chế
phẩm vào khoang tổ.
* Biện pháp sử dụng bả độc để diệt mối: Nguyên lý của biện pháp này là
dùng chất độc trộn vào thức ăn tạo thành bả độc dành cho mối. Biện pháp này cũng
áp dụng nguyên tắc lây nhiễm, tuy nhiên bả được sản xuất dạng thanh, viên nén nên
khi sử dụng bả, phần cịn lại sau khi mối ăn có thể thu dọn dễ dàng nên khả năng
gây ô nhiễm môi trường là rất thấp. Hiện nay, một dạng bả này được nghiên cứu và
chế tạo thành công bởi Viện Sinh thái và Bảo vệ cơng trình, sử dụng hoạt chất là
Hexaflumuron (thuộc nhóm ức chế sinh tổng hợp kitin) và chất nền là bột gỗ đã
được lên men với một chủng nấm sợi đặc hiệu.

52



3.4.2. Đề xuất biện pháp phịng trừ hiệu quả
Các cơng trình di tích đã được tỉnh và Nhà nước xếp hạng khơng đơn thuần
là những cơng trình kiến trúc bình thường mà ẩn chứa trong nó là những giá trị vật
thể và phi vật thể vơ giá. Vì vậy, việc lựa chọn giải pháp phịng trừ mối ngồi việc
phải đạt được hiệu quả phòng trừ mối lâu dài còn phải hạn chế tối đa việc tác động
vào di tích, đảm bảo giữ được mỹ quan cho di tích cũng như không làm ô nhiễm
môi trường bên trong và xung quanh di tích.
Từ những cơ sở về đặc điểm sinh học, sinh thái học của 3 lồi mối gây hại
chính và những ưu, nhược điểm của các phương pháp xử lý phịng trừ mối hiện nay,
chúng tơi đề xuất áp dụng các biện pháp phòng trừ như sau:
* Bước 1: Xử lý tất cả các đàn mối đang gây hại bên trong và xung quanh
cơng trình di tích
- Đối với lồi Cryptotermes domesticus: Do cấu trúc tổ nằm hoàn toàn trong
cấu kiện gỗ, số lượng trong tổ chỉ khoảng vài trăm cá thể, ngồi ra khơng thể dùng
mồi nhử đối với nhóm mối gỗ khơ. Do đó, việc áp dụng biện pháp xông hơi là biện
pháp tối ưu để diệt chết những tổ mối đang tấn cơng trong cơng trình.
- Đối với lồi Odontotermes hainanensis: Đã có một số thử nghiệm sử dụng
bả đã được áp dụng với loài này, tuy nhiên lồi này thuộc nhóm mối có vườn cấy
nấm nên khả năng khai thác và tiêu hóa trực tiếp bả cịn cần có những nghiên cứu
sâu hơn. Do cấu trúc tổ nằm chìm trong lịng đất, nên việc xác định vị trí tổ phải
dựa theo dấu hiệu lỗ vũ hóa vào thời điểm mùa mối cánh bay giao hoan. Khi xác
định được vị trí tổ, sử dụng khoan hoặc thuốn, khoan sâu vào khoang tổ, dùng chế
phẩm Metarhizium bơm vào khoang tổ để diệt chết đàn mối. Sử dụng biện pháp này
vừa đạt hiệu quả diệt mối cao, đảm bảo diệt chết tận gốc tổ mối, vừa không gây ô
nhiễm mơi trường.
- Đối với lồi Coptotermes gestroi: Việc xác định vị trí tổ của lồi này là vơ
cùng khó khăn, vì thế khơng thể áp dụng phương pháp như đối với loài
Odontotermes hainanensis. Tuy nhiên, với đặc điểm khai thác gỗ làm thức ăn và

tiêu thụ trực tiếp, đồng thời dễ dàng nhử bằng mồi nhử nên việc áp dụng biện pháp
dùng bả là tối ưu. Hiện nay, ở nước ta đã sản xuất thành cơng bả diệt mối. Vì vậy,
53


việc áp dụng biện pháp này vừa có hiệu quả diệt được mối, vừa tiết kiệm được chi
phí xử lý.
Các bước chính trong việc sử dụng bả để xử lý mối:
+ Khảo sát, xác định vị trí hoạt động của mối trong cơng trình.
+ Đặt hộp nhử/trạm quan trắc thu hút mối (hình 3.10.).
+ Kiểm tra và cho bả vào hộp/trạm nhử mối.
+ Kiểm tra và bổ sung bả nếu cần.
+ Thu dọn hiện trường.

Hình 3.10. Trạm nhử mối đặt dưới chân cột trong Đền thờ Lê Đình Kiên
(Nguồn: Nguyễn Thị My)
* Bước 2: Phòng chống mối tái xâm nhập vào di tích
Việc xử lý diệt các tổ mối xử lý tất cả các đàn mối đang gây hại bên trong,
bên ngồi và xung quanh cơng trình di tích cần phải đi kèm với cơng đoạn phịng
chống mối tái xâm nhập để đảm bảo hiệu quả lâu dài.
Sử dụng bả phịng mối thay thế cho các hóa chất độc hại đang được các nước
tiên tiến trên thế giới đặc biệt chú trọng. Các cơng đoạn trong biện pháp phịng cũng
tương tự như biện pháp diệt, chỉ có điều phải giám sát định kỳ phát hiện mối xâm
nhập để xử lý.

54


* Bước 3: Giám sát định kỳ cơng trình bảo đảm an tồn về mối
Việc xử lý phịng trừ mối hại cơng trình di tích là việc làm thường xun,

cần theo dõi, giám sát định kỳ. Để áp dụng được các phương pháp trên, cần một số
cán bộ quản lý nắm được những kiến thức tổng quát. Vì thế sau khi xử lý mối, phải
triển khai bước tập huấn cho các cán bộ trực tiếp quản lý di tích:
+ Tập huấn kiến thức và hướng dẫn cách kiểm tra và phát hiện sớm các dấu
hiệu hoạt động của mối cho cán bộ quản lý di tích.
+ Hướng dẫn kiểm sốt các vật liệu có nguồn gốc xenlulose đưa vào di tích
cho người dân và cán bộ quản lý di tích.
+ Hướng dẫn cách kiểm tra định kỳ hệ thống phòng mối bằng trạm nhử.
+ Hướng dẫn cách vệ sinh và thu dọn các nguồn thức ăn tiềm tàng của mối
có trong phạm vi di tích.

55


KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ

KẾT LUẬN
Từ kết quả nghiên cứu trên, một số kết luận được rút ra như sau:
1.

Đã xác định được 18 loài mối thuộc 11 giống, 5 phân họ, 3 họ

(Kalotermitidae, Rhinotermitidae, Termitidae) có mặt trong các khu di tích trên địa
bàn tỉnh Thanh Hóa. Trong đó giống Odontotermes (4 loài, chiếm 22,22% tổng số
loài), tiếp đến là giống Macrotermes (3 loài, 16,67%); giống Coptotermes, và
Hypotermes mỗi giống có 2 lồi (11,11%), các giống cịn lại chỉ có 1 lồi (5,56%
tổng số lồi). Kết quả nghiên cứu đã ghi nhận thêm 11 loài mối cho khu vực Thanh
Hóa.
2.
-


Phân bố của mối trong khu vực nghiên cứu được thể hiện như sau:

Các di tích vùng đồng bằng có số lượng loài nhiều nhất (16 loài, bằng 88,9%
tổng số loài), tiếp đến là vùng trung du 12 loài (66,7%) vùng ven biển có số
lượng lồi thu được ít nhất (5 lồi, 27,8%).

-

Ở mơi trường xung quanh di tích có tới 17 loài, chiếm 94,44% tổng số loài
điều tra, trong khi khu vực bên trong các hạng mục của khu di tích số lồi ít
hơn nhiều, chỉ thu được 7 lồi, chiếm 38,89% tổng số lồi.
3.

Trong số 33 cơng trình di tích điều tra có 25 cơng trình di tích đang bị

mối gây hại (chiếm 81,82%), 17 cơng trình bị 1 lồi gây hại ( 51,51%), 6 cơng trình
bị 2 lồi gây hại (18,18% ) và 2 cơng trình bị 3 loài gây hại (6,06%).
4.

Đã xác định được 7 loài mối gây hại đối với các cơng trình di tích trên

địa bàn tỉnh Thanh Hóa là Cryptotermes domesticus,

Coptotermes gestroi,

Hypotermes makhamensis, Microtermes pakistanicus, Odontotermes formosanus,
O. hainanensis, O. proformosanus. Trong đó ba lồi xâm hại nhiều di tích, có tỉ lệ
bắt gặp cao là Cryptotermes domesticus, Coptotermes gestroi và Odontotermes
hainanensis, được xác định là lồi gây hại chính trong cơng trình.

5.

Biện pháp đề xuất phịng trừ các lồi mối gây hại chính gồm 3 bước

chính: Xử lý tất cả các đàn mối đang gây hại bên trong và xung quanh cơng trình di

56


tích; phịng chống mối tái xâm nhập vào di tích và giám sát định kỳ cơng trình đã
xử lý bảo đảm an toàn về mối.
ĐỀ NGHỊ
1.

Tiếp tục nghiên cứu bổ sung đặc điểm sinh học, sinh thái của mối như

đặc điểm bay giao hoan, thức ăn… của các loài mối gây hại trong các di tích trên
địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
2.

Tiến hành thử nghiệm và đánh giá hiệu quả của các phương pháp

phòng trừ đã đề xuất.

57


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu Tiếng Việt
1. Tạ Kim Chỉnh, Nguyễn Đức Khảm (1996), "Bước đầu thử nghiệm độc tính

của một số chủng vi nấm chống mối hại nhà cửa và mối hại cây vải thiều",
Tạp chí Sinh học, 18, 39-45.
2. Tạ Kim Chỉnh, Nguyễn Hồng Hà, Hà Thị Quyến, Hoa Thị Minh Tú (2001),
"Một số đặc điểm sinh học của hai chủng vi nấm metarhizium Ma.6 và
Beauveria Bb.98 phân lập từ những nguồn mẫu khác nhau và hiệu lực diệt
mối (Coptotermes) của chúng", Tạp chí Sinh học, 23 (2), 55-59,50.
3. Trịnh Đình Đạt, Ngơ Thị Hoan, Đinh Nho Thái, Đinh Đồn Long (2005),
"Sự đa hình di truyền hệ izozym esteraza của hai loài mối Macrotermes
gilvus và Macrotermes carbonarius ở Miền Nam Việt Nam", Tạp chí Khoa
học, Khoa học Tự nhiên và Công nghệ, TXX, 2AP, 93-97.
4. Trịnh Văn Hạnh, Nguyễn Quốc Huy, Bùi Công Hiển (2008), “Kết quả
nghiên cứu ni mối Coptotermes formosanus tách chúa trong điều kiện
phịng thí nghiệm”, Báo cáo khoa học Hội nghị côn trùng học lần thứ 6, Nhà
xuất bản Nông nghiệp.
5. Trịnh Văn Hạnh, Nguyễn Quốc Huy, Ngô Xuân Nam, Lưu Trường Bách,
Nguyễn Nguyên Hằng, Nguyễn Văn Vịnh, Lê Thế Sự, Đỗ Ngọc Dương
(2014), "Đa dạng lồi một số bộ cơn trùng tại khu bảo tồn thiên nhiên Pù
Lng, tỉnh Thanh Hóa", Báo cáo khoa học Hội nghị Côn trùng học lần thứ
8, Nhà xuất bản Nông nghiệp.
6. Trịnh Văn Hạnh, Định Xuân Tuấn (2007), "Nghiên cứu xản xuất chế phẩm
Metavina 80LS để diệt mối O. hananensis (Isoptera, Macrotermitinae) hại
cơng trình đê và đập đất", Tạp chí NN & PT nơng thơn, 10+11, 99-104.
7. Bùi Công Hiển, Trịnh Văn Hạnh, Nguyễn Quốc Huy (2013), “Sinh vật gây
hại di tích ở Việt Nam, cách đánh giá và ngun tắc phịng trừ”, Tạp chí Di
sản văn hóa vật thể, 4(45), 47-54.
58


×