Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

CÔNG TÁC QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TRONG CÔNG TY VẬN TẢI XÂY DỰNG VÀ CHẾ BIẾN LƯƠNG THỰC VĨNH HÀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.41 KB, 16 trang )

CÔNG TÁC QUẢN TRỊ TÀI CHÍNH TRONG CÔNG TY VẬN
TẢI XÂY DỰNG VÀ CHẾ BIẾN LƯƠNG THỰC VĨNH HÀ
Quản trị tài chính doanh nghiệp là việc lựa chọn và đưa ra các quyết định tài
chính, tổ chức thực hiện những quyết định đó nhằm đạt được mục tiêu hoạt động
của doanh nghiệp , đó là tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng làm tăng giá trị doanh
nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Trong hoạt động kinh doanh, có nhiều vấn đề tài chính nảy sinh đòi hỏi các
nhà quản trị tài chính phải đưa ra được những quyết định tài chính đúng đắn và tổ
chức thực hiện các quyết định ấy một cách kịp thời và khoa học, có như vậy Công
ty mới đứng vững và phát triển. Các quyết định tài chính có nhiều loại, có những
quyết định thuộc về chiến lược phát triển tài chính Công ty. Chẳng hạn các quyết
định đầu tư dài hạn để đổi mới kỹ thuật, công nghệ sản xuất của Công ty; các quyết
định mở rộng hoặc thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh; các quyết định tham gia
liên doanh liên kết hoặc huy động vốn... Các quyết định chiến lược trong hoạt động
tài chính thường có ảnh hưởng lớn, lâu dài đến sự phát triển và khả năng cạnh
tranh của Công ty trong tương lai.
Để các quyết định tài chính có tính khả thi và hiệu quả cao đòi hỏi nó phải
được lựa chọn trên cơ sở phân tích, đánh giá cân nhắc kỹ về mặt tài chính.
I. QUẢN TRỊ VỐN CỐ ĐỊNH, VỐN LƯU ĐỘNG
1. Vốn cố định
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, việc mua sắm, xây dựng hay lắp đặt
các tài sản cố định của Công ty đều phải thanh toán, chi trả bằng tiền. Số vốn đầu
tư ứng trước để mua sắm, xây dựng hay lắp đặt các tài sản cố định hữu hình hay vô
hình được gọi là vốn cố định của Công ty. Đó là số vốn đầu tư ứng trước vì số vốn
này nếu được sử dụng có hiệu quả sẽ không mất đi, Công ty sẽ thu hồi lại được sau
khi tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá hay dịch vụ của mình. Là số vốn đầu tư ứng
trước để mua sắm, xây dựng các tài sản cố định nên quy mô của vốn cố định nhiều
hay ít sẽ quyết định quy mô của TSCĐ, ảnh hưởng rất lớn đến trình độ trang bị kỹ
thuật và công nghệ, năng lực sản xuất kinh doanh của Công ty. Sự vận động của
vốn cố định trong quá trình sản xuất kinh doanh được thể hiện như sau:
- Vốn cố định tham gia vào nhiều chu kỳ sản xuất sản phẩm.


- Vốn cố định được luân chuyển dần dần từng phần trong chu kỳ sản xuất.
Khi tham gia vào quá trình sản xuất, một bộ phận vốn cố định được luân
chuyển và cấu thành chi phí sản xuất sản phẩm (dưới hình thức chi phí khấu hao)
tương ứng với phần giá trị hao mòn của TSCĐ.
Sau nhiều chu kỳ sản xuất vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Sau mỗi chu kỳ sản xuất phần vốn được luân chuyển vào giá trị sản phẩm dần
dần tăng lên, song phần vốn đầu tư ban đầu vào TSCĐ lại dần giảm xuống cho đến
khi TSCĐ hết thời gian sử dụng, giá trị của nó được chuyển dịch hết vào giá trị sản
phẩm đã sản xuất thì vốn cố định mới hoàn thành một vòng luân chuyển.
Vốn cố định của Công ty là một bộ phận của vốn đầu tư ứng trước về TSCĐ mà
đặc điểm của nó là luân chuyển dần dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất và
hoàn thành một vòng tuần hoàn khi TSCĐ hết thời gian sử dụng.
Trong vòng hơn 10 năm qua, kể từ khi Công ty Vận tải, Xây dựng và chế biến
lương thực Vĩnh Hà được giao quyền chủ động sản xuất kinh doanh, Công ty đã
đầu tư đổi mới tài sản cố định của mình. Công ty đã thực hiện đầu tư máy móc
thiết bị nhằm nâng cao hơn nữa quy mô sản xuất và khả năng cạnh tranh của toàn
Công ty trên thị trường.
Toàn bộ tài sản cố định của Công ty hiện có khoảng 6,805 tỷ đồng. Trong đó
nhà xưởng 2,3 tỷ; máy móc thiết bị, phương tiện vận tải là 3,5 tỷ đồng và với
10.000m
2
đất mặt bằng Công ty cho thuê nhà xưởng, kho bãi. Nhà xưởng hầu như
mới được xây dựng với kiến trúc kiên cố, rộng rãi, thông thoáng phù hợp với sản
xuất. Trong thời gian tới Công ty sẽ mua sắm thêm trang thiết bị mới hiện đại
phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đó là một phần trong chương trình
mục tiêu của Tổng Công ty Lương thực Việt Nam nhằm tăng kim ngạch xuất khẩu
của Công ty. Trong thời gian tới, Công ty còn tiếp tục nhập thêm một số thiết bị
khác phục vụ cho sản xuất đáp ứng nhu cầu thị trường ngày càng mở rộng của
Công ty.
2. Vốn lưu động

Để tiến hành sản xuất kinh doanh ngoài các tư liệu lao động các Công ty còn
cần có các đối tượng lao động. Khác với các tư liệu lao động, các đối tượng lao
động (như nguyên nhiên vật liệu, bán thành phẩm...) chỉ tham gia vào một chu kỳ
sản xuất và không giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu, giá trị của nó được dịch
chuyển toàn bộ, một lần vào giá trị sản phẩm.
Những đối tượng lao động nói trên nếu xét về hình thái hiện vật được gọi là
các TSLĐ, còn về hình thái giá trị được gọi là vốn lưu động của Công ty. Trong các
Công ty người ta thường chia TSLĐ thành hai loại : TSLĐ sản xuất và TSLĐ lưu
thông. TSLĐ sản xuất bao gồm các loại nguyên nhiên vật liệu; phụ tùng thay thế,
bán thành phẩm, sản phẩm dở dang đang trong quá trình dự trữ sản xuất hoặc sản
xuất, chế biến. Còn TSLĐ lưu thông bao gồm các sản phẩm thành phẩm chờ tiêu
thụ, các loại vốn bằng tiền, các khoản vốn trong thanh toán, các khoản chi phí chờ
kết chuyển, chi phí trả trước...Trong quá trình sản xuất kinh doanh các TSLĐ sản
xuất và TSLĐ lưu thông luôn vận động, thay thế và chuyển hoá lẫn nhau, đảm bảo
cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục.
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá - tiền tệ, để hình thành các TSLĐ sản
xuất và TSLĐ lưu thông, các Công ty phải bỏ ra một số vốn đầu tư ban đầu nhất
định. Vì vậy, cũng có thể nói vốn lưu động của Công ty là số vốn tiền tệ ứng trước
để đầu tư, mua sắm các TSLĐ của Công ty.
Hiện nay số vốn hoạt động của Công ty là 9,781 tỷ đồng, trong đó gồm vốn
tự có, vốn nhà nước cấp một phần, còn lại phải đi vay ngân hàng. Vốn ngân sách
do cấp trên đã bị cắt giảm, do vậy để tự chủ trong kinh doanh hàng năm Công ty
vẫn phải vay vốn ngân hàng để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc biệt
tronng dịp giáp hạt Công ty phải đảm bảo vốn để dự trữ lương thực từ 3000 đến
4000 tấn thóc và đâụ tương. Việc sản xuất kinh doanh của Công ty khá hiệu quả,
sản phẩm sản xuất được tiêu thụ hết không tồn kho nhiều, do vậy vòng quay vốn
nhanh trả nợ Ngân hàng đúng hạn. Thời gian qua Công ty đã thực hiện nhiều biện
pháp nhằm nâng cao sức mạnh tài chính như: thanh lý các tài sản ứ đọng, các thiết
bị cũ nát, thường xuyên kiểm xoát công nợ, thực hiện đúng nguyên tắc tài chính.
Tình hình tài chính mạnh là cơ sở để Công ty thực hiện các chiến lược kinh doanh

mới đầu tư vào các dự án khả thi nhằm tăng doanh thu của Công ty.
3. Cơ cấu vốn của Công ty
Tổng tài sản của Công ty là 16,586 tỷ đồng
TSCĐ
Tỷ trọng = x 100%
TSCĐ Tổng tài sản
6,805
Tỷ trọng TSCĐ = x100% = 41%
16,586
TSLĐ
Tỷ trọng = x 100%
TSLĐ Tổng tài sản
9,781
Tỷ trọng TSCĐ = x100% = 59%
16,586
Qua trên ta thấy được cơ cấu vốn của Công ty, tổng vốn đầu tư cho TSCĐ
lớn hơn TSLĐ nhưng không vượt quá nhiều, nói chung cơ cấu khá hợp lý.
II. DOANH THU, LỢI NHUẬN
1. Doanh thu
Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, để tạo ra được sản phẩm hàng hoá,
dịch vụ các Công ty phải dùng tiền để mua sắm nguyên nhiên vật liệu công cụ
dụng cụ...để tiến hành sản xuất, tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, tiến hành
tiêu thụ và thực hiện các dịch vụ bán hàng và thu tiền về, tạo nên doanh thu của
Công ty. Ngoài phần doanh thu do tiêu thụ những sản phẩm do Công ty sản xuất ra,
còn bao gồm những khoản doanh thu do các hoạt động khác mang lại. Từ góc độ
của Công ty xem xét, có thể thấy rằng doanh thu của Công ty là toàn bộ các khoản
tiền thu được từ các hoạt động kinh doanh và các hoạt động khác mang lại.
Doanh thu của Công ty có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bộ hoạt động của
Công ty. Doanh thu là nguồn tài trợ chính quan trọng để đảm bảo trang trải các
khoản chi phí hoạt động kinh doanh, đảm bảo cho Công ty có thể tái sản xuất giản

đơn cũng như tái sản xuất mở rộng; là nguồn để các Công ty có thể thực hiện các
nghĩa vụ với nhà nước như nộp các khoản thuế theo quy định.
2. Lợi nhuận
Lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động sản xuất kinh
doanh, là chỉ tiêu chất lượng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các hoạt động của
Công ty. Nó phản ánh đầy đủ các mặt số lượng và chất lượng hoạt động của Công
ty, phản ánh kết quả việc sử dụng các yếu tố cơ bản của sản xuất như lao động, vật
tư, tài sản cố định...
Lợi nhuận của Công ty là khoản tiền chênh lệch giữa doanh thu và chi phí
mà Công ty bỏ ra để đạt được doanh thu đó từ các hoạt động của Công ty đưa lại.
Lợi nhuận là nguồn vốn quan trọng để tái sản xuất mở rộng, là nguồn hình
thành nên thu nhập của ngân sách nhà nước thông qua việc thu thuế lợi tức. Một bộ
phận lợi nhuận được để lại Công ty thành lập các quỹ, tạo điều kiện mở rộng quy
mô sản xuất, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên.
Bất kỳ Công ty nào hoạt động sản xuất kinh doanh thì mục tiêu cuối cùng
cũng là doanh thu và lợi nhuận cao. Trong thời gian qua, Công ty Vận tải, Xây
dựng và chế biến lương thực Vĩnh Hà cũng đã đạt được một số kết quả đáng kể
trong hoạt động sản xuất kinh doanh của mình đem lại một nguồn lợi nhuận tương
đối đảm bảo cho đời sống của các cán bộ công nhân và làm tròn nghĩa vụ đối với
nhà nước.
BẢNG 9: KẾT QUẢ SẢN XUẤT KINH DOANH GIAI ĐOẠN 2000-2002
Chỉ tiêu
Đơn vị
2000 2001 2002
1.Tổng doanh thu
Trđ 68.000 70.000 73.100
2.Lợi nhuận
- 1230 1267 1.310
3.Thu nhập bình quân
một công nhân

1000 đ 700 800 850
Tỷ suất lợi nhuận % 1,8 1,81 1,79
- Tỷ suất lợi nhuận doanh thu bán hàng:

Tst
Trong đó : Tst : tỷ suất lợi nhuận doanh thu
P : Lợi nhuận
T : Doanh thu
P
=
X 100%
T

×