Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.22 KB, 12 trang )

ĐIỀU KIỆN BẢO HỘ CHỈ DẪN ĐỊA LÝ
1. Khái niệm.
Hiệp định TRIPs là văn bẳn đầu tiên đề cập đến chỉ dẫn địa lý. Trước đó, các vấn đề
liên quan đến chỉ dẫn nguồn gốc địa lý được xác định theo các thuật ngữ: chỉ dẫn nguồn
gốc và tên gọi xuất xứ. Nói cách khác chỉ dẫn địa lý là thuật ngữ có nguồn gốc từ hai
thuật ngữ chỉ dẫn nguồn gốc và tên gọi xuất xứ hàng hoá. Khi tìm hiểu về chỉ dẫn địa lý
trước hết ta tìm hiểu về hai khái niệm chỉ dẫn nguồn gốcvà tên gọi xuất xứ hàng hoá.
- Chỉ dẫn nguồn gốc (Indication of source) là thuật ngữ xuất hiện sớm nhất trong
ba thuật ngữ trên. Từ xa xưa, trong giao lưu thương mại, các chủ thể thông qua việc gắn
các dấu hiệu trên sản phẩm để phân biệt sản phẩm hàng hoá của mình với các sản phẩm
hàng hoá của các chủ thể khác khi đưa chứng lưu thông trên thị trường. Các dấu hiệu
này có thể chỉ đơn thuần mang chức năng xác định người tạo ra sản phẩm đó, có thể bao
gồm cả chức năng xác định nơi mà sản phẩm đó tạo ra.
Chỉ dẫn nguông gốc lần đầu tiên được đề cập đến trong công ước Pari (1883) về bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp, nhưng công ước này chưa đưa ra khái niệm cũng như các
dấu hiệu của chỉ dẫn nguồn gốc. Kế thừa và phát triển công ước Pari, thoả ước Madrid
(1891)về đăng ký quốc tế nãhn hiệu hàng hóa quốc tế đã quy định về chỉ dẫn nguồn gốc.
“Bất kì sản phẩm nào mang chỉ dẫn sai lệch và lừa dối mà qua đó, một trong số các
quốc gia thành viên của thoả ước Madrid hoặc một địa diểm tại nước đó được chỉ dẫn
trực tiếp hoặc gián tiếp là nước hoặc địa điểm xuất xứ hàng nhập khẩu vào bất kì quốc
gia thành viên nào của thảo ước đều bị tịch thu”.
Chỉ dẫn nguồn gốc được quy định trong thoả ước Madrid phải là dấu hiệu chỉ dẫn
chính xác về một quốc gia hoặc một địa điểm trong một quốc gia mà tại đó, hàng hoá
được tạo ra.
- Tên gọi xuất xứ hàng hoá (Appllations of orgin) thuật ngữ này cũng xuất hiện
lần đâu tiên trong công ước Pari nhưng mãi đến hiệp định Lisbon được kí kết thì khái
niệm tên gọi xuất xứ hàng hoá mới được chuẩn hoá. Theo điều 2, hiệp định Lisbon.
“Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, khu vực hoặc vùng lảnh thổ dùng
để chỉ đẫn cho sản phẩm bắt nguồn từ khu vực đó, có chất lượng hoặc những tính chất
đặc thù riêng biệt xuất phát từ môi trường địa lý, bao gồm yếu tố tự nhiên và con
người”.


Theo thoả ước Lisbon thì tên gọi xuất xứ hàng hoá cần có 4 điều kiện:
Thứ nhất là tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên gọi của một khu vực địa lý hoặc một
quốc gia cụ thể.
Thứ hai là tên gọi xuất xứ hàng hoá phải có chức năng chỉ dẫn về nguồn gốc của
hàng hoá. Hay nói ngược lại thì hàng hoá phải được sản xuất ra từ khu vực địa lý hay
nước mà nó mang chỉ dẫn xuất xứ.
Thứ ba, hàng hoá mang tên gọi xuất xứ hàng hoá phải có chất lượng, tích chất đặc
thù riêng biệt.
Thứ tư, chất lượng và tính chất đặc thù phải có mối liên hệ với môi trường địa lý.
Ở Việt Nam tên gọi xuất xứ hàng hoá lần đầu tiên được xác định theo pháp lệnh bảo
hộ quyền sở hữu công nghiệp (1989) và sau đó được đưa vào Điều 786 Bộ luật dân sự
1995.
“Tên gọi xuất xứ hàng hoá là tên địa lý của nước, địa phương dùng để chỉ xuất xứ
của hàng hoá từ nước, địa phương đó với điều kiện mặt hàng này coa tích chất, chất
lượng đặc thù dựa trên các điều kiện địa lý độc đáo và ưu việt, bao gồm yếu tố tự nhiên,
con người hoặc kết hợp cả hai yếu tố đó.”
Theo Bộ luật dân sự năm 1995 thì tên gọi xuất xứ hàng hoá cần có 4 điều kiện:
Thứ nhất là tên gọi xuất xứ hàng hoá phải là tên chính thức và đang được sử dụng
tại một quốc gia, một địa phương xác định trên bản đồ địa lý.
Ví dụ: Năm 2000 INAC( trung tâm bảo hộ rượu vang của Pháp) yêu cầu Việt Nam
bảo hộ hai sản phẩm rượu vang Champagne và Cognac. Nhà nước Việt Nam chỉ bảo hộ
cho sản phẩm rượu vang Cognac vì Champagne là một địa danh cổ nay không còn một
địa phương nào mang tên này Champagne.
Thứ hai hàng hoá mang tên gọi xuất xứ phải có xuất xứ từ nước, địa phương đã
được xác định mang tên gọi xuất xứ hàng hoá.
Thứ ba, hàng hoá mang tên gọi xuất xứ hàng hoá phải có chất lượng, tích chất đặc
thù riêng biệt.
Thứ tư, chất lượng và tính chất đặc thù phải có mối liên hệ với môi trường địa lý.
Tuy nhiên quy định trong Bộ luật dân sự năm 1995 khác với quy định trong thoả
ước Lisbon ở chỗ là mối liên hệ đặc thù với môi trường địa lý. Trong thoả ước Líbon thì

yêu cầu phải có mối liên hệ với cả yếu tố tự nhiên và yếu tố con người còn trong luật dân
sự Việt Nam thì chỉ cần có mối liên hệ với yếu tố tự nhiên hoặc yếu tố con người.
- Chỉ dẫn địa lý (geographical indications) thuật ngữ này được quy định tại khoản 1
điều 22 hiệp định TRIPs.
“Trong hiệp định này chỉ dẫn địa lý là những chỉ dẫn về hàng hoá bắt nguồn từ lãnh
thổ của một thành viên hoặc từ khu vực hay địa phương thuộc lãnh thổ đó, có chất
lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất định chủ yếu do xuất xứ địa lý”.
Từ định nghĩa trong hiệp định TRIPs ta thấy rằng để được coi là chỉ dẫn địa lý cần
có ba điều kiện:
Thứ nhất là các chỉ dẫn này có thể là dấu hiệu bất kì (từ ngữ, hình ảnh) miễn là qua
đó có thể chỉ ra được hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý được bảo hộ bắt nguồn từ lãnh thổ
của quốc gia nào hoặc thuộc khu vực địa phương nào của lãnh thổ quốc gia đó. Tuy
nhiên dấu hiệu trên hàng hoá phải liên quan đến một quốc gia cụ thể hoặc một địa
phương khu vực của một quốc gia cụ thể đến mức qua dấu hiệu người tiên dùng biết
được hàng hoá bắt nguồn từ đâu.
Thứ hai, hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý phải có nguồn gốc từ quốc gia hoặc từ khu
vực, địa phương mà hàng hoá đó được xác định mang chỉ dẫn địa lý.
Thứ ba hàng hoá mang chỉ dẫn địa lý phải có chất lượng, uy tín hoặc đặc tính nhất
định chủ yếu do quốc gia hay khu vực địa phương đã được chỉ dẫn là nơi hàng hoá bắt
nguồn quy định.
Ở Việt Nam chỉ dẫn địa lý được quy định lần đầu tiên tại nghị định 54/2000/CP-NĐ
( ngày 03 tháng 10 năm 2000) khoản 1, khoản 2 điều 10:
“1. Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ là thông tin về nguồn gốc địa lý của hàng hoá đáp
ứng đủ các điều kiện sau đây :
a) Thể hiện dưới dạng một từ ngữ, dấu hiệu, biểu tượng hoặc hình ảnh, dùng để chỉ
một quốc gia hoặc một vùng lãnh thổ, địa phương thuộc một quốc gia;
b) Thể hiện trên hàng hoá, bao bì hàng hoá hay giấy tờ giao dịch liên quan tới việc
mua bán hàng hoá nhằm chỉ dẫn rằng hàng hoá nói trên có nguồn gốc tại quốc gia,
vùng lãnh thổ hoặc địa phương mà đặc trưng về chất lượng, uy tín, danh tiếng hoặc các
đặc tính khác của loại hàng hoá này có được chủ yếu là do nguồn gốc địa lý tạo nên.

2. Nếu chỉ dẫn địa lý là tên gọi xuất xứ hàng hoá thì việc bảo hộ được thực hiện
theo quy định của pháp luật hiện hành về tên gọi xuất xứ hàng hoá.”
Như vậy tên gọi xuất xứ hàng hoá chỉ dùng ở Việt Nam từ khi có pháp lệnh bảo hộ
quyền sở hữu công nghiệp (1989) đến khi Luật sở hữu trí tụê có hiệu lực. Trong khoảng
thời gian này, từ khi nghị định 54/2000/CP-NĐ được ban hành và có hiệu lực, khái niệm
chỉ dẫn địa lý cũng được sử dụng. Mà chỉ dẫn địa lý có thể là tên gọi xuất xứ hàng hoá
mà cũng có thể không và theo quy định của bộ luật dân sự năm 1995 thì tên gọi xuất xứ
muốn được bảo hộ thì phải đăng kí còn theo nghị định 54 chỉ dẫn địa lý không cần phải
đăng kí. Có thể thấy trong giai đoạn này các quy định của pháp luật không thống nhất
gây nên sự khó phân biệt hai thuật ngữ chỉ dẫn địa lý và tên gọi xuất xứ hàng hoá .Luật
sở hữu trí tuệ năm 2005 đã bỏ thuật ngữ tên gọi xuất xứ hàng hoá thống nhất chỉ sử dụng
thuật ngữ chỉ dẫn địa lý.
Khái niệm về chỉ dẫn địa lý.
“Chỉ dẫn địa lý là dấu hiệu dùng để chỉ sản phẩm có nguồn gốc từ khu vực, địa
phương, vùng lãnh thổ hay quốc gia cụ thể”.
Như ta biết nhãn hiệu hàng hoá có chức năng để phân biệt sản phẩm vì thế các dấu
hiệu trong nhãn hiệu hàng hoá rất phong phú đa đạng (từ ngữ, hình ảnh, màu sắc, bố trí
sắp đặt, cảm giác, mùi vị …). Trong khi đó, xuất phát từ đặc trưng của chỉ dẫn địa lý là
để chỉ đẫn nguồn gốc của hàng hoá nên dấu hiệu trong chỉ dẫn địa lý phải được nhận
biết bằng thị giác (từ ngữ, hình ảnh biểu tượng).
2. Vai trò của bảo hộ chỉ dẫn địa lý
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý có hiệu quả tạo lợi ích kinh tế cho tất cả các mắt xích tham gia
quy trình sản xuất, lưu thông, tiêu dùng sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý. Ðặc biệt, việc
bảo hộ chỉ dẫn địa lý có vai trò và ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế nông
nghiệp, nông thôn. Phát triển sản xuất đặc sản (chẳng nơi nào có được), phát triển giá trị
tài sản quốc gia
Phát triển ngành, nghề truyền thống, phát triển nông nghiệp, nông thôn, hạn chế di
dân tự do về thành thị, gìn giữ và khẳng định bản sắc dân tộc,bảo vệ sự thật,quyền lợi
người tiêu dung và bảo vệ quyền lợi người sản xuất, kinh doanh.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tạo công cụ pháp lý để nhà sản xuất chống lại các hành vi giả

mạo chỉ dẫn địa lý. Từ đó, nhà sản xuất có thể gia tăng giá trị cho sản phẩm của mình.
Một khi người tiêu dùng biết chắc chắn hàng hóa định mua là sản phẩm thật sự được bảo
đảm về nguồn gốc, họ sẵn sàng trả giá cao cho sản phẩm đó. Tuy nhiên, để có được điều
đó cũng đòi hỏi bản thân các nhà sản phẩm phải tự hoàn thiện và bảo đảm quy trình sản
xuất, kinh doanh sản phẩm để có thể đưa ra thị trường các sản phẩm có chất lượng ổn
định, có nguồn gốc rõ ràng.
Hiện nay, Cục Sở hữu trí tuệ mới chỉ cấp 13 Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý
cho 11 sản phẩm trong nước và 2 sản phẩm nước ngoài (đó là “Thanh Hà” cho sản phẩm
vải thiểu quả, “Hải Hậu” cho gạo tám xoan, “Phú Quốc” cho sản phẩm nước mắm,
“Phan Thiết” cho sản phẩm nước mắm được sản xuất trên vùng lãnh thổ thuộc thành phố
Phan Thiết, “Buôn Ma Thuột” cho sản phẩm cà phê, “Lạng Sơn” cho sản phẩm hoa hồi,
“Vinh” cho sản phẩm cam quả, “Tân Cương” dùng cho sản phẩm chè, Mộc Châu dùng
cho sản phẩm chè Shan tuyết, “Đoan Hùng” dùng cho sản phẩm bưởi quả và ”Bình
Thuận” cho sản phẩm quả thanh long. Cùng với 2 chỉ dẫn địa lý của nước ngoài
“Cognac” cho rượu và “Pisco” cũng cho sản phẩm rượu”. Nhưng cũng mới chỉ có một
vài địa phương đã hoàn thiện và đưa vào quản lý tương đối có hiệu quả Quy chế quản lý
và sử dụng chỉ dẫn địa lý của mình. Việt Nam còn có rất nhiều đặc sản nổi tiếng và có
giá trị xuất khẩu lớn như hồng ngâm Bắc Kạn, tương Bần Hưng Yên, dừa Bến Tre....
Ông Stephane Passeri - chuyên gia trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ đến từ Pháp - cho rằng,
nếu không được bảo hộ chỉ dẫn địa lý thì những đặc sản này sẽ dần mất đi chỉ trong
vòng 20 năm tới. Nông dân có thể sẽ chuyển sang trồng những giống cây mới có năng
suất hơn, do không nhận được nhiều lợi nhuận từ những sản phẩm cũ. Theo ông Passeri,
người dân ở EU hay nhiều nơi khác trên thế giới sẵn sàng bỏ ra số tiền gấp đôi gấp ba,
thậm chí gấp 5 lần để mua được những sản phẩm nổi tiếng của một vùng miền nào đó.
"Chẳng hạn như gà Gresse - đã được bảo hộ chỉ dẫn địa lý - của Pháp được bán với giá
đắt gấp 5 lần so với những con gà bình thường, nhưng luôn rất đắt hàng", ông kể.
Về mặt chiến lược, chỉ dẫn địa lí có nhiều tác dụng kinh doanh mạnh mẽ giống như
tác dụng của nhãn hiệu hàng hóa.Tầm cỡ của những đặc sản địa phương có thể được
nâng lên trong con mắt người tiêu dung khi một cộng đồng người địa phương và các
thành viên của cộng đồng được hưởng độc quyền để sử dụng một chỉ dẫn địa lí riêng

biệt.
Ngoài ra, chỉ dẫn địa lí có thể bổ sung cho sản phẩm khả năng marketing rất năng
động, đặc biệt khi chất lượng làm nên sự nổi tiếng của một vùng được bảo hộ thực sự
bằng kinh nghiệm của người sử dụng qua thời gian vì chỉ dẫn địa lí vốn dĩ thuộc sở hữu
tập thể nên chúng là công cụ tuyệt vời đối với sự phát triển kinh tế khu vực và kinh tế
dựa trên cộng đồng
Ngoài việc tạo danh tiếng và nâng được giá của sản phẩm trên thương trường, việc
bảo hộ chỉ dẫn địa lý còn giúp thu hút đầu tư và quảng bá du lịch cho vùng có sản phẩm
đặc sản đó.
3. Điều kiện bảo hộ chỉ dẫn địa lý.
Bảo hộ chỉ dẫn địa lý tức bảo hộ độc quyền của cư dân thuộc một vùng sử dụng chỉ
dẫn địa lý cho các sản phẩm có nguồn gốc từ vùng đó. Trong Luật sở hữu trí tuệ 2005
không quy định thế nào là hộ chỉ dẫn địa lý nhưng đã quy định điều kiện bảo hộ đối với
chỉ dẫn địa lý tại điều 79:
“Chỉ dẫn địa lý được bảo hộ nếu đáp ứng các điều kiện sau đây:
1.Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có nguồn gốc địa lý từ khu vực, địa phương, vùng
lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ dẫn địa lý;
2.Sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý có danh tiếng,chất lượng hoặc đặc tính chủ yếu do
điều kiện địa lý của khu vực, địa phương,vùng lãnh thổ hoặc nước tương ứng với chỉ
dẫn địa lý đó quyết định.”

×