Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (243.07 KB, 38 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN
VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP XÂY DỰNG
1.1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ KẾ TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU
1.1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM CỦA NGUYÊN, VẬT LIỆU
Bất kì doanh nghiệp nào, dù là doanh nghiệp sản xuất hay doanh nghiệp xây
lắp, để tạo ra sản phẩm thì không thể thiếu được yếu tố nguyên, vật liệu.
Nguyên, vật liệu là những đối tượng lao động được thể hiện dưới dạng vật hóa,
chỉ tham gia vào một chu kì sản xuất, kinh doanh nhất định và toàn bộ giá trị vật
liệu được chuyển hết một lần vào chi phí kinh doanh trong. Trong quá trình tham
gia vào hoạt động sản xuất, dưới tác động của lao động, nguyên, vật liệu bị tiêu
hao toàn bộ hoặc bị thay đổi hình thái vật chất ban đầu.
1.1.2. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH
NGHIỆP XÂY DỰNG
Các đơn vị xây dựng cơ bản mang những nét đặc trưng riêng của ngành xây
dựng đó là thi công và đảm nhiệm những công trình dân dụng và công nghiệp có
quy mô lớn, kết cấu phức tạp và thời gian xây dựng lâu dài, khối lượng thi công
hầu hết làm ngoài trời, do vậy quá trình sản xuất rất phức tạp. Sản phẩm sản xuất
của công ty là những bất động sản có giá trị lớn, chúng không được trao đổi trực
tiếp trên thị trường như các sản phẩm hàng hóa khác mà nó chỉ có được khi hợp
đồng xây dựng được kí kết. Sản phẩm sau khi hoàn thành được bàn giao cho đơn
vị sử dụng và trở thành tài sản cố định của đơn vị đó. Chất lượng của chúng không
được khẳng định ngay mà nó phải được kiểm nghiệm qua một thời gian nhất định.
Do đó. Nguyên, vật liệu trong các doanh nghiệp xây dựng cũng mang một số đặc
điểm riêng đó là:
- Trong doanh nghiệp xây dựng, nguyên, vật liệu được thể hiện dưới dạng vật
hóa, có tính chất lí hóa riêng biệt. Nguyên vật liệu sử dụng thường có giá trị lớn,
chủng loại khá nhiều, tuy nhiên không được phong phú như trong các doanh
nghiệp sản xuất sản phẩm.
- Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xây dựng sử dụng những loại vật
liệu có tính chất vật lí bền, chắc, ít bị hư hỏng qua thời gian. Phải trải qua một thời
gian rất lâu thì vật liệu mới giảm chất lượng. Vật liệu thường có khối lượng và kích


thước lớn và phần lớn đã qua quá trình chế biến, không còn giữ y nguyên tính chất
và hình dạng ban đầu như xi măng, sắt, thép, gạch, ngói,…
Trong các doanh nghiệp xây dựng, nguyên, vật liệu chiếm tỷ trọng rất lớn và
đóng vai trò tối quan trọng.
- Nguyên vật liệu là yếu tố chính trong ba yếu tố cấu thành nên thực thể của sản
phẩm. Trong quá trình tham gia vào hoạt động SXKD, nguyên, vật liệu trực tiếp
tham gia vào trực tiếp vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. Về mặt hiện vật, nó
không còn giữ được hình thái ban đầu; về mặt giá trị, nó chuyển dịch toàn bộ vào
chi phí kinh doanh của doanh nghiệp.
- Trong doanh nghiệp, chi phí nguyên, vật liệu thường chiếm tỷ trọng lớn trong
tổng chi phí. Nhất là đối với doanh nghiệp xây dựng thì nó chiếm tỷ trọng rất lớn
và đóng vai trò quyết định tới chất lượng sản phẩm. Việc cung cấp nguyên, vật liệu
có đầy đủ hay không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tiến độ thi công, xây dựng, đồng
thời chất lượng công trình cũng bị ảnh hưởng. Điều này có nghĩa là việc thi công
sẽ không thể tiến hành nếu không có nguyên, vật liệu; chất lượng của nguyên, vật
liệu kém thì chất lượng của sản phẩm (các công trình xây dựng cơ bản) khi hoàn
thành cũng không đạt làm ảnh hưởng xấu tới kết quả toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Tăng cường quản lí công tác kế toán nguyên, vật
liệu đảm bảo việc sử dụng nguyên, vật liệu tiết kiệm, hiệu quả nhằm hạ giá thành
sản phẩm có ý nghĩa quan trọng. Do đó doanh nghiệp cần có chiến lược quản lí
chặt chẽ, chính xác NVL ở tất cả các khâu trong đó kế toán NVL đóng vai trò then
chốt.
1.1.3. PHÂN LOẠI NGUYÊN VẬT LIỆU TRONG DOANH NGHIỆP XÂY
DỰNG
Phân loại nguyên, vật liệu là việc căn cứ vào tiêu thức nào đó, tùy theo yêu
cầu quản lí để sắp xếp từng thứ, loại vật liệu vào theo cùng một nhóm.
Trong các doanh nghiệp xây dựng, việc phân loại nguyên, vật liệu cũng được
thực hiện như các doanh nghiệp sản xuất. Để có thể quản lí chặt chẽ và thuận tiện
cho việc tổ chức hạch toán nguyên, vật liệu tới từng loại, từng thứ phục vụ cho nhu
cầu quản lí doanh nghiệp, căn cứ vào nội dung kinh tế, vai trò của từng loại NVL

và yêu cầu kế toán quản trị trong doanh nghiệp, NVL được chia thành những loại
sau:
- Nguyên liệu, vật liệu chính: Là đối tượng lao động chính cấu tạo nên thực
thể sản phẩm như: gạch, đá, xi măng,… trong các doanh nghiệp xây dựng, sắt,
thép, … trong các doanh nghiệp cơ khí,... Đối với các loại NVL mua ngoài với
mục đích tiếp tục quá trình SXKD như dầu cho lắp ráp, chạy máy cũng được coi là
NVL chính.
- Nguyên liệu, vật liệu phụ: Là các loại NVL chỉ có tác dụng phụ trong quá
trình thi sản xuất hoặc thi công, làm tăng chất lượng NVL chính, tăng chất lượng
sản phẩm hay phục vụ nhu cầu quản lí, phục vụ sản xuất như: sơn, phụ gia,…
- Nhiên liệu: là các loại năng lượng ở thể lỏng, khí, rắn phục vụ công nghệ
sản xuất sản phẩm. Trong các doanh nghiệp xây lắp, nhiên liệu chiếm tỷ trọng khá
lớn, đó là các loại chất đốt, năng lượng để chạy các máy thi công, phương tiện vận
tải như: xăng, dầu diezen,…
- Phụ tùng thay thế: Bao gồm các loại phụ tùng, chi tiết dùng để thay thế, sửa
chữa phương tiện, máy móc, thiết bị xây lắp,…
- Vật liệu và thiết bị xây dựng cơ bản: Bao gồm những vật liệu và thiết bị (cần
lắp, không cần lắp, vật kết cấu, công cụ, khí cụ,…) mà doanh nghiệp mua vào
nhằm mục đích đầu tư cho xây dựng cơ bản.
- Nguyên liệu, vật liệu khác: Trong các doanh nghiệp xây dựng thì đó là những
sản phẩm, phế liệu thu hồi được trong quá trình thi công nếu còn có tác dụng phụ
thì được đem sử dụng lại như: sắt, thép vụn,…
Việc phân loại giúp cho kế toán tổ chức các tài khoản, tiểu khoản để phản ánh
tình hình hiện có và sự biến động của các loại vật liệu đó trong quá trình SXKD.
Đồng thời giúp doanh nghiệp biết được nội dung kinh tế và vai trò, chức năng cảu
từng loại vật liệu. Từ đó đề ra các phương pháp và biện pháp quản lí và sử dụng
vật liệu có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, còn tùy thuộc vào yêu cầu quản lí và hạch
toán chi tiết cụ thể mà từng loại vật liệu được chia thành từng nhóm riêng. Để đảm
bảo tiến hành chặt chẽ và hoạt động được tiến hành thường xuyên, liên tục không
bị gián đoạn thì các loại nguyên liệu, vật liệu cần được phân loại tỷ mỉ hơn theo

tính năng lí, hóa, quy cách, phẩm chất của vật liệu. Do đó, trong các doanh nghiệp
cần phải giả định sổ danh mục điểm cho các loại nguyên liệu, vật liệu để việc quản
lí thuận tiện và dễ dàng hơn. Sổ danh mục điểm NVL được sử dụng thống nhất
trong phạm vi toàn doanh nghiệp nhằm đảm bảo cho các bộ phận, đơn vị sử dụng
không bị nhầm lẫn với nhau.
1.1.4. ĐÁNH GIÁ NGUYÊN, VẬT LIỆU
Đánh giá nguyên, vật liệu là việc sử dụng thước đo tiền tệ để xác định giá trị
nhưng theo nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo yêu cầu chân thực, thống nhất.
Theo quy định kế toán hiện hành, việc nhập, xuất, tồn kho vật liệu phải tính
theo giá thực tế có nghĩa là khi nhập kho hay xuất kho đều phải tính theo giá thực
tế theo đúng phương pháp quy định. Song đặc điểm của NVL có nhiều loại, nhiều
thứ thường xuyên biến động trong quá trình SXKD, do đó yêu cầu của công tác kế
toán NVL là phải phản ánh kịp thời hàng ngày tình hình biến động và giá trị hiện
có của vật liệu. Ngoài ra, NVL còn có thể đánh giá theo giá hạch toán, tuy nhiên kế
toán vẫn phải đảm bảo tình hình nhập xuất vật liệu trên các sổ tài khoản, các sổ kế
toán theo giá thực tế.
Tính giá nguyên vật liệu là một công tác quan trọng trong việc tổ chức hạch
toán nguyên vật liệu. Tính giá nguyên vật liệu là việc dùng thước đo tiền tệ để biểu
hiện giá trị của nguyên vật liệu theo những nguyên tắc nhất định.
Nguyên tắc tính giá nguyên vật liệu: áp dụng điều 04 chuẩn mực kế toán
Việt Nam số 02 về hàng tồn kho được ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-
BTC ngày 31 tháng 12 năm 2001 của Bộ Tài chính: " Hàng tồn kho được tính theo
giá gốc. Trường hợp giá trị thuần có thể thực hiện được thấp hơn giá gốc thì phải
tính theo giá trị thuần có thể thực hiện được". Trong đó:
Giá gốc hàng tồn kho bao gồm : chi phí thu mua, chi phí chế biến và các chi
phí liên quan trực tiếp khác phát sinh để được hàng tồn kho ở địa điểm và trạng
thái hiện tại.
Giá trị thuần có thể thực hiện được: là giá bán ước tính của hàng tồn kho
trong kỳ sản xuất kinh doanh bình thường trừ (-) chi phí ước tính để hoàn thành
sản phẩm và chi phí ước tính cần thiết cho việc tiêu thụ chúng.

Như vậy phù hợp với chuẩn mực kế toán hàng tồn kho trong công tác hạch
toán NVL ở các doanh nghiệp, NVL được tính theo giá thực tế.
1.1.4.1. Tính giá nguyên vật liệu nhập kho
Tính giá của nguyên vật liệu nhập kho tuân thủ theo nguyên tắc giá phí.
Nguyên vật liệu nhập kho trong kỳ của doanh nghiệp bao gồm rất nhiều nguồn
nhập khác nhau. Tuỳ theo từng nguồn nhập mà giá trị thực tế của vật liệu nhập kho
được xác định khác nhau
• Đối với vật liệu mua ngoài:
Giá thực tế
của NVL
mua ngoài
=
Giá mua
ghi trên
hoá đơn
+
Chi phí
thu mua
+
Các khoản thuế
không được hoàn
lại
-
CKTM,
Giảm giá
hàng mua
Trong đó:
– Chi phí thu mua: bao gồm chi phí vận chuyển, bốc dỡ, hao hụt trong ĐM.
– Các khoản thuế không được hoàn lại: như thuế nhập khẩu, thuế GTGT (nếu
doanh nghiệp tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp)...

• Đối với vật liệu thuê ngoài gia công chế biến:
Giá thực tế
của VL thuê
ngoài gccb
=
Giá thực tế
của VL xuất thuê
ngoài gccb
+
Chi phí
thuê ngoài
gccb
+
Chi phí
vận chuyển
(nếu có)
• Đối với vật liệu tự chế:
Giá thực tế
của VL tự chế
=
Giá thành
sản xuất VL
+
Chi phí vận
chuyển (nếu có)
• Đối với vật liệu được cấp:
Giá thực tế
của VL được cấp
=
Giá theo

biên bản giao nhận
• Đối với vật liệu nhận góp vốn liên doanh:
Giá thực tế của vật liệu
nhận góp vốn liên doanh
=
Giá trị vốn góp
do hđld đánh giá
• Đối với vật liệu được biếu tặng, viện trợ:
Giá thực tế của vật liệu
được biếu tặng, viện trợ
=
Giá thị trường
tại thời điểm nhận
• Đối với phế liệu thu hồi từ sản xuất:
Giá thực tế của
phế liệu thu hồi
=
Giá có thể sử dụng lại
hoặc giá có thể bán
1.1.4.2. Tính giá nguyên vật liệu xuất kho
Việc lựa chọn phương pháp tính giá thực tế nguyên vật liệu xuất kho phải căn
cứ vào đặc điểm của từng doanh nghiệp về số lượng danh điểm, số lần nhập xuất
nguyên vật liệu, trình độ của nhân viên kế toán, thủ kho, điều kiện kho tàng của
doanh nghiệp. Theo điều 13 chuẩn mực kế toán Việt Nam số 02-Hàng tồn kho, nêu
ra 4 phương pháp tính giá xuất hàng tồn kho:
- Phương pháp giá thực tế đích danh
- Phương pháp bình quân
- Phương pháp nhập trước xuất trước
- Phương pháp nhập sau xuất trước
 Phương pháp giá thực tế đích danh:

Theo phương pháp này, vật tư nhập theo giá nào thì khi xuất kho cũng được
tính theo giá đó. Phương pháp này thường được áp dụng cho những doanh nghiệp
có ít loại mặt hàng hoặc mặt hàng ổn định và nhận diện được.
Ưu điểm: Xác định được chính xác giá vật tư xuất làm cho chi phí hiện tại phù
hợp với doanh thu hiện tại.
Nhược điểm: Trong trường hợp đơn vị có nhiều mặt hàng, nhập xuất thường
xuyên thì khó theo dõi và công việc của kế toán chi tiết vật liệu sẽ rất phức tạp.
 Phương pháp bình quân
Theo phương pháp này, trị giá xuất của vật liệu bằng số lượng vật liệu xuất
nhân với đơn giá bình quân. Đơn giá bình quân có thể xác định theo 1 trong các
phương pháp sau:
+ Bình quân cả kỳ dự trữ:
Đơn giá BQ Trị giá vật tư tồn đầu kỳ + Trị giá vật tư nhập trong kỳ)
cả kỳ dự trữ Số lượng vật tư tồn đầu kỳ + S.lượng vật tư nhập trong kỳ)
Phương pháp này thích hợp với những doanh nghiệp có ít danh điểm vật tư
nhưng số lần nhập, xuất của mỗi danh điểm nhiều.
Ưu điểm: Đơn giản, dễ làm, giảm nhẹ được việc hạch toán chi tiết nguyên vật
liệu, không phụ thuộc vào số lần nhập xuất của từng danh điểm vật tư.
Nhược điểm: Dồn công việc tính giá nguyên vật liệu xuất kho vào cuối kỳ hạch
toán nên ảnh hưởng đến tiến độ của các khâu kế toán khác.
+ Bình quân liên hoàn ( bình quân sau mỗi lần nhập):
Theo phương pháp này, sau mỗi lần nhập VL, kế toán tính đơn giá bình quân
sau đó căn cứ vào đơn giá bình quân và lượng VL xuất để tính giá VL xuất.
Đơn giá BQ Trị giá VT tồn trước lần nhập n + Trị giá VT nhập lần n
liên hoàn S.lượng VT tồn trước lần nhập n + S.lượng VT nhập lần n
Phương pháp này nên áp dụng ở những doanh nghiệp có ít danh điểm vật tư và
số lần nhập của mỗi loại không nhiều.
Ưu điểm: Phương pháp này cho giá VL xuất kho chính xác nhất, phản ánh kịp
thời sự biến động giá cả, công việc tính giá được tiến hành đều đặn.
Nhược điểm: Công việc tính toán nhiều và phức tạp, chỉ thích hợp với những

doanh nghiệp sử dụng kế toán máy.
+ Bình quân cuối kỳ trước:
Hiện nay, phương pháp bình quân cuối kì trước đã không còn được quy định
trong chuẩn mực. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn một số doanh nghiệp đang áp
dụng. Theo đó, đơn giá bình quân cuối kì trước được tính như sau:
Giá đơn vị bình quân giá thực tế vật liệu cuối kì trước
Cuối kì trước số lượng thực tế vật liệu cuối kì trước
Ưu điểm: Phương pháp này cho phép giảm nhẹ khối lượng tính toán của kế
toán vì giá vật liệu xuất kho tính khá đơn giản, cung cấp thông tin kịp thời về tình
hình biến động của vật liệu trong kỳ.
Nhược điểm: Độ chính xác của việc tính giá phụ thuộc tình hình biến động
giá cả nguyên vật liệu. Trường hợp giá cả thị trường nguyên vật liệu có sự biến
động lớn thì việc tính giá nguyên vật liệu xuất kho theo phương pháp này trở nên
thiếu chính xác.
 Phương pháp nhập trước – xuất trước:
Theo phương pháp NT – XT thì kế toán giả thiết rằng: số vật liệu nào nhập
trước thì xuất trước, xuất hết số nhập trước mới đến số nhập sau theo giá thực tế
của từng số hàng nhập. Nói cách khác, cơ sở của phương pháp này là giá thực tế
của vật liệu xuất kho sử dụng trước và do vậy, giá trị vật liệu tồn kho cuối kì sẽ là
giá thực tế của số vật liệu nhập sau cùng.
Phương pháp này chỉ thích hợp với điều kiện giá cả ổn định.
 Phương pháp nhập sau – xuất trước:
Khác với phương pháp nhập trước – xuất trước, phương pháp này lại giả định
những vật liệu nhập kho sau cùng sẽ được xuất trước tiên theo đúng giá trị của
chúng, xuất hết số nhập sau mới đến số nhập trước.
Trong điều kiện lạm phát, áp dụng phương pháp nhập sau – xuất trước sẽ đảm
bảo nguyên tắc thận trọng.
 Ngoài ra, trên thực tế, các doanh nghiệp còn có thể áp dụng phương pháp:
giá hạch toán
Giá hạch toán vật liệu là giá thành kế hoặch của một loại giá ổn định trong kì.

Khi áp dụng phương pháp này, khi xuất kho vật liệu trong kì kế toán sẽ ghi sổ theo
giá hạch toán và cuối kì sẽ điều chỉnh giá hạch toán sang giá thực tế theo công
thức:
Giá thực tế của vật Giá hạch toán của vật
liệu xuất dùng trong kì = liệu xuất dùng trong kì  Hệ số giá vật liệu
(hay tồn kho cuối kì) (hoặc tồn kho cuối kì)
Trong đó:
Hệ số giá vật liệu =
Giá thực tế vật liệu tồn đầu kì và nhập trong kì
Gía hạch toán vật liệu tồn đầu kì và nhập trong

Phương pháp giá hạch toán thực chất là phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ,
tuy nhiên khi áp dụng phương pháp này thì có ưu điểm hơn đó là việc ghi sổ kế
toán chi tiết vật liệu khá dễ làm, đơn giản, phản ánh được kịp thời tình hình biến
động vật liệu tăng giảm trong kì nhưng độ chính xác chưa cao vì còn mang tính
bình quân.
1.2. KẾ TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN, VẬT LIỆU
1.2.1. CHỨNG TỪ SỬ DỤNG KẾ TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN, VẬT LIỆU
Mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong quá trình sản xuất – kinh doanh của
một doanh nghiệp có liên quan đến việc nhập xuất NVL đều phải lập chứng từ kế
toán một cách kịp thời và đầy đủ, chính xác theo đúng chế độ ghi chép ban đầu về
vật liệu được nhà nước ban hành. Nó là cơ sở để tiến hành ghi chép trên thẻ kho và
trên sổ kế toán để kiểm tra, giám sát tình hình biến động và số hiện có của từng
thứ, từng loại nguyên liệu, vật liệu. Thực hiện quản lí có hiệu quả nguyên, vật liệu
phục vụ kịp thời cho nhu cầu sản xuất theo chế độ chứng từ kế toán quy định ban
hành theo quyết định 15/QĐ-BTC Ngày 20 tháng 03 năm 2006 của Bộ Trưởng Bộ
Tài Chính về việc ban hành chế độ kế toán doanh nghiệp và các văn bản, chứng từ
kế toán về vật liệu bao gồm:
Phiếu nhập kho (Mẫu 01 – VT)
Phiếu xuất kho (Mẫu 02 – VT)

Biên bản kiểm nghiệm vật tư, sản phẩm (Mẫu 03 – VT)
Phiếu báo vật tư còn lại cuối kì (Mẫu 04 – VT)
Biên bản kiểm kê vật tư, sản phẩm, hàng hóa (Mẫu 05 – VT)
Bảng kê mua hàng (Mẫu 06 – VT)
Bảng phân bổ vật liệu, CCDC (Mẫu 07 – VT)
Phiếu xuất kho kiêm vận chuyển nội bộ (Mẫu 03 PXK – 3LL)
Hóa đơn GTGT (Mẫu 01/GTKT – 3LL)
Ngoài các chứng từ mang tính bắt buộc sử dụng thống nhất theo qui định của
Nhà nước, trong các doanh nghiệp còn sử dụng các chứng từ kế toán hướng dẫn
như: Phiếu nhập xuất vật tư theo hạn mức (Mẫu – VT), Biên bản kiểm nghiemj vật
tư (Mẫu 05 – VT), Phiếu báo vật tư còn lại cuối kì (Mẫu 04 – VT) và các chứng từ
kế toán tùy thuộc vào tình hình cụ thể của từng doanh nghiệp hoặc các lĩnh vực
hoạt động, thành phần kinh tế, hình thức sở hữu khác nhau.
Đối với các chứng từ kế toán thống nhất bắt buộc phải lập kịp thời và đầy đủ
theo đúng quy định về mẫu biểu, nội dung, phương pháp lập, người lập chứng từ
phải chịu trách nhiệm về tính hợp lí, hợp pháp của các chứng từ về các nghiệp vụ
kinh tế tài chính phát sinh.
Mọi chứng từ kế toán về nguyên, vật liệu phải được tổ chức luân chuyển theo
trình tự thời gian hợp lí, do kế toán trưởng quy định phục vụ cho việc phản ánh,
ghi chép tổng hợp số liệu kịp thời của các bộ phận liên quan.
1.2.2. PHƯƠNG PHÁP KẾ TOÁN CHI TIẾT NGUYÊN, VẬT LIỆU
Việc quản lí nhập, xuất, tồn kho hàng ngày được thực hiện chủ yếu ở bộ phạn
kho và phòng kế toán của doanh nghiệp. Thủ kho và kế toán NVL tiến hành hạch
toán kịp thời, chính xác tình hình nhập, xuất, tồn kho vật liệu, hàng hóa theo thứ tự
nhằm quản lí chặt chẽ vật liệu theo chức năng riêng của mình. Chính vì vậy giữa
kho và phòng kế toán có sự phối hợp chặt chẽ với nhau để sử dụng các chứng từ kế
toán trong việc ghi chép vào thẻ kho của thủ kho và việc ghi chép số liệu vào các
sổ kế toán chi tiết của kế toán, đồng thời tránh được sự trùng lặp không cần thiết.
Sự liên hệ phối hợp với nhau trong việc ghi chép của thủ kho và kế toán NVL
như trên đã hình thành nên phương pháp hạch toán chi tiết vật liệu giữa kho và

phòng kế toán. Kế toán chi tiết vật liệu cũng như công cụ, dụng cụ nhỏ (gọi tắt là
vật tư) đòi hỏi phản ánh cả về giá trị, số lượng, chất lượng từng thứ (từng danh
điểm) vật tư theo từng kho và từng người phụ trách vật chất. Trong thực tế hiện
nay có ba phương pháp kế toán chi tiết vật tư sau: Phương pháp thẻ song song,
phương pháp sổ đối chiếu luân chuyển, phương pháp sổ số dư.
1.2.2.1. Phương pháp thẻ song song
Phương pháp thẻ song song là phương pháp kế toán chi tiết vật tư mà ở kho
vật tư và ở bộ phận kế toán vật tư (thuộc phòng kế toán) đều sử dụng thẻ, ở kho sử
dụng thẻ kho, còn ở bộ phận kế toán vật tư sử dụng thẻ kế toán chi tiết vật tư. Vì
thế phương pháp này được gọi là phương pháp thẻ song song. Công việc cụ thể ở
từng bộ phận như sau:
- Ở Kho: Thủ kho dùng thẻ kho để phản ánh tình hình nhập, xuất, tồn vật tư về
mặt số lượng. Mỗi chứng từ ghi một dòng vào thẻ kho. Thẻ được mở cho từng
danh điểm vật tư.
- Ở Phòng kế toán: Phòng kế toán mở thẻ kế toán chi tiết theo từng danh điểm
vật tư tương ứng với thẻ kho. Thẻ này có nội dung tương tự thẻ kho, chỉ khác là
theo dõi cả về mặt giá trị. Hàng ngày hoặc định kì, khi nhận được các chứng từ
nhập, xuất,
kho do thủ kho chuyển tới, nhân viên kế toán vật tư phải kiểm tra, đối chiếu và ghi
đơn giá hạch toán vào thẻ kho và tính ra số tiền. Sau đó, lần lượt ghi các nghiệp vụ
nhập, xuất vào các thẻ kế toán chi tiết vật tư có liên quan. Cuối tháng, tiến hành
cộng thẻ kế toán chi tiết vật tư theo từng danh điểm và đối chiếu với thẻ kho.
Sơ đồ 1.1. Kế toán chi tiết vật tư theo phương pháp thẻ song song

Phiếu nhập kho
Bảng tổng hợp nhập,
xuất, tồn kho vật tư
Thẻ kế toán chi
tiết vật tư
Thẻ kho

Kế toán tổng hợp
Phiếu xuất kho
Ghi hàng ngày
Quan hệ đối chiếu
Ghi cuối tháng

×