Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

Đề tài “Tự học là giải pháp quan trọng để nâng cao kết quả học tập cho học sinh Trường THCS La Phù”.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (770.1 KB, 28 trang )

PHẦN CHUNG
I. Lí do chọn đề tài
Lê - nin từng nói: “Học, học nữa, học mãi”. Đó là bài học có giá trị ở mọi thời
đại, đặc biệt trong xã hội ngày nay đang hướng tới nền kinh tế tri thức, nó địi hỏi mọi
người phải vận động, phải học tập không ngừng để theo kịp sự phát triển của xã hội.
Học tập là hoạt động tiếp thu những tri thức của nhân loại đã được đúc kết qua
chiều dài lịch sử. Có nhiều con đường để học tập. Học để làm giàu tri thức, nâng cao
trình độ hiểu biết. Học tập giúp ta có khả năng làm chủ, chung sống và để làm việc.
Muốn vậy, chúng ta phải có phương pháp tốt thì việc học tập mới hiệu quả. Có rất
nhiều phương pháp nhưng quan trọng nhất chính là phương pháp tự học. Hồ Chí Minh
từng khẳng định: “Trong cách học, phải lấy tự học làm cốt.” Luật Giáo dục Việt Nam
cũng chỉ rõ: “Phương pháp giáo dục phải phát huy tính tích cực, tự giác chủ động, tư
duy sáng tạo của người học; bồi dưỡng năng lực tự học của người học...”.Từ xưa tới
nay đã có bao nhiêu bậc vĩ nhân thành đạt nhờ phương pháp tự học. Đó chính là những
tấm gương sáng cho ta noi theo. Thành cơng sẽ đến với những ai kiên trì, tích cực tự
học. Lịch sử càng dài thì kho tri thức của nhân loại càng đồ sộ và nhu cầu học để có
kiến thức của con người càng lớn. Để đáp ứng được nhu cầu đó, ta cần phải tìm cho
mình phương pháp học tập phù hợp. Trong đó quan trọng hơn hết là phương pháp tự
học.
Thực tế, ở Trường Trung học cơ sở La Phù, việc học của nhiều bạn học còn là
gánh nặng, do các bạn thụ động, chỉ tiếp thu một chiều, trông chờ vào thầy cô, chưa
chủ động, tích cực học tập. Nhiều bạn chưa thấy được vai trò thực sự của việc tự học;
một số khác hiểu được điều đó thì lại lười chưa tìm được cách tự học hiệu quả mà ỷ
nại... Vì vậy, chất lượng học tập, kỹ năng sống chưa đạt được như mong muốn. Điều
đó khiến chúng em rất băn khoăn trăn trở.
Từ những trăn trở đó chúng em mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “Tự học là giải
pháp quan trọng để nâng cao kết quả học tập cho học sinh Trường Trung học cơ sở La
Phù”.
II. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
1. Ý nghĩa khoa học


1


- Bổ sung thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề tự học trong học tập nói chung và
trong đào tạo giáo dục cấp Trung học cơ sở nhằm nâng cao hiệu quả của việc tự học
cho học sinh Trường Trung học cơ sở La Phù.
- Bổ sung thêm lí luận cho cơng tác phát triển giáo dục của trường.
- Nội dung đề tài có thể làm tài liệu cho các môn học, kĩ năng sống cho học sinh
2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài có thể sử dụng là những chỉ dẫn thực tế vấn đề tự học của học sinh
trường Trường Trung học cơ sở La Phù nói riêng, các trường trung học cơ sở nói
chung. Từ đó xây dựng được phương pháp tự học hiệu quả cho học sinh trong trường
để có thể đáp ứng tốt các yêu cầu của nền giáo dục hiện đại.
III. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về vấn đề tự học và khảo sát thực trạng việc tự học của các bạn
học sinh Trường Trung học cơ sở La Phù .
- Đề xuất giải pháp đẩy mạnh hoạt động tự học cho học sinh Trường Trung học cơ sở
La Phù.
IV. Giới hạn, phạm vi nghiên cứu
1. Giới hạn:
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài: Hoạt động tự học của học sinh Trường Trung học
cơ sở La Phù.
- Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 6/2018 – 10/2018, được chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn tìm hiểu và thu thập thông tin thực tế.
+ Giai đoạn thực hiện nghiên cứu và tổng hợp tri thức, viết bài.
2. Phạm vi nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Học sinh Trường Trung học cơ sở La Phù.
- Nội dung nghiên cứu của đề tài: Tập trung nghiên cứu, khảo sát nhận thức, thực trạng
kết quả việc tự học của học sinh trong trường và những giải pháp nhằm nâng cao ý

thức tự học cho các bạn học sinh của trường mình.
V. Phương pháp nghiên cứu
1. Phương pháp luận
Các quan niệm về vấn đề tự học, vai trò, nguyên tắc, các phương pháp tự học.
2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể

2


1. Phương pháp luận
Các quan niệm về vấn đề tự học, vai trò, nguyên tắc, các phương pháp tự học.
2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.1. Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Tổng quan các tài liệu nghiên cứu có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, xây dựng cơ sở lý luận cho việc nghiên
cứu vấn đề tự học; Tìm hiểu các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến quá trình tự học của học
sinh.
2.2. Phương pháp phỏng vấn: Phỏng vấn một số giáo viên về tình hình tự học của học
sinh tồn trường hiện nay nói chung và học sinh trong từng khối nói riêng.
2.3. Phương pháp sử dụng phiếu hỏi: Sử dụng phiếu hỏi, phiếu điều tra để tìm hiểu
nhận thức của học sinh về vấn đề tự học hiện nay, các hình thức tự học đang được
dụng phổ biến cũng như những khó khăn gặp phải của học sinh trong quá trình tự học.
2.4. Phương pháp xử lý tài liệu, kết quả nghiên cứu bằng thống kê tốn học: Sử dụng
các cơng cụ thống kê để xử lý kết quả nghiên cứu nhằm rút ra kết luận khách quan.
VI. Nội dung nghiên cứu
- Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học của học sinh hiện nay nói chung và học
sinh Trường Trung học cơ sở La Phù nói riêng.
- Thực trạng tình hình tự học của học sinh Trường Trung học cơ sở La Phù.
- Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học cho học sinh Trường Trung học cơ sở La
Phù.
PHẦN KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGHIÊN CỨU
Cơ sở lí luận về vấn đề nghiên cứu
1. Lịch sử nghiên cứu về vấn đề tự học
1.1. Vấn đề tự học trên thế giới
Tự học đã được con người thực hiện từ rất sớm, ngay từ khi giáo dục chưa trở
thành một nghành khoa học thực sự. Ở thời kỳ đó, người ta đã biết quan tâm đến việc
làm sao cho người học chăm chỉ, tích cực ghi nhớ được những giáo huấn của thầy và
hành động theo những điều ghi nhớ đó. Montaigne từng khuyên rằng: “Tốt hơn là ơng
thầy để cho học trị tự học, tự đi lên phía trước, nhận xét bước đi của họ, đồng thời

3


giảm bớt tốc độ của thầy cho phù hợp với sức học của trò”. Vào những năm đầu của
thế kỷ XX, trên cơ sở phát triển mạnh mẽ của tâm lý học hành vi, tâm lý học phát sinh,
nhiều Phương pháp dạy học mới ra đời: “phương pháp lạc quan”,” phương pháp trọng
tâm tri thức”, “phương pháp montessori”…Các phương pháp dạy học này đã khẳng
định vai trò quyết định của học sinh trong học tập nhưng quá coi trọng “con người cá
thể” nên đã hạ thấp vai trò của người giáo viên đồng thời phức tạp hóa q trình dạy
học. Mặt khác, những phương pháp này đòi hỏi các điều kiện rất cao kể cả từ phía
người học lẫn các điều kiện giảng dạy nên khó có thể triển khai rộng rãi được. Sau
chiến tranh thế giới thứ II, bên cạnh sự tiến bộ rất nhanh của các nghành khoa học cơ
bản, khoa học giáo dục cũng có nhiều tiến bộ đáng kể. Một trong những tiến bộ đó là:
sự xích lại gần nhau hơn giữa dạy học truyền thống (Giáo viên là nơi phát động thông
tin, học sinh là nơi tiếp nhận thông qua diễn giảng trên lớp) và các quan điểm dạy học
hiện đại (học sinh là chủ thể tích cực, giáo viên là người tổ chức hướng dẫn). Các nhà
giáo dục học ở Mỹ và Tây Âu ở thời kỳ này đã đều thống nhất khẳng định vai trị của
người học trong q trình dạy học, song bên cạnh đó cũng khẳng định vai trị rất quan
trọng của người thầy và các phương pháp, phương tiện dạy học. Khái niệm người học
trong giai đoạn này cũng không cịn được quan niệm cá thể hóa cực đoan như trước

đây, tuy nó vẫn được chú ý. Tư tưởng “lấy học sinh làm trung tâm” đã được cụ thể hóa
thành nhiều phương pháp cụ thể như: “Phương pháp hợp tác” (cooperative methods),
“Phương pháp tích cực” (active methods), “Phương pháp cá thể hóa”, “Phương pháp
nêu vấn đề”, … trong đó “Phương pháp tích cực” được nghiên cứu triển khai rộng hơn
cả. Theo phương pháp này, giáo viên đóng vai trị gợi sự chú ý kích thích, thúc đẩy học
sinh tự hoạt động. Vì thế, người học đóng vai trị trung tâm của q trình dạy học, cịn
người dạy là chun gia của việc học. Nhìn chung tư tưởng “lấy học sinh là trung tâm
trong q trình dạy học nói riêng và giáo dục nói chung địi hỏi có sự phối hợp của
nhiều phương pháp, trong đó “phương pháp tích cực” là chủ đạo mang tính nguyên
tắc. Đây chính là cơ sở để đưa ra những biện pháp bồi dưỡng năng lực tự học cho học
sinh.
1.2. Vấn đề tự học ở Việt Nam
Vấn đề tự học ở Việt Nam cũng được chú ý từ lâu. Ngay từ thời kỳ phong kiến,
giáo dục chưa phát triển nhưng đất nước vẫn có nhiều nhân tài kiệt xuất. Những nhân
tài đó, bên cạnh yếu tố được những ơng đồ tài giỏi dạy dỗ, thì yếu tố quyết định đều là

4


tự học của bản thân. Cũng chính vì vậy mà người ta coi trọng việc tự học, nêu cao
những tấm gương tự học thành tài. Nhưng nhìn chung, lối giáo dục cịn rất hạn chế
“người học tìm thấy sự bắt chước, đúng mà không cần độc đáo, người học học thuộc
lịng …” Đến thời kỳ thực dân Pháp đơ hộ, mặc dù nền giáo dục Âu Mỹ rất phát triển
nhưng nền giáo dục nước ta vẫn chậm đổi mới. Vấn đề tự học không được nghiên cứu
và phổ biến, song thực tiễn lại xuất hiện nhu cầu tự học rất cao trong nhiều tầng lớp xã
hội. Vấn đề tự học thực sự được phát động nghiên cứu nghiêm túc, rộng rãi từ khi nền
giáo dục cách mạng ra đời (1945), mà Chủ tịch Hồ Chí Minh vừa là người khởi xướng
vừa nêu tấm gương về tinh thần và phương pháp dạy học. Người từng nói: “cịn sống
thì cịn phải học”, và cho rằng: “về cách học phải lấy tự học làm cốt”. Có thể nói tự
học là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh, về phương pháp học tập. Những lời chỉ dẫn

quý báu và những bài học kinh ngiệ m sâu sắc rút ra từ chính tấ m gương tự học bền bỉ
và thành công của Người cho đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ những năm 60 của
thế kỷ XX, tư tưởng về tự học đã được nhiều tác giả trình bày trực tiếp và gián tiếp
trong các cơng trình tâm lý học, giáo dục học học, phương pháp dạy học bộ mơn. Một
số cơng trình tiêu biểu là: Nguyễn Cảnh Toàn (Nguyễn Cảnh Toàn (1995), (luận bàn và
kinh nghiệm về tự học), Trần Kiều, Nguyễn Bá Kim, Thái Duy Tuyên, Bùi Văn Nghị,
… Giáo sư- Tiến sĩ khoa học Nguyễn Cảnh Toàn là một tấm gương sáng về tự học ở
nước ta. Từ một giáo viên trung học (1947), chỉ bằng con đường tự học, tự nghiên cứu
ơng đã trở thành nhà tốn học nổi tiếng. Khơng chỉ nghiên cứu khoa học cơ bản, ơng
cịn có nhiều cơng trình, bài viết về khoa học giáo dục, về vấn đề tự học. Ông cho
rằng: “Học bao giờ cũng gắn với tự học, tự rèn luyện để biến đổi nhân cách của mình.
Người dạy giỏi là người dạy cho học sinh biết cách tự học, tự nghiên cứu, tự giáo
dục”. Các tác giả: Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Kỳ, Vũ Văn Tảo, Bùi Tường đã khẳng
định: Năng lực tự học của trò dù còn đang phát triển vẫn là nội lực quyết định sự phát
triển của bản thân người học. Thầy là ngoại lực, là tác nhân, hướng dẫn, tổ chức, đạo
diễn cho trị tự học. Nói cách khác quá trình tự học, tự nghiên cứu cá nhân hóa việc
học của trị phải kết hợp với việc dạy của thầy và quá trình hợp tác của bạn trong cộng
đồng lớp học, tức là q trình xã hội hóa việc học. Bước vào thời kì đổi mới hiện nay,
việc tự học nói chung, và vấn đề tự học của học sinh nói riêng ngày càng được quan
tâm và nghiên cứu vì vai trị quan trọng của tự học trong quá trình dạy và học theo
hướng đổi mới lấy người học là trung tâm.

5


Tự học là vấn đề quan trọng và cần thiết hiện nay đối với học sinh. Những quan
sát, so sánh, phân tích, tổng hợp… cùng các phẩm chất động cơ, tình cảm để chiếm
lĩnh tri thức một lĩnh vực hiểu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử xã hội của
nhân loại, biến nó thành sở hữu của chính bản thân người học. Tóm lại, tổng hợp các
quan niệm về tự học của các tác giả có thể đưa ra khái niệm về tự học như sau: “Tự

học là tự mình động não suy nghĩ, sử dụng các khả năng trí tuệ (quan sát, so sánh,
phân tích, tổng hợp,…) và có khi cả cơ bắp (sử dụng các cơng cụ thực hành), cùng các
phẩm chất của cá nhân như: động cơ, tình cảm, nhân sinh quan, thế giới quan (trung
thực, khơng ngại khó, có ý trí, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê khoa học, ...) để chiếm
lĩnh một lĩnh vực hiểu biết nào đó của nhân loại, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của
riêng mình”.
2. Các quan niệm về vấn đề tự học
Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng về tự học. Quan niệm về tự học, Người
cho rằng: “Tự học là cách học tự động” và “phải biết tự động học tập”. Theo Người:
“tự động học tập” tức là tự học một cách hoàn toàn tự giác, tự chủ, không đợi ai nhắc
nhở, không chờ ai giao nhiệ m vụ mà tự mình chủ động vạch kế hoạch học tập cho
mình, rồi tự mình triển khai, thực hiện kế hoạch đó một cách tự giác, tự mình làm chủ
thời gian để học và tự mình kiểm tra đánh giá việc học của mình”. Trong quyển “Học
và dạy cách học”, Giáo sư Nguyễn Cảnh Toàn cho rằng: “Tự học là tự mình động não,
suy nghĩ, sử dụng các năng lực trí tuệ và có khi cả cơ bắp và các phẩm chất khác của
người học, cả động cơ tình cảm, nhân sinh quan thế giới quan để chiếm lĩnh một tri
thức nào đó của nhân loại, biến tri thức đó thành sở hữu của chính mình”. Theo
Nguyễn Kỳ cho rằng: “Tự học là đặt mình vào tình huống học, vào vị trí của người tự
nghiên cứu, xử lý các tình huống, giải quyết các vấn đề đặt ra: nhận biết vấn đề xử lý
thông tin, tái hiện kiến thức, xây dựng các giải pháp giải quyết vấn đề, xử lý tình
huống…”. Giáo sư Thái Duy Tuyên khẳng định: “Tự học là môt hoạt động độc lập
chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các năng
lực trí tuệ”
3. Định nghĩa, nguyên tắc, điều kiện và cách tự học
3.1. Định nghĩa tự học
Tuy đã được nghiên cứu từ lâu và rất nhiều trên thế giới nhưng “tự học”
(learner autonomy) lại là một thuật ngữ gây nhiều tranh luận, và đôi khi các nhà giáo

6



dục học và ngôn ngữ học không thể thống nhất hoàn toàn với nhau về định nghĩa tự
học là thế nào. Một số nhà nghiên cứu nổi tiếng định nghĩa về tự học như sau:
- Tự học là khả năng tự lo cho việc học của chính mình. (Henri Holec).
- Tự học là vấn đề về mối tương quan tâm lý của người học với quá trình và nội dung
học. (David Little)
- Tự học là tình huống trong đó người học hoàn toàn chịu trách nhiệm về mọi quyết
định liên quan đến việc học và thực hiện những quyết định đó. (Leslie Dickinson)
- Tự học là sự nhận thức về quyền của người học trong hệ thống giáo dục. (Phil
Benson)” ( Tuy có nhiều cách định
nghĩa nhưng vấn đề chính là chúng ta xem tự học là phương tiện hay là mục đích cuối
cùng. Hai cách nhìn này đan xen lẫn nhau và cả hai đều có thể là một phần trong quan
điểm của chúng ta về việc học ngôn ngữ hay việc học nói chung.
3.2. Đặc điểm của việc tự học
Tự học có nhiều hình thức như: Tự học ở trường, tự học ở nhà, tự học ngoài xã
hội… Nghe giảng trên lớp cũng cần có sự tích cực học tập. Khơng phải thầy ghi gì,
giảng gì người học cứ cắm đầu ghi chép và học thuộc theo nội dung đã chép được. Khi
nghe giảng, người học phải chon lọc những gì cần học ghi vào vở, thực hành nội dung
cơ bản rồi mới ghi chép. Người học phải trình bày ý kiến của mình đối với những vấn
đề chưa rõ, chưa hiểu với người dạy để nắm chắc kiến thức, hiểu được bản chất của
kiến thức.
Tự học ở nhà tức là phải tự học lại các kiến thức về lý thuyết đã được học trên
lớp vận dụng lý thuyết vào làm bài tập thực hành. Tự sưu tầm thêm các bài tập nâng
cao để làm. Tự giác, tích cực đọc, nghiên cứu trước bài mới trước khi được học, đọc
sách tham khảo về các kiến thức có liên quan đến môn học, đồng thời tự nghiên cứu
sáng tạo ra các cách làm bài tập, giải bài tập hay bằng con đường ngắn nhất, nhanh
nhất và dễ hiểu nhất. Từ việc nắm được khoa học từ sách vở người học phải biết vận
dụng kiến thức đó vào thực tế đời sồng. Tấm gương của bạn Phạm Văn Nghĩa là một
minh chứng cho tinh thần tự học. Em đã biết vận dụng những điều đã học từ nhà
trường để thụ phấn cho cây, tạo ra ròng rọc kéo nước từ giếng sâu. Sự sáng tạo trong

học tập của em đã gúp cho cây trồng nhà mình có năng suất cao, gúp mẹ em vơi bớt
được phần nào nỗi nhọc nhằn vất vả. Tự học là một công việc gian khổ, đòi hỏi lòng

7


quyết tâm và sự kiên trì. Càng cố gắng tự học con người càng trau dồi được nhân cách
và tri thức của mình. Chính vì vậy tự học là một việc làm độc lập gian khổ mà khơng
ai có thể học hộ, học giúp.
3.3. Nguyên tắc tự học
Theo David Little, có 3 nguyên tắc sư phạm cơ bản trong việc phát triển khả
năng tự học. Đó là:
- (1) Sự tham gia của người học – người học chia sẻ trách nhiệm trong quá trình học;
- (2) Sự phản ánh của người học – giúp người học biết suy nghĩ manh tính phê phán
khi lên kế hoạch, giám sát và đánh giá việc học của mình.
- (3) Sử dụng ngơn ngữ mục tiêu một cách phù hợp.
- Một số nguyên tắc khác về tự học là: Tự học có nghĩa là chuyển sự tập trung từ việc
dạy sang việc học; Tự học khuyến khích và cần sự giúp đỡ và hợp tác của bạn cùng
học; Tự học là sử dụng việc tự đánh giá…
3.4 Điều kiện và cách tự học
Dimitrios Thanasoulas cho rằng việc tự học chỉ có thể đạt được khi có những
điều kiện sau: chiến lược về nhận thức của người học; thái độ; động cơ; và kiến thức.
Theo O’Malley và Chamot (1990), chiến lược nhận thức tác động trực tiếp lên
thông tin tiếp nhận, đồng thời điều khiển thông tin theo cách thức hỗ trợ việc học. Một
số chiến lược nhận thức trong việc học ngôn ngữ được đề cập là: lập lại, biên dịch, ghi
chú, suy luận, và đặt câu hỏi để hiểu rõ vấn đề. Hai thái độ quan trọng trong tự học là
thái độ của người học về vai trị của họ trong q trình học và thái độ về khả năng học
của mình. Nếu người học cho là việc học chỉ thành công theo cách học truyền thống và
giáo viên mới là người nắm vai trị chủ đạo, hay tin rằng họ thuộc nhóm người khơng
có khả năng học ngoại ngữ thì người học sẽ có khuynh hướng khơng thay đổi theo

cách học lấy người học là trung tâm trong khi cách học mới này giúp hướng đến việc
tự học, và như vậy sự thành cơng trong tự học là khơng có cơ sở. Động cơ là một trong
những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến tốc độ và sự thành công khi học. Thái độ và
động cơ của người học có liên quan mật thiết với nhau. Thái độ tích cực sẽ dẫn đến
động cơ học tập được nâng cao và ngược lại. Về cách tự học, Quang Huy trong bài
viết “Tự học ở bậc Đại học” (theo Dạy và Học Ngày Nay, số 10, 2008) phân tích: “Có
nhiều cách tự học như: tự mình mị mẫm (người học khơng có điều kiện đi học, các tri

8


thức họ tìm được là do sự tìm tịi trải nghiệm của chính bản thân họ trong cuộc sống),
tự học khơng cần thầy hướng dẫn (người học đã có một trình độ học vấn nhất định, đã
có một thời gian dài học với thầy), tự học với sự hướng dẫn của thầy (hoạt động tự học
này gắn với quá trình dạy học). Tính độc lập trong tự học vẫn nằm trong sự tương tác
và phụ thuộc lẫn nhau. Tiến sĩ Chu Hảo, thứ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi
trường, khi được hỏi về kinh nghiệm của riêng ông trong việc tự học, đã trả lời như
sau: “Cần nói rõ về tự học, người ta thường nghĩ rằng tự học là học riêng một mình.
Khơng, cách tự học tốt nhất là học với nhóm.” Như vậy, giáo viên khi hướng dẫn học
sinh tự học cần phải xét đến các điều kiện tự học nêu trên và chọn những hoạt động
phù hợp để học sinh có thể tự học trên lớp và tự học ngồi giờ một cách có hiệu quả.
4. Các yếu tố ảnh hưởng đến kĩ năng tự học
4.1. Các yếu tố chủ quan
- Ý thức học tập và động cơ tự học
- Vốn tri thức hiện có - Năng lực trí tuệ và tư duy
- Phương pháp tự học của người học
4.2. Các yếu tố khách quan
- Phương pháp dạy của người dạy
- Nội dung, chương trình đào tạo
- Các yếu tố khác: sách giáo khoa, tài liệu học tập, các điều kiện về cơ sở vật chất, gia

đình và xã hội.
- Hệ thống giám sát quá trình tự học (cán bộ quản lí, giáo viên, học sinh).
5. Các hình thức tự học
Tự học là hoạt động học hồn tồn khơng có giáo viên, học sinh khơng có sự
tiếp xúc với giáo viên, là hình thức học tập hồn tồn khơng có sự tương tác thày trị,
do đó học sinh phải tự lực thơng qua tài liệu, qua hoạt động thực tế, qua thí nghiệm để
chiếm lĩnh kiến thức.

9


a. Tự học hồn tồn (khơng có giáo viên): thơng qua tài liệu, qua tìm hiểu thực tế,
học kinh nghiệm của người khác. Học sinh gặp nhiều khó khăn do có nhiều lỗ hổng
kiến thức, học sinh khó thu xếp tiến độ, kế hoạch tự học, không tự đánh giá được kết
quả tự học của mình... Từ đó học sinh dễ chán nản và không tiếp tục tự học.
b. Tự học trong một giai đoạn của quá trình học tập: thí dụ như học bài hay làm bài
tập ở nhà (khâu vận dụng kiến thức) là công việc thường xuyên của học sinh trung
học. Để giúp học sinh có thể tự học ở nhà, giáo viên cần tăng cường kiểm tra, đánh giá
kết quả học bài, làm bài tập ở nhà của họ.
c. Tự học qua phương tiện truyền thông (học từ xa): học sinh được nghe giáo viên
giảng giải minh họa, nhưng không được tiếp xúc với giáo viên, không được hỏi han,
không nhận được sự giúp đỡ khi gặp khó khăn. Với hình thức tự học này, học sinh
cũng không đánh giá được kết quả học tập của mình.
d. Tự học qua tài liệu hướng dẫn: Trong tài liệu trình bày cả nội dung, cách xây
dựng kiến thức, cách kiểm tra kết quả sau mỗi phần, nếu chưa đạt thì chỉ dẫn cách tra
cứu, bổ sung, làm lại cho đến khi đạt được (thí dụ học theo các phần mềm trên máy
tính). Song nếu chỉ dùng tài liệu tự học học sinh cũng có thể gặp khó khăn và không
biết hỏi ai.
e. Tự lực thực hiện một số hoạt động học dưới sự hướng dẫn chặt chẽ của giáo
viên ở lớp


10


Với hình thức này cũng đem lại kết quả nhất định. Song nếu học sinh vẫn sử
dụng sách giáo khoa hóa học như hiện nay thì họ cũng gặp khó khăn khi tiến hành tự
học vì thiếu sự hướng dẫn về phương pháp học.
Qua việc nghiên cứu các hình thức tự học ở trên thấy rằng mỗi hình thức tự học
có những mặt ưu điểm và nhược điểm nhất định. Để nhằm khắc phục được những
nhược điểm của các hình thức tự học đã có này và xét đặc điểm của học sinh, chúng
tơi đề xuất một hình thức tự học mới: tự học theo tài liệu hướng dẫn và có sự giúp đỡ
trực tiếp một phần của giáo viên gọi tắt là “tự học có hướng dẫn”.
6. Vai trị của việc tự học
6.1. Tự học đóng một vai trị rất quan trọng trên con đường học vấn của mỗi
người
Người biết tự học ln tư mày mị, tìm kiếm, nghiên cứu một cách tích cực và
khơng cấn ai nhắc nhở ở bất cứ hồn cảnh nào. Nhờ đó những con người ấy ln biết
nhìn xa trơng rộng, khơng bị tụt hậu, luôn nhạy bén trong thực tế do biết áp dụng kiến
thức đã học. Kiến thức là vô cùng trong khi trí nhớ của con người là hữu hạn, nếu chỉ
biết học tủ học vẹt thì ta sẽ khơng thể biền những kiến thức ấy thành của mình để vận
dụng vào thực tế mà sẽ mau chóng quên đi. Tự học sẽ giúp ta khắc phục phục được
nhược điểm này đồng thời giúp ta rèn luyện thói quen tích cực, chủ động hơn trong
hồn cảnh khó khăn. Hơn hết, khi tự học ta mới thấy được cái hay, cái đẹp của tri thức
từ đó trở nên say mê khám phá, học hỏi nhiều điều mới lạ hơn nữa. Tự học chính là
cuộc hành trình của bản thân để chiếm lĩnh kiến thức, và những bước đi đầu tiên sẽ
ln có nhiều chơng gai, thử thách nhưng chính những lúc bế tắc ấy lai là động lực
thúc đẩy chúng ta tích cực tư duy để tìm ra hướng đi. Cái cảm giác lúc tự mình ngộ ra
được những điều mới lạ thật khơng cịn gì vui hơn và bài học đó sẽ mãi theo ta. Tự học
giúp ta nắm vững căn bản, đào sâu và mở rộng kiến thức chứ không phải nhận thức
một cách máy móc. Có tự học ta mới hệ thống lại được những kiến thức đã học và kịp

thời nhận ra thiếu sót của bản thân để kịp thời bồi đắp, từ đó ta có bước đầu tự tin trên
con đường học vấn. Trong lịch sử ta thấy có rất nhiều tấm gương thành tài nhờ nỗ lực
tự học của bản thân như trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền và tiêu biểu chính
là chủ tịch Hồ Chí Minh. Hằng đêm, sau 12 giờ lao động nặng nhọc, Người lại tự học
tiếng Pháp bằng cách học thuộc long mỗi ngày mười từ, và cứ thế Người đã thong thạo

11


khơng chỉ tiếng Pháp mà cịn nhiều ngoại ngữ khác như tiếng Trung Quốc, tiếng Anh.
Người cũng đã từng nói “Trong cách học, phải lấy tự học làm nòng cốt ”.
6.2. Tự học còn giúp chúng ta chủ động, linh hoạt về mặt thời gian
Bạn hiểu vấn đề này đã khá sâu, bạn có thể đi lướt. Vấn đề kia bạn chưa rõ, bạn
có thể nán lại đầu tư hơn về thời gian. Bạn bị hổng kiến thức phần này hơm nay bạn sẽ
học nó. Trong khi ấy, học trên lớp ta phải theo một chương trình cố định, khó thay đổi.
Thời lượng cho mỗi vân đề eo hẹp, đôi khi cứng nhắc. Học nhóm cũng phái đáp ứng
yêu cầu thời gian cho số đơng, khơng thể vì cá nhân mà thay đổi. Đó là chưa kể đến
việc học nhóm các bạn dễ sa vào “buôn chuyện”, đi sớm, đi muộn, lãng phí thời gian,
vỡ kế hoạch.
Rõ ràng, tự học bạn sẽ có khả năng tập trung cao hơn, khơng bị phân tán vì
ngoại cảnh lớp học, những câu chuyện của bạn bè,… Qua đó, bạn có điều kiện theo
đuổi những mục đích học tập của mình và hồn thành đúng kế hoạch.
6.3. Bên cạnh đó, trong q trình tự học, bạn cũng sẽ có điều kiện xem xét đúng
sức học, kiểm tra đúng trình độ của bản thân
Học trên lớp, học nhóm, q trình kiểm tra đánh giá mang tính đại trà, chịu tác
động của nhiều yếu tố: Sự trung thực của học sinh, độ bao quát kiến thức của đề bài,
chút cảm tính trong cách đánh giá của giáo viên (ở các mơn xã hội)… Vì vậy, sức học
của người học được đánh giá qua đó chỉ mang tính tương đối. Nhưng nếu tự học,
muốn tiến bộ thực sự, người học phải tỉnh táo, trung thực, đem so sánh những gì mình
đã có được với u cầu của chương trình. Do đó việc đánh giá sẽ sát với tình hình thực

tế hơn. Qua đây, ta dễ dàng nhìn ra được thế mạnh, điểm yếu của mình và tìm cách
khắc phục.
6.4. Thông qua tự học, người học rèn cho mình khả năng làm việc tự lực
Nếu học trên lớp bạn có thể mượn vở bạn chép bài, thậm chí quay bài bạn khi
kiểm tra. Nếu học nhóm bạn có thể ỷ lại vào khả năng học tập của người khác. Nhưng
tự học thì khơng. Để có được tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, bạn phải tự đọc sách, tự thí
nghiệm, tự làm bài, tự kiểm tra lí thuyết,… thậm chí tự liên hệ để tham quan học tập.
Tức là “tự thân vận động” trong suốt quá trình học tập. Điều đó khá vất vả nhưng bạn
sẽ được rất nhiều. Trước hết là ý thức và khả năng “tự lực cánh sinh”, độc lập trong lao
động không phải dựa dẫm ỷ lại vào ai. Qua đó bạn sẽ tự tin, mạnh dạn, trưởng thành
hơn rất nhiều.

12


6.5. Ở bất cứ bộ môn nào, lĩnh vực nào, kiến thức cũng liên tục thay đổi theo
những kết quả nghiên cứu mới, đáp ứng yêu cầu do cuộc sống đặt ra
Trong khi đó, kiến thức ở trường học phải theo một khung chương trình nhất
định, phù hợp với nhiều đối tượng, nên có khi khơng bắt kịp sự thay đổi đó, khơng đáp
ứng đầy đủ u cầu của người học.
6.6. Tự học giúp chúng ta bổ khuyết nền giáo dục ở trường, bắt kịp những kiến
thức phong phú, mới mẻ, đáp ứng được nhu cầu của thời đại
Dù làm ngành gì, nghề gì cũng cần tự học thường xuyên. Nếu khơng chúng ta
sẽ trở nên lạc hậu, cũ mịn. Đồng thời, bên cạnh việc đem lại những kiến thức, việc tự
học cũng đem lại sự hứng thú, yêu thích lĩnh vực mà mình theo đuổi.
6.7. Tự học là chìa khóa của sự thành cơng
Phần thưởng của tự học thật xứng đáng: đó là niềm vui, niềm hạnh phúc khi ta
chiếm lĩnh được tri thức. Biết bao những con người nhờ tự học mà tên tuổi của họ
được tạc vào lịch sử. Hồ Chí Minh với đơi bàn tay trắng ra đi từ bến cảng nhà Rồng,
nhờ tự học Người biết nhiều ngoại ngữ và đã tìm được đường đi cho cả dân tộc Việt

Nam đến bến bờ hạnh phúc. Macxim Gorki với cả một thời thơ ấu gian khổ, không
được đi học, bằng tinh thần tự học ông đã trở thành đại văn hào Nga. Và còn rất nhiều
những tấm gương khác nữa: Lê Q Đơn, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Hiền… Nhờ tự học
đã trở thành bậc hiền tài, làm rạng danh cho gia đình quê hương xứ sở.
CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
I. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình tự học của học sinh hiện nay nói chung.
Qua tổng hợp các nghiên cứu của các nhà khoa học, chúng em cho rằng sự hình
thành và phát triển năng lực của các bạn học sinh chịu ảnh hưởng của các yếu tố sau
đây:
1.1. Ảnh hưởng của ý thức học tập và động cơ nhận thức của bản thân học sinh:
Ý thức học tập và động cơ nhận thức có ý nghĩa quyết định trong q trình hình
thành và phát triển năng lực tự học của học sinh. Vì xét cho cùng chất lượng học tập
phải là kết quả trực tiếp của sự nỗ lực của chính bản thân người học. Nếu người học
không xác định được vai trị quyết định của mình trong sự thành bại của sự học, thì
khơng bao giờ tự học thành cơng. Chỉ khi đã xác định được mục đích và động cơ học
tập đúng đắn, học sinh mới có thể phát huy được “nội lực” trong học tập, từ đó kết hợp

13


các yếu tố “ngoại lực” khác để tổ chức các hoạt động học tập diễn ra một cách hợp lý
và thu được kết quả cao.
1.2. Ảnh hưởng của vốn tri thức hiện có của bản thân học sinh:
Hầu hết các môn học đều được sắp xếp theo dạng phát triển, những tri thức sau
được xây dựng trên những cơ sở của tri thức đã có trước. Để chiếm lĩnh các tri thức
khoa học nói chung, người học cũng như người trèo thang khơng qua nấc thang thấp
thì khơng thể tiến lên nấc cao hơn. Để tự học có hiệu quả thì người học phải tự trang bị
cho mình vốn kiến thức tối thiểu để tự nghiên cứu vấn đề mình quan tâm như: Thói
quen tưởng tượng sáng tạo, thói quen suy luận logic, thói quen ghi nhớ máy móc, thói
quen gợi lại những cái cụ thể đã gặp trong cuộc sống hàng ngày...

1.3 Ảnh hưởng của năng lực trí tuệ và tư duy:
Năng lực trí tuệ: Là yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến khả năng nắm bắt tri thức
khoa học nhanh hay chậm của mỗi học sinh. Yếu tố này ảnh hưởng rất lớn, đôi khi là
quyết định đến khả năng học tập nói chung và năng lực tự học nói riêng. Những người
có năng lực trí tuệ tốt thường có khả năng tự học rất cao, khi có đủ vốn tri thức tối
thiểu nhiều khi họ có thể độc lập làm việc một mình mà khơng cần tới sự hướng dẫn
của thầy.
Phương pháp tư duy: Khả năng vận dụng các thao tác tư duy cũng là một yếu tố
có ảnh hưởng lớn đến khả năng tự học của học sinh. Ngồi ra, trong q trình học tập
để tiếp thu tri thức, kết quả học tập của học sinh tùy thuộc phần lớn vào tính chất và cơ
cấu của tư duy tích cực của học sinh. Tri thức là kết quả của tư duy, đồng thời lại là
những điều kiện, phương tiện của tư duy. Vì vậy, tăng cường khả năng tư duy là một
yêu cầu để nâng cao chất lượng học tập và tự học
1.4. Ảnh hưởng của phương pháp học tập của trò:
Nhà sinh lý học người Pháp Penna từng nói: “Phương pháp học tốt giúp ta phát
huy được tài năng vốn có; phương pháp học dở sẽ cản trở tài năng phát triển”. Như
vậy, phương pháp học tập có vai trị rất quan trọng để người đó có thể thành cơng
trong học tập. Mỗi người có một phương pháp làm việc riêng, thói quen hoạt động trí
óc riêng khơng ai giống ai. Theo A.D.La Garandrie thì mỗi người có thể có những thói
quen sau:

14


Phương pháp tự học là cách thức hoạt động của người học trong quá trình lĩnh
hội tri thức, hình thành kỹ năng, tìm tịi tri thức mới. Theo Rubakin “Hãy mạnh dạn tự
mình đặt ra câu hỏi rồi tự mình tìm câu trả lời. Đó chính là phương pháp tự học”.
Trong tự học, yếu tố quan trọng để đảm bảo thành công là phương pháp tự học. Nếu
người học rèn luyện được thói quen, phương pháp, kỹ năng tự học thì sẽ tạo cho họ
long ham học, khơi dậy tiềm năng vốn có trong mỗi người, làm cho kết quả học tập

được tăng lên, thích ứng q trình học tập của trò và phương pháp dạy học của thầy.
1.5. Ảnh hưởng của phương pháp dạy học của thầy:
Phương pháp dạy học là con đường mà chủ thể dung để tác dụng nhằ m biến
đổi đối tượng theo mục đích đã định. Theo Từ điển Giáo dục học: “Phương pháp dạy
học, cách thầy (cô) tiến hành dạy nội dung đi đôi với việc dạy cách học cho học trò
nhằm giúp cho trò trau dồi phương pháp tự học để nắm vững nội dung đang học, đồng
thời để rèn luyện cách tự học suốt đời”.. Như vậy, có thể thấy rằng: Phương pháp dạy
học của thầy cũng có ảnh hưởng cực kỳ quan trọng đến sự hình thành và phát triển
năng lực tự học của sinh viên.
1.6. Nội dung, chương trình đào tạo.
Do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, khối lượng tri thức ngày
càng lớn, trong khi đó, thời gian đào tạo khơng tăng, chương trình đào tạo cịn đang
thay đổi và hồn thiện nên địi hỏi người học phải tăng cường tự học.
1.7. Ảnh hưởng của sách giáo khoa, tài liệu học tập và các điều kiện khác về cơ sở
vật chất, gia đình và xã hội.
Khi đánh giá vai trò của sách giáo khoa đối với q trình tự học của học sinh,
Phó giáo sư, Tiến sỹ Bùi Văn Nghị nhận xét: “Nếu người viết sách đặt mình vào vị trí
người đọc, trình bày một vấn đề có nguồn gốc (từ thực tiễn hoặc từ nội bộ tốn học) có
hướng đích gợi động cơ, gợi vấn đề, có các hoạt động tương thích với nội dung và mục
đích thì sách viết ra sẽ hấp dẫn người học. Trong q trình dạy học, học sinh cịn chịu
ảnh hưởng của mơi trường xung quanh. Đó là các yếu tố về điều kiện dạy học, điều
kiện văn hóa xã hội… các yếu tố này cũng có ảnh hưởng rất lớn, vì nó tác động khơng
những đến người học, mà cả người dạy học.
II. Thực trạng tình hình tự học của học sinh Trường Trung học cơ sở La Phù hiện
nay.
1. Thực trạng về vấn đề nhận thức học tập

15



Nhận thức của một bộ phận học học sinh đối với vấn đề học tập là tốt. Các em
biết quan tâm, lo lắng tới việc học, biết tự giác chủ động học tập và dành kết quả khá
cao.
Bên cạnh đó, tình trạng học sinh ở Trường trung học cơ sở La Phù chưa nhận
thức rõ được vai trò của việc học chiếm tỉ lệ khá lớn. Có thể nói, so với thế hệ trước, ý
thức học tập của học sinh ngày nay rất kém. Sự yếu kém này không phải là lượng tri
thức tiếp thụ ít mà là mức độ quan tâm đến vấn đề học tập. Thái độ của học sinh đối
với việc học thiếu nghiêm túc. Nhiều học sinh xem thường việc học tập tri thức và rèn
luyện bản thân. Hiện tượng học sinh lười biếng học bài, làm bài đã trở thành quen
thuộc. Học sinh lơ là, bỏ học, trốn học diễn ra khá phổ biến ở các trường học. Rất đơng
học sinh khơng cịn hứng thú với việc học. Họ thấy việc học rất nhàm chán. Đến lớp là
một việc làm miễn cưỡng, khơng có niềm vui. Nhiều học sinh mơ hồ trong việc xác
định mục đích của việc học. Họ khơng biết học để làm gì? Nhiều học sinh khơng tìm
thấy động lực, mục tiêu và định hướng trong học tập. Phần lớn học sinh thụ động trong
học tập. Học sinh học để lấy điểm, học để lên lớp. Học để lấy bằng cấp chứ không
phải là chiếm lĩnh và làm chủ tri thức. Học sinh vào lớp thiếu nghiêm túc, hay nói
chuyện và gây mất trật tự trong giờ học. Các trường hợp mất trật tự gây ảnh hưởng lớn
đến hiệu quả giảng dạy. Số trường hợp vi phạm kỉ luật trong học tập không ngừng tăng
cao. Không những thế, mức độ ngày càng nghiêm trọng hơn. Học sinh khơng thích học
hoặc học kém các môn khoa học tự nhiên. Bạo lực học đường ngày càng tăng cao.
Việc học sinh đánh nhau hay nạn bạo lực học đường có thể xuất phát từ nhiều lí do. Có
thể do mâu thuẫn, hiềm khích hay những lí do nhỏ nhặt khác. Song điều đó phản ánh
sự xuống cấp trầm trọng của nền tảng đạo đức, thái độ, lối sống và ý thức học tập yếu
kém của học sinh.
2. Thực trạng về vấn đề tự học.
Thực tế ngày nay cho thấy các cách học của các bạn chưa mang lại hiệu quả
cao. Học sinh ngày nay đã quá phụ thuộc vào các bài giảng của thầy cô trên lớp, thầy
cơ dạy như thế nào thì lại hiểu và học như thế ấy dẫn đến quá trình thụ động, thiếu suy
nghĩ và sáng tạo trong lúc học để đào sâu kho tàng kiến thức còn ẩn sâu các bài giảng
của thầy cơ. Và cũng chính vì chỉ học cô đọng trong các bài giảng bốn mươi lăm phút

trên lớp của thầy cơ mà dẫn đến tình trạng nhiều học sinh phải đi học thêm tràn lan.
Mà khi đã học thêm tràn lan thì lại càng khiến mọi người không chịu tự học, càng

16


thêm phụ thuộc vào việc học thêm. Mặt khác, ngày nay khi việc học được nâng cao thì
có q nhiều sách tham khảo,văn mẫu, hướng dẫn...dẫn đến việc học sinh đâm lười
suy nghĩ trong khi làm các bài tập. Học sinh Trường Trung học cơ sở La Phù chủ yếu
mới chủ yếu lựa chọn hình thức tự học dưới sự hướng dẫn của thầy cơ. Cịn các hình
thức tự học khác như tự học qua phương tiện truyền thông, tự học qua nghiên cứu sách
báo… thì rất hiếm.
Đặc biệt, mặc dù có sự hướng dẫn của giáo viên nhưng trên lớp, nhiều bạn cịn
lơ là đãng nên về nhà khơng tìm được phương pháp tự học thích hợp cho bản thân. Ở
một số môn học, thầy cô chưa thật sự chú ý tới việc rèn luyện cho học sinh khả năng
tự học mà mới chú trọng việc truyền thụ kiến thức sao cho hết mà thôi.
3. Hậu quả của thực trạng:
Hậu quả của những việc trên rất nặng nề vì như vậy sẽ dễ dẫn đến hiện tượng
"học vẹt": học thuộc bài nhưng không hiểu nội dung, vấn đền được nêu ra trong bài
dẫn đến việc học xong là quên ngay, kiến thức không bền và sẽ không làm được các
bài tập thực hành, chỉ học lí thuyết sng, kiến thức sẽ ngày càng rỗng, thành tích học
tập sẽ càng sút kém. Một khi kiến thức đã trang bị không chắc chắn thì kết quả sẽ
khơng bao giờ cao. Cụ thể nó làm cho chất lượng đại trà, chất lượng thi học sinh năng
khiếu, học sinh giỏi lớp 9, điểm thi vào lớp 10 trung học phổ thông của trường em thấp
hơn nhiều so với nhiều trường bạn.
Từ kết quả học tập kém, nhiều bạn sinh ra chán nản, bỏ bê việc học hành, vùi đầu
vào các trò chơi điện tử hay tụ tập cùng những bạn bè xấu..ý thức đạo đức vì thế cũng
bị xuống cấp nghiêm trọng.
Một số khác vẫn đến lớp học tập nhưng khơng có hứng thú, động cơ; đến chỉ ngồi
đó khơng ngủ gật, làm việc riêng thì cũng phá nhiễu lớp học.

4. Nguyên nhân của các thực trạng
Đầu tiên phải kể đến là nhiều học sinh chưa nhận thức được tầm quan trọng của
việc học, chưa có mục tiêu học tập rõ ràng, chưa lập được kế hoạch cho bản thân.
Các bạn học sinh hiện nay thường ỷ lại vào thầy cô giáo: ngồi học chỉ biết chép
vào vở, học thuộc và trả bài đúng như bài giảng. Mức độ này chỉ tái hiện vấn đề chứ

17


chưa tái tạo, chưa mang tính sáng tạo cá nhân. Vì vậy, học sinh thường mau quên kiến
thức, ra trường là “chữ thầy lại trả cho thầy”, kiến thức chẳng đọng lại được bao nhiêu.
Bên cạnh đó, nhiều học sinh có ý thức tự học nhưng chưa tìm đươc phương
pháp tự học có hiệu quả.
Trong một số giờ học, thầy cô chưa thực sự chú trọng tới việc hướng dẫn cho
học sinh kĩ năng tự học hoặc có hướng dẫn còn chung chung, chưa hướng tới từng đối
tượng học sinh cụ thể.
Nhiều em, mơi trường, hồn cảnh gia đình khó khăn cũng ảnh hưởng đến việc
tự học. Chẳng hạn như các em chưa có khơng gian học tập riêng, thời gian cho việc tự
học cịn ít do phải giúp bố mẹ trông em hay làm việc nhà…Nhiều em chưa nhận được
sự quan tâm, chỉ bảo tận tình của cha mẹ do điều kiện cha mẹ phải đi làm ăn xa…
Một nguyên nhân nữa là do ảnh hưởng của lối sống hiện đại, của các trào lưu xã
hội, sự hấp dẫn của các trị chơi điện tự, các phương tiện thơng tin đại chúng dẫn đến
việc học sinh lười biếng, thiếu ý thức tự học, học cốt cho xong.
PHIẾU ĐIỀU TRA HỌC SINH (Đính kèm phụ lục)

III. Giải pháp nâng cao hiệu quả của việc tự học
1. Tuyên truyền giúp các bạn học sinh nhận thức được vai trò quan trong của
việc tự học
Chúng em sẽ tiến hành tuyên truyền, giảng giải để tất cả các bạn học sinh có sự
hiểu biết sâu rộng về vai trò của việc học, tự học. Chúng em giúp các bạn thấy được

bản chất của cơng việc tự học của học sinh là q trình nhận thức một cách tự giác,
tích cực, tự lực khơng có sự tham gia hướng dẫn trực tiếp của giáo viên nhằm đạt được
mục đích, nhiệm vụ dạy học. Nói khác đi, việc tự học ngồi lớp học đóng vai trò trọng
yếu ở các trường học hiện nay. Tự học giữ vai trò lớn lao trong việc nâng cao khả năng
hiểu biết và tiếp thu tri thức mới, rèn luyện các thói quen độc lập suy nghĩ, tăng cường
khả năng sáng tạo, thúc đẩy ước mơ, khao khát, hoài bão… cho học sinh. Theo
Aditxterrec: “Chỉ có truyền thụ tài liệu của giáo viên mà thơi thì dù có nghệ thuật đến
đâu chăng nữa cũng không đảm bảo được việc lĩnh hội tri thức của học sinh. Nắm
vững kiến thức thực sự lĩnh hội chân lý, cái đó học sinh phải tự mình làm lấy bằng trí
tuệ của bản thân”. Một trong nhưng cách tuyên truyền là kể chuyện về các tấm gương

18


tự học và thành công, giới thiệu nhưng cuốn sách hay để học sinh đọc. (Lương Thế
Vinh, Mạc Đinh Chi, Hồ Chí Minh, nhà bác học Ê-đi-xơn,, đại văn hào Nga
MácximGorki, ...)

2. Kích thích động cơ học tập và tạo sự hứng thú cho học sinh trong quá
trình học tập
Động cơ hóa hoạt động học tập của học sinh có vai trị tích cực đối với hiệu quả
hoạt động học tập của học sinh, để thực hiện giải pháp này chúng ta có thể thực hiện
các biện pháp sau:
- Tăng cường hứng thú học tập của học sinh
Trong quá trình dạy học người thầy làm cho bộ não của học sinh ln đặt trong
tình trạng ham muốn hiểu biết, làm cho học sinh hứng thú khi học. Để làm được điều
này giáo cần phải làm cho học sinh ý thức được là họ cần phải học, thấy được rằng
mình thực sự đang thiếu tri thức mới, cảm nhận được sự thiếu hụt sẽ là một yếu tố kích
thích học sinh tìm kiếm một sự cân đối mới, thỏa mãn nhu cầu tri thức của mình.
- Kết hợp chặt chẽ phương pháp dạy của giáo viên và phương pháp tự học của học

sinh. Đối với học sinh trung học cơ sở thì các em tự học chủ yếu qua sự hướng dẫn của
thầy. Cho nên, giáo viên phải xây dựng động cơ tự học cho học sinh vì tự giác học tập
phải bắt nguồn từ bên trong, từ năng lực nội sinh. Ngày nay, nhu cầu học tập, tìm hiểu
và nhận thức cái mới của học sinh cũng rất cao, việc sử dụng phương pháp này cũng
khơng phải là khó. Điều quan trọng là giáo viên phải tạo ra những nội dung mới, đột
ngột, bất ngờ, những yếu tố chứa đựng mâu thuẫn liên quan đến quyền lợi và hứng thú
của các em. Chúng ta đều biết cái bên trong của con người như: Nhu cầu, ham muốn,

19


hứng thú…đều chịu ảnh hưởng bởi môi trường điều kiện bên ngồi.Vì vậy, có thể hình
thành động cơ nhận thức lành mạnh của học sinh là nhờ sự kích thích của giáo viên trực
tiếp giảng dạy. Do vậy, để sử dụng tốt phương pháp này thì giáo viên phải kích thích
hứng thú dần dần rồi từ đó chú ý rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy lý luận, hướng
dẫn các em cách làm việc với sách giáo khoa; nghe và ghi khi nghe giảng theo tinh thần
tự học…
3. Tăng cường, tích cực tham gia hoạt động thảo luận nhóm
Tổ chức dạy học cho học sinh làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận tồn lớp
là giải pháp nhằm bảo đảm q trình học tập diễn ra tích cực và hiệu quả. Thơng qua
làm việc theo nhóm kết hợp với thảo luận toàn lớp làm cho việc học của học sinh trở
nên mềm mại, linh hoạt, không máy móc, rập khn. Đồng thời sử dụng tối đa các
nguồn lực dạy học và tạo không gian hoạt động đa dạng, dễ thay đổi, nâng cao khả
năng hợp tác giữa giáo viên với học sinh, giữa học sinh với học sinh. Với biện pháp
này sẽ có tác dụng tạo mơi trường học tập đa thông tin cho học sinh, tạo cơ hội giúp
học sinh tự nghiên cứu, tự bộc lộ để thể hiện năng lực và kết quả nghiên cứu của cá
nhân. Tự kiểm tra, đánh giá kết quả học tập và nghiên cứu, đồng thời có tác dụng giúp
học sinh phát triển hài hịa nhân cách của mình. Thơng qua môi trường học tập hợp tác,
học sinh không chỉ học được tri thức, kinh nghiệm, thái độ mà còn học được các kỹ
năng thực hành, kỹ năng hợp tác, cộng tác, học cách tương tác. Ngoài ra học tập theo

nhóm kết hợp với thảo luận tồn lớp cịn giúp học sinh phát triển ý thức làm việc tập
thể, phát huy trí tuệ tập thể, phát huy tính tích cực học tập, năng lực tự học của học
sinh như năng lực tổ chức, quản lý, tạo điều kiện để học sinh trải nghiệm thành cơng
hay thất bại của mình.
4. Hướng dẫn các bạn học sinh chọn lọc tư liệu, tình huống liên quan đến nội
dung bài học qua các kênh thông tin đại chúng hoặc qua thực tế đời sống phù
hợp với bộ môn
Nếu chúng ta chỉ căn cứ đơn thuần vào các số liệu trong sách giáo khoa mà thiếu
thông tin mới sẽ không thuyết phục được người học mà phải biết kết hợp với những
kiến thức bổ trợ khác. Ngày nay, các điều kiện thông tin rất thuận lợi, học sinh rất
thông minh, nhanh nhạy, nếu chúng ta biết tận dụng, khai thác sẽ là nguồn tư liệu
phong phú và quý giá phục vụ cho quá trình dạy học. Vì vậy, tùy vào bài học cụ thể,
mà giáo viên khuyến khích, giao cho học sinh thu thập tài liệu, tình huống liên quan

20


đến nội dung bài học. Đây cũng là bước đầu tiên tập đợt cho các em nghiên cứu khoa
học. Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh những cách chọn lọc tư liệu, tình huống liên
quan đến bộ mơn.
Những tư liệu mà các em tìm được sẽ là những minh chứng sống động làm cho
giờ học trở nên thực tế hơn. Hơn nữa, các em sẽ phấn khởi, tự tin khi khiến thức mà
mình thu thập được thầy cơ ứng dụng vào bài học, được các bạn trong lớp phân tích,
mổ xẻ trở thành những kiến thức sống động. Đây chính là một biện pháp hiệu quả nhất
làm nâng cao năng lực tự học của học sinh.

5. Rèn kĩ năng tự học, tự nghiên cứu cho các bạn học sinh
5.1. Đầu tiên là rèn kĩ năng xác định vấn đề cần nghiên cứu
Kĩ năng này đóng vai trị quan trọng, định hướng toàn bộ mọi hoạt động của
học sinh. Với học sinh phổ thông, việc vấn đề cần nghiên cứu thường do giáo viên giao

cho hoặc các em tự xác định được thông qua các câu hỏi, các bài tập và tình huống có
vấn đề mà giáo viên đưa ra. Các em cũng có thể độc lập xác định được vấn đề cần
nghiên cứu trong quá trình tự học mà không cần sự định hướng hay gợi ý của giáo
viên. Để rèn kĩ năng xác định vấn đề nghiên cứu cho học sinh, trong quá trình dạy hai
giáo viên sẽ giao cho các em các câu hỏi, bài tập dựa trên các tình huống có vấn đề rồi
hướng dẫn các em cách xác định các yêu cầu của câu hỏi, bài tập (phân tích đề).

21


5.2. Tiếp đến là rèn kĩ năng lựa chọn tài liệu
Trước và sau khi xác định được vấn đề cần nghiên cứu, học sinh cần biết tìm
nguồn tài liệu phù hợp. Khả năng tìm kiếm tài liệu sẽ góp sức đắc lực cho người học
trong cả quá trình viết bài, làm cho bài viết có cả chiều sâu và độ rộng. Nguồn tài liệu
phù hợp cũng giúp học sinh kiểm tra lại khâu xác định vấn đề cần nghiên cứu của
mình xem mình xác định vấn đề đã đúng và đủ chưa. Nguồn tài liệu cơ bản nhất của
học sinh là sách giáo khoa và vở ghi. Vì vậy, các em cần biết cách tra các tên sách từ
các mục lục phân loại trên thư viện. Ngoài ra, các em có thể sử dụng nguồn thơng tin
từ internet. Trong nhiều trường hợp, giáo viên có thể đưa ra một số trang web tin cậy
làm nguồn chỉ dẫn tài liệu tham khảo cho học sinh.
5.3. Rèn kĩ năng xác định mục đích đọc tài liệu
Khi đọc một tài liệu nào đó, người đọc cần xác định mục đích đọc của mình.
Đầu tiên cần xác định thơng tin mình cần có trong tồn bộ tài liệu đó hay khơng hay
chỉ là một đoạn nhỏ. Muốn vậy cần có thói quen đọc phần mở đầu và đọc qua mục lục,
nếu khơng có mục lục cần đọc lướt qua các ý chính. Sau khi tìm được nội dung cần
đọc, hãy đọc kĩ, vừa đọc vừa nghiền ngẫm để có thể hiểu sâu sắc.
5.4. Rèn kĩ năng ghi chép thông tin
Học sinh khi đọc tài liệu cũng như khi nghe giảng cần phải ghi chép lại để đỡ
tốn thời gian đọc lại cũng như sử dụng thông tin từ tài liệu để giải quyết vấn đề tốt
hơn, ghi nhớ thông tin nhanh và lâu hơn. Trong học tập, kĩ năng ghi chép của người

học đóng vai trị quan trọng, nó thể hiện cách thu nhận, xử lý và định hướng quá trình
ghi nhớ và sử dụng thông tin. Các nội dung ghi trong vở cũng nên chú thích nguồn để
sau này khơng mất nhiều cơng đọc lại nữa.Học sinh được rèn thói quen chủ động nắm
bắt và ghi những vấn đề mà giáo viên giảng, không thụ động ngồi chờ giáo viên đọc
cho chép. Do được yêu cầu chuẩn bị bài trước ở nhà nên chúng tôi kết hợp rèn cho học
sinh kĩ năng ghi những vấn đề cần thiết, những vấn đề chưa rõ,…
Để làm được như vậy, giáo viên cần hướng dẫn học sinh trong quá trình đọc
trước ở nhà, cần xác định trọng tâm của bài, xác định nội dung nào mình đã hiểu kĩ,

22


nội dung nào chưa hiểu để tập trung lắng nghe và ghi bài vào nội dung đó- ghi lại một
cách ngắn gọn nội dung chính cũng như thành bảng, sơ đồ, bản đồ khái niệm.
5.5. Rèn kĩ năng đặt câu hỏi
Khi đọc tài liệu, bên cạnh việc trả lời các câu hỏi của thầy cô, người học cũng
cần luôn tự đặt các câu hỏi tại sao, như thế nào, để làm gì, là cái gì…Các câu hỏi đó có
thể được đặt khi học sinh không hiểu vấn đề mà tài liệu trình bày nhưng cũng có thể
được đặt ra để tranh luận với bạn, với thầy. Cách làm này làm cho vấn đề được đào sâu
hơn do nó được lật đi lật lại nhiều lần theo nhiều hướng khác nhau. Đồng thời, trong
quá trình tranh luận, người học được bổ sung thêm kiến thức từ bạn, kích thích thêm
tính ham học của mỗi người. Khi vấn đề khó đi đến thống nhất có thể hỏi thầy. Do tính
cạnh tranh và tâm lí lứa tuổi là muốn khẳng định mình nên việc làm trên phát huy
được sự tích cực của người hỏi và người được hỏi.
5.6. Rèn kĩ năng diễn đạt lại thông tin đã thu được theo ý hiểu của bản thân
người học
Thơng tin thu được có thể được người học ghi lại một cách vắn tắt, lập thành sơ
đồ, bảng biểu,… Các sơ đồ, bảng biểu có thể được sử dụng để giúp người học ghi nhớ
nhưng có thể là để hiểu, để củng cố hoặc mở rộng, nâng cao về một nội dung cụ thể
hoặc để hệ thống hóa kiến thức. Kĩ năng diễn đạt lại thơng tin trong quá trình học theo

ý hiểu của người học là một kĩ năng vơ cùng quan trọng, nó giúp người học khơng chỉ
biết mà cịn phải hiểu và vận dụng được kiến thức đã học một cách linh hoạt. Đó cũng
là kĩ năng vô cùng quan trọng trong viết luận, nó quyết định tính thuyết phục của bài
luận vì một trong những yêu cầu của bài tiểu luận là “người học cần phải diễn đạt
được kiến thức theo ý hiểu của bản thân mình”. Và do đó, tất yếu là việc viết luận
thường xuyên cũng góp phần rèn luyện, nâng cao và hoàn thiện kĩ năng này cho người
học. Kĩ năng này cũng chỉ được hình thành và hồn thiện khi người học được rèn
luyện một cách tỉ mỉ trong quá trình học.

23


5.7. Rèn hoc sinh kĩ năng tư duy đa chiều
Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo nhiều chiều hướng, nhiều mặt khác
nhau, thậm chí là đối lập nhau. Thực tế cho thấy, sách không phải lúc nào cũng đúng,
cũng đủ “khn vàng thước ngọc”. Có những điều thầy, người viết sách nhận thức
đúng, nhưng có điều chưa nhận thức được hoặc nhận thức còn chưa đúng. Đặc biệt,
khi sử dụng Internet, đương nhiên học sinh sẽ có thể đọc được những nguồn thơng tin
khơng chính xác, nhiều khi là có hại cho các em. Đây cũng là khó khăn mà nhiều học
sinh vấp phải khi đọc tài liệu để viết tài liệu.Vì vậy, trong quá trình thực hiện đề tài
này, cần rèn kĩ năng tư duy đa chiều vào quá trình rèn kĩ năng tự nghiên cứu tài liệu.
6. Giúp các bạn học sinh biết xây dựng kế hoạch hoạt động hiệu quả
“Biết cách học là đủ chứng tỏ bạn thơng thái” – Henry Brooks Adams. Vì vậy,
để tìm được cách học tập đạt hiệu quả nhất, bạn cần hiểu rõ về:
– Bản thân mình.
– Khả năng học của bạn.
– Cách học hiệu quả mà bạn đã từng dùng.
– Đam mê, kiến thức và môn bạn muốn học. Có thể bạn học Vật lí khá dễ dàng nhưng
lại gặp khó khăn khi học mơn Giảng văn (hoặc ngược lại). Tuy nhiên, mọi việc học
đều có điểm chung: đó là chúng bao gồm bốn bước cơ bản sau. Nhưng trước tiên, hãy

để đầu óc bạn thư giãn chút rồi ta bắt đầu xây dựng cách học cho mình qua việc trả lời
các câu hỏi dưới đây.
- Kế hoạch phải được xây dựng mỗi ngày, mỗi tuần, mỗi tháng

24


6.1. Bắt đầu với những kinh nghiệm đã có
- Trước đây bạn đã học như thế nào? Bạn có:
Thích đọc khơng? Giải tốn? Ghi nhớ? Diễn thuyết? Dịch? Nói trước đám
đơng? Biết cách tóm tắt?...
- Thói quen học của bạn là gì? Những thói quen đó đã bao giờ thay đổi chưa? Phương
pháp nào hiệu quả nhất? Kém hiệu quả nhất?
- Bạn cảm thấy thoải mái với cách trình bày kiến thức nào nhất? Qua bài kiểm tra viết,
bài thi học kỳ hay thi vấn đáp?

6.2. Liên hệ với việc học hiện tại
Tơi thích học mơn này đến mức nào? Tôi muốn dành bao nhiêu thời gian cho việc
học môn này?Điều gì có thể chi phối thời gian của tơi? Những điều kiện hiện tại
có thuận lợi để hồn thành mục tiêu học tập của tơi khơng? Tơi có thể kiểm sốt
được gì và điều gì tơi khơng kiểm sốt được?...
6.3. Cân nhắc, xem xét quá trình và vấn đề
Tiêu đề bài học là gì? Có ý nghĩa gì? Tơi có hiểu khơng? Tơi đã có những hiểu
biết gì về vấn đề (bài học) này? Tơi có biết các vấn đề liên quan không? Những nguồn
thông tin nào sẽ hữu ích? Liệu tôi nên dựa vào một nguồn (ví dụ: sách giáo khoa) hay
khơng? Liệu tơi có cần các thơng tin khác nữa khơng?...
6.4. Cùng nhìn lại
Kế hoạch có tính đến sở trường hay sở đoạn của tôi chưa? Tôi đã chọn điều
kiện thích hợp chưa? Cơng việc có thể coi là trót lọt chưa? Và tơi có nghiêm khắc với
bản thân mình hay chưa? Tơi đã thành cơng? (Trong trường hợp này, nếu câu trả lời là

có thì, bạn nên… ăn mừng đi!)

25


×