Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.68 MB, 116 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI
---------------------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG
TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM
CHI NHÁNH HÀ THÀNH
NGÀNH: QUẢN TRỊ KINH DOANH
MÃ SỐ:

ĐẶNG THỊ NGUYỆT ANH
Ã

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Nhuận

HÀ NỘI 2009


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2008, kinh tế thế giới bước vào giai đoạn nhiều bất ổn, đặc biệt
chứng kiến hệ quả của sự đổ vỡ của thị trường bất động sản Mỹ, đã dẫn đến sự
sụp đổ của các định chế tài chính (ngân hàng đầu tư, công ty bảo hiểm) và lây
lan đến các NHTM kể cả các NHTM lớn được coi là uy tín và vững mạnh về tài
chính, ảnh hưởng nghiêm trọng tới thị trường tài chính tồn cầu. Khủng hoảng
tại khu vực tài chính bùng phát ở một quốc gia nay đã lan rộng sang nhiều quốc


gia và đang ảnh hưởng trực tiếp đến các ngành sản xuất truyền thống, dịch vụ
và thương mại tồn cầu. Chính phủ và Ngân hàng Trung ương các nước trên thế
giới liên tiếp đưa ra các gói giải cứu nền kinh tế trị giá hàng trăm tỷ USD, tuy
nhiên, những chỉ số kinh tế vĩ mô của các nền kinh tế mạnh nhất thế giới đều
đang có chiều hướng sụt giảm. Một số quốc gia và nền kinh tế đã cơng bố chính
thức rơi vào suy thối như Nhật, Đức, Hồng Kơng, Singapore,...
Đối với Việt Nam, năm 2008 cũng có thể coi là một năm lịch sử với
những biến động ngược chiều liên tiếp trong vòng 12 tháng: đầu tiên là sự leo
thang kịch tính của chỉ số giá tiêu dùng trong 8 tháng đầu năm xuất phát từ
chính những bất ổn nội tại của nền kinh tế và kế đó là sự giảm phát và đình trệ
từ ảnh hưởng cuộc suy thối kinh tế tồn cầu nghiêm trọng vào những tháng
cuối năm đã gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Điều
này đã ảnh hưởng tới khả năng trả nợ ngân hàng của các doanh nghiệp, làm tăng
rủi ro trong hoạt động tín dụng như nợ xấu, nợ q hạn…Để có thể chủ động
được trong hoạt động của mình, cần thiết phải có giải pháp có thể giúp nhận
diện sớm các rủi ro để có thể có những giải pháp phịng ngừa và hạn chế kịp
thời.
Xuất phát từ nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu một
cách toàn diện việc nhận diện rủi ro và quản lý rủi ro trong mọi khía cạnh của
hoạt động tín dụng tơi đã lựa chọn đề tài: “Một số giải pháp hạn chế rủi ro
tín dụng tại Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà
Thành” làm đề tài nghiên cứu của mình.

Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


2
2. Mục đích nghiên cứu

- Hệ thống hóa các lý luận liên quan đến rủi ro trong hoạt động tín dụng
và vấn đề quản lý rủi ro trong hoạt động tín dụng tại các ngân hàng thương
mại.
- Đánh giá thực trạng rủi ro tại Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt
Nam – Chi nhánh Hà Thành trong thời gian vừa qua.
- Trên cơ sở đánh giá thực trạng công tác quản lý rủi ro để đề xuất một
số giải pháp và kiến nghị có tính chất khả thi trong công tác quản lý nhằm hạn
chế thấp nhất rủi ro trong điều kiện chấp nhận được tại BIDV – Chi nhánh Hà
Thành.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác quản lý rủi ro tại BIDV – Chi nhánh
Hà Thành.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn đi sâu vào đánh giá công tác quản lý
và hạn chế rủi ro của Chi nhánh Hà Thành từ năm 2006 đến hết năm 2008.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Sử dụng các phương pháp logic, phương pháp phân tích hệ thống,
phương pháp phân tích đối chiếu, so sánh, kết hợp lý luận và thực tiễn cùng
các bảng biểu, đồ thị để minh họa khi đánh giá thực trạng rủi ro tín dụng tại
BIDV - Chi nhánh Hà Thành.
5. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận văn được kết cấu trong ba
chương, cụ thể:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết về rủi ro và quản lý rủi ro áp dụng cho hoạt
động tín dụng tại các ngân hàng thương mại.
Chương 2: Phân tích hiện trạng rủi ro tín dụng và cơng tác quản lý rủi
ro tín dụng của BIDV- Chi nhánh Hà Thành.
Chương 3: Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu
tư và phát triển Việt Nam – Chi nhánh Hà Thành.

Đặng Thị Nguyệt Anh


Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


3

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ RỦI RO VÀ QUẢN LÝ RỦI RO ÁP DỤNG
CHO HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1. 1. Lý luận chung về rủi ro và quản lý rủi ro
1.1.1. Khái niệm rủi ro
Rủi ro hiện diện xung quanh chúng ta, trong cuộc sống cũng như trong
các hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày. Rủi ro đe dọa cuộc sống của
con người bởi vì đối với hầu hết mọi người, rủi ro ám chỉ một số hình thức
khơng chắc chắn về hậu quả của một tình huống nhất định và khi rủi ro xảy
ra, hậu quả của nó có thể khơng có lợi cho chúng ta, hoặc không phải là kết
quả mà chúng ta trông đợi.
Rủi ro không loại trừ một ai, một quốc gia, từ người tốt đến kẻ xấu, từ
tập đồn đa quốc gia danh tiếng đến cơng ty nhỏ mới thành lập,... đều có thể
gặp rủi ro. Rủi ro có thể xuất hiện mọi lúc, mọi nơi, trong mọi cơng việc, từ
những cơng việc mang tính chất riêng, các thương vụ làm ăn của doanh
nghiệp, đến mối quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc, tôn giáo… và những vấn
đề mang tính tồn cầu. Rủi ro có thể xuất hiện ở những chỗ, những nơi, vào
những lúc mà không một ai có thể ngờ tới.
Có rất nhiều người đưa ra các khái niệm rủi ro khác nhau nhưng nói
chung đều ám chỉ về những sự kiện bất ngờ xảy ra và gây tổn thất cho con
người. Và thường thì các khái niệm được phát Bảng tùy theo quan điểm của
từng người và của từng ngành. Chẳng hạn, theo quan điểm của bảo hiểm, rủi
ro được định nghĩa:
- Là sự tổn thất ngẫu nhiên

- Là khả năng có thể xảy ra tổn thất
- Là khả năng có thể xuất hiện một biến cố không mong đợi
Theo quan điểm của các nhà đầu tư, rủi ro lại được định nghĩa là
“không có được NPV và IRR như dự tính”. Theo xác suất và thống kê, “rủi ro
là biến cố ngẫu nhiên có thể đo lường được bằng xác suất”.

Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


4
Theo quan điểm hiện đại, rủi ro được định nghĩa “là khả năng sẽ xảy ra
một kết quả có lợi hay khơng có lợi từ mối nguy hiểm hiện hữu” hay “rủi ro là
một điều kiện”. (Quản trị rủi ro và bảo hiểm trong doanh nghiệp, PGS.
Nguyễn Quang Thu).
Định nghĩa do Allan H.Willett khởi xướng: “rủi ro là sự không chắc
chắn về tổn thất”. Quan điểm này được nhiều học giả như Hardy, Blanchard,
Crobough và Redding, Kuip, Anghell ủng hộ.
Quan điểm khác lại cho rằng: “rủi ro là khả năng xảy ra tổn thất”. Quan
điểm này được đề cập lần đầu tiên trong nghiên cứu của John Haynes, sau đó
được Irving Pfeffer trình bày rất rõ trong cuốn Lý thuyết bảo hiểm và kinh tế.
Định nghĩa này sau đó cũng được sử dụng khá nhiều trong tài liệu về rủi ro.
Ở Việt Nam, tác giả Nguyễn Hữu Thân trong cuốn Phương pháp mạo
hiểm và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh cũng quan niệm “Rủi ro là sự
bất trắc xảy ra mất mát, thiệt hại”.
Ngồi ra, cũng có một số cách định nghĩa về rủi ro khá hẹp, chỉ có giá
trị trong một lĩnh vực nhất định. Chẳng hạn, giới kinh doanh bảo hiểm coi các
đối tượng được bảo hiểm cũng là rủi ro.
Phân tích các định nghĩa trên cho thất, tuy có sự khác biệt nhưng các

định nghĩa này đều đề cập tới hai thuộc tính cơ bản của rủi ro đó là:
Kết quả khơng thể xác định chắc chắn: một khi tồn tại rủi ro trong
một sự kiện hay hành động, sẽ phải có ít nhất hai kết quả có khả năng xảy ra.
Nếu một sự kiện hay hành động mà kết quả của nó được biết chắc chắn thì sẽ
khơng thể có rủi ro gắn với sự kiện hay hành động đó. Chẳng hạn việc đầu tư
và các tài sản hữu hình như máy móc, thiết bị,… sẽ phải đối mặt với những
tổn thất do hao mòn hữu hình và vơ hình gây ra. Kết quả này người đầu tư
hoàn toàn biết trước nên việc phải gánh chịu những tổn thất nói trên khơng
được coi là rủi ro.
Kết quả khơng mong muốn: trong các kết quả có thể xảy ra, ít nhất có
một kết quả là khơng mong muốn. Kết quả không mong muốn thường được
hiểu là một tổn thất hay thiệt hại về của cải hoặc con người.
Từ những bất lợi và thiệt hại do rủi ro có thể mang lại nên con người
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


5
ln quan tâm và tìm cách hạn chế và quản lý nó sao cho hiệu quả nhất. Có
thể nói, lịch sử phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình đấu
tranh nhằm ngăn ngừa, hạn chế và giảm thiểu rủi ro. Trong suốt lịch sử phát
triển của mình, con người đã bằng nhiều cách để giảm thiểu rủi ro nhưng khi
có một rủi ro này được kiềm chế thì lại xuất hiện các rủi ro mới. Cùng với sự
phát triển của xã hội, rủi ro xuất hiện ngày càng đa dạng và phức tạp. Vì vậy,
để hạn chế và giảm thiểu được rủi ro người ta phải tiến hành phân loại rủi ro.
1.1.2 Phân loại rủi ro
Có rất nhiều tiêu chí để phân loại rủi ro. Tuy nhiên, thơng thường người
ta phân loại theo 5 tiêu chí sau (Tạp chí ngân hàng, số 17, năm 2007).
a . Phân loại theo bản chất:

Bao gồm các rủi ro tự nhiên, các rủi ro về công nghệ và tổ chức, các rủi
ro về kinh tế-tài chính cấp vi mơ và vĩ mơ, các rủi ro về chính trị-xã hội, các
rủi ro về thông tin khi ra quyết định dự án đầu tư.
+ Rủi ro do môi trường thiên nhiên: Đây là nhóm rủi ro do các hiện
tượng thiên nhiên như: Động đất, núi lửa, bão, lũ lụt, sóng thần,… gây ra.
Những rủi ro này thường dẫn đến những thiệt hại to lớn về người và của, làm
cho doanh nghiệp bị tổn thất nặng nề.
+ Rủi ro do môi trường văn hóa: Là những rủi ro do sự thiếu hiểu biết
về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, lối sống, nghệ thuật, đạo đức,… của dân
tộc khác dẫn đến cách hành xử không phù hợp, gây ra những thiệt hại, mất
mát, mất cơ hội kinh doanh.
+ Rủi ro do môi trường xã hội: Sự thay đổi các chuẩn mực giá trị, hành
vi của con người, cấu trúc xã hội, các định chế,… là một nguồn rủi ro quan
trọng. Nếu không nắm được điều này sẽ có thể phải gánh chịu những thiệt hại
nặng nề.
+ Rủi ro do mơi trường chính trị: Mơi trường chính trị có ảnh hưởng rất
lớn đến bầu khơng khí kinh doanh. Mơi trường chính trị ổn định sẽ giảm thiểu
rất nhiều rủi ro cho các doanh nghiệp. Trong kinh doanh quốc tế, ảnh hưởng
của mơi trường chính trị lại càng lớn. Chỉ những người biết nghiên cứu kỹ,
nắm vững và có những chiến lược, sách lược thích hợp với mơi trường chính
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


6
trị khơng chỉ ở nước mình, mà cịn ở nước đến kinh doanh mới có thể gặt hái
thành cơng.
+ Rủi ro do môi trường luật pháp: Rất nhiều rủi ro phát sinh từ hệ
thống luật pháp. Luật pháp đề ra các chuẩn mực mọi người phải thực hiện và

các biện pháp trừng phạt những ai vi phạm. Luật pháp đảm bảo sự công bằng
cho các doanh nghiệp, chống lại sự cạnh tranh không lành mạnh. Xã hội luôn
phát triển, nếu các chuẩn mực luật pháp không phù hợp với bước tiến của xã
hội thì sẽ gây ra nhiều rủi ro. Ngược lại, nếu luật pháp thay đổi quá nhiều, quá
thường xun, khơng ổn định, cũng gây ra những khó khăn rất lớn. Khi các tổ
chức, cá nhân không nắm vững thay đổi của luật pháp, không theo kịp chuẩn
mực mới chắc chắn sẽ gặp phải rủi ro.
Trong kinh doanh quốc tế, môi trường pháp lý quốc tế phức tạp hơn rất
nhiều, bởi chuẩn mực luật pháp của các nước khác nhau. Nếu chỉ nắm vững
và tuân thủ các chuẩn mực luật pháp nước mình, mà khơng am hiểu luật pháp
nước đối tác, thì nguy cơ gặp rủi ro sẽ rất cao.
+ Rủi ro do môi trường kinh tế: Trong điều kiện hội nhập và tồn cầu
hóa nền kinh tế thế giới, mặc dù trong mỗi nước môi trường kinh tế thường
vận động theo mơi trường chính trị nhưng ảnh hưởng của môi trường kinh tế
chung của thế giới đến từng nước là rất lớn. Mặc dù hoạt động của chính phủ
có thể ảnh hưởng sâu sắc đến thị trường thế giới và từ đó có rất nhiều rủi ro,
bất ổn trong môi trường kinh tế.
Mọi hiện tượng diễn ra trong môi trường kinh tế, như: tốc độ phát triển
kinh tế, khủng hoảng, suy thoái kinh tế, lạm phát,… đều ảnh hưởng trực tiếp
đến hoạt động của các doanh nghiệp, gây ra những rủi ro, bất ổn.
Đặc biệt các hiện tượng: tỷ giá hối đoái thay đổi, lãi suất thay đổi, giá
cả hàng hóa biến động sẽ có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, nói riêng và kinh doanh quốc tế nói chung.
+ Rủi ro do môi trường hoạt động của tổ chức: Hoạt động của mọi tổ
chức có thể phát sinh rất nhiều rủi ro. Rủi ro có thể phát sinh ở mọi lĩnh vực
như: Công nghệ, tổ chức bộ máy, văn hóa tổ chức, tuyển dụng, đãi ngộ nhân
viên, quan hệ với khách hàng (cả nhà cung cấp - đầu vào lẫn người tiêu thụ Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009



7
đầu ra), đối thủ cạnh tranh, tâm lý của người lãnh đạo… Rủi ro do môi trường
hoạt động của tổ chức có thể xuất hiện dưới rất nhiều dạng như: thiếu thơng
tin hoặc có những thơng tin khơng chính xác dẫn đến bị lừa đảo, …
+ Rủi ro do nhận thức của con người: môi trường nhận thức là nguồn
rủi ro đầy thách thức. Một khi nhận diện và phân tích khơng đúng, tất yếu sẽ
đưa ra kết luận sai. Nếu nhận thức và thực tế hoàn toàn khác nhau thì rủi ro sẽ
vơ cùng lớn.
b. Phân loại theo yếu tố chủ quan và khách quan: Bao gồm các rủi ro
khách quan thuần túy, rủi ro chủ quan của người ra quyết định.
+ Rủi ro khách quan thuần túy: là loại rủi ro mà nếu xảy ra thì chỉ có
thể dẫn đến tổn thất mà khơng có cơ hội kiếm lời. Ví dụ: lụt bão, sóng thần,
hỏa hoạn, động đất, khủng hoảng kinh tế, đầu tư sai lầm,…
+ Rủi ro chủ quan của người ra quyết định: còn gọi là rủi ro suy tính
hay rủi ro đầu cơ, tồn tại cơ hội kiếm lời cũng như nguy cơ tổn thất. Đây là
loại rủi ro gắn liền với khả năng thành bại trong hoạt động đầu tư, kinh doanh
và đầu cơ, ví dụ mua cổ phiếu: khoản đầu tư này có thể lãi, hòa hoặc lỗ vốn.
c. Phân loại rủi ro theo nơi phát sinh: bao gồm các rủi ro do bản thân
dự án gây ra, các rủi ro xảy ra bên ngồi (mơi trường) và tác động xấu đến dự
án.
d. Phân loại theo mức độ khống chế rủi ro: bao gồm các rủi ro không
thể khống chế được (rủi ro bất khả kháng) và các rủi ro có thể khống chế
được.
+ Rủi ro không thể khống chế được: Yếu tố khách quan xảy ra ngoài ý
muốn của con người và khơng thể lường trước hay kiểm sốt được. Đây
thường là những nguyên nhân xảy ra từ môi trường tự nhiên như: động đất,
cháy nổ, gió mưa, bão lụt, hạn hán,…; rủi ro do khủng hoảng kinh tế hoặc có
nguồn gốc từ chính sách kinh tế và điều hành vĩ mơ của chính phủ. Vì vậy,
chúng rất khó kiểm sốt và thường khó khống chế. Biện pháp chống đỡ phụ

thuộc vào khả năng dự báo và sự thích nghi của doanh nghiệp. Loại rủi ro
này thường rất đa dạng phức tạp và khó dự báo trước.
+ Rủi ro có thể khống chế được: là loại rủi ro do hành vi trực tiếp của
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


8
con người hoặc từ các tổ chức kinh doanh. Ví dụ, hệ thống pháp luật ln
thay đổi, thể chế chính trị khơng ổn định, quyết định một chính sách quản lý
vĩ mô lệnh hướng.
e. Phân loại theo giai đoạn đầu tư: bao gồm rủi ro giai đoạn chuẩn bị
đầu tư (chủ yếu do ra quyết định), rủi ro giai đoạn thực hiện đầu tư và rủi ro
giai đoạn khai thác dự án.
Vì rủi ro khơng thể đốn trước được và thường gây hậu quả khơng tích
cực cho con người vì vậy người ta sẽ cố gắng để phân loại chi tiết nguyên
nhân và nguồn gốc của rủi ro để từ đó xây dựng và lập kế hoạch chi tiết để
hạn chế và kiểm sốt chúng, gọi là q trình quản lý rủi ro.
1.1.3 Quản lý rủi ro
1.1.3.1 Khái niệm về quản lý rủi
Khái niệm về rủi ro ở trên cho thấy, rủi ro ln rình rập quanh ta. Khi
xã hội càng phát triển, rủi ro cũng ngày một phức tạp, đa dạng hơn, phạm vi
ảnh hưởng rộng lớn hơn và gây ra những hậu quả nặng nề, khó lường hơn.
Cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 2007 và khủng hoảng tài chính tồn
cầu năm 2009 đã cho thấy điều đó.
Theo quan điểm của Kloman, Haimes “Quản lý rủi ro là quá trình tiếp
cận rủi ro một cách khoa học, tồn diện và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm
sốt, phòng ngừa và giảm thiểu những tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất
lợi của rủi ro”. Theo cách nhìn mới của nhóm tác giả GS.TS Đồn Thị Hồng

Vân, (“Quản trị rủi ro và khủng hoảng, 2009) thì quản lý rủi ro được bổ sung
thêm “Quản lý rủi ro là quá trình tiếp cận rủi ro một cách khoa học, tồn diện
và có hệ thống nhằm nhận dạng, kiểm sốt, phòng ngừa và giảm thiểu những
tổn thất, mất mát, những ảnh hưởng bất lợi của rủi ro, đồng thời tìm cách biến
rủi ro thành những cơ hội thành công”.
1.1.3.2 Mục tiêu, vai trò ý nghĩa của quản lý rủi ro
Quản lý rủi ro có mục tiêu và vai trị vơ cùng to lớn và có thể có nhiều
đóng góp cho doanh nghiệp. Mục tiêu, vai trò và ý nghĩa của hoạt động quản
lý rủi ro được tóm tắt trong bốn điểm dưới đây:

Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


9
Thứ nhất, hoạt động quản lý rủi ro sẽ giúp cho doanh nghiệp tránh khỏi
nguy cơ phá sản. Có thể nói đảm bảo sự tồn tại của doanh ngiệp là lý do quan
trọng nhất cho sự tồn tại của hoạt động quản lý rủi ro. Nói cách khác, hoạt
động quản lý rủi ro có nhiệm vụ giúp cho doanh nghiệp có thể theo đuổi các
mục tiêu của mình mà khơng bị phá sản bởi những rủi ro phát sinh trong q
trình theo đuổi các mục tiêu đó.
Thứ hai, hoạt động quản lý rủi ro có đóng góp trực tiếp vào lợi nhuận
của doanh nghiệp nhờ vào hoạt động kiểm soát chi phí liên quan đến rủi ro
của doanh nghiệp vì lợi nhuận phụ thuộc vào tương quan giữa chi phí và thu
nhập của doanh nghiệp. Khi hoạt động hạn chế rủi ro góp phần làm giảm chi
phí sẽ góp phần làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Có nhiều cách để hoạt
động quản trị rủi ro có thể làm giảm chi phí như các hoạt động nhằm ngăn
ngừa rủi ro xảy ra, hay bằng việc xác định chính xác những rủi ro nào cần bảo
hiểm, rủi ro nào không cần, những rủi ro nào chỉ cần chuyển đổi một phần,

những rủi ro nào cần chuyển đổi toàn bộ mà doanh nghiệp có thể giảm chi phí
mua bảo hiểm mà vẫn đảm bảo ngăn ngừa được rủi ro hiệu quả.
Thứ ba, hoạt động quản lý rủi ro còn giúp doanh nghiệp tránh được
những giảm sút về thu nhập hoặc thiệt hại về tài sản. Bằng việc phát hiện các
rủi ro trong dự án kinh doanh của doanh nghiệp, hoạt động quản trị rủi ro có
khả năng ngăn chặn kịp thời các tổn thất, qua đó tránh được hoặc giảm những
thiệt hại về thu nhập hoặc tài sản cho doanh nghiệp.
Thứ tư, hoạt động quản lý rủi ro giúp giảm thiểu rủi ro cho doanh
nghiệp nên nó có thể giúp cho doanh nghiệp tham gia vào những dự án có khả
năng sinh lời cao.
1.1.3.3 Các nội dung của hoạt động quản lý rủi ro
Cũng như các hoạt động quản lý thông thường quá trình quản lý rủi ro
được trải dài ở ba khâu từ nhận dạng rủi ro, phân tích đánh giá đo lường rủi ro
để có thể triển khai các hoạt động nhằm kiểm sốt và phịng ngừa rủi ro cũng
như các hoạt động dự phòng khi rủi ro xảy ra.
Quản lý rủi ro gồm các nội dung chính sau:
- Nhận dạng và phân tích rủi ro
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


10
- Đo lường rủi ro
- Kiểm sốt và phịng ngừa rủi ro
a) Nhận dạng- phân tích-đo lường rủi ro:
Nội dung đầu tiên của hoạt động quản lý rủi ro đó là phải nhận dạng
được rủi ro. Nhận dạng rủi ro là q trình xác định liên tục và có hệ thống các
rủi ro nảy sinh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động nhận
dạng rủi ro nhằm thu thập các thơng tin về các đối tượng có thể gặp rủi ro

(con người, tài sản, trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp), các nguồn phát
sinh rủi ro, các yếu tố mạo hiểm, hiểm họa, các loại tổn thất mà rủi ro có thể
gây cho doanh nghiệp. Hoạt động nhận dạng rủi ro được thực hiện thông qua
việc theo dõi, nghiên cứu, xem xét môi trường xung quanh doanh nghiệp (vi
mơ và vĩ mơ), tồn bộ hoạt động của doanh nghiệp, nhằm thống kê được tất
cả những rủi ro, không chỉ những rủi đã và đang xảy ra mà cả những rủi ro
mới có thể xảy ra đối với doanh nghiệp. Trên cơ sở những thống kê đó sẽ tiến
hành phân tích rủi ro nhằm xác định nguyên nhân gây ra các rủi ro cũng như
các nhân tố làm gia tăng khả năng xảy ra rủi ro cho doanh nghiệp.
+ Phương pháp phát hiện rủi ro
Về phương pháp nhận dạng hay phát hiện rủi ro, có nhiều phương pháp
để tiến hành tuy nhiên có hai phương pháp chủ yếu được sử dụng để phát hiện
rủi ro bao gồm:
- Phương pháp dựa trên những rủi ro đã xảy ra trong quá khứ. Phương
pháp này dựa trên những rủi ro doanh nghiệp đã gặp phải trong quá khứ để
xác định những rủi ro mà doanh nghiệp có thể sẽ phải đối mặt trong tương lai.
Việc nghiên cứu các rủi ro đã gặp phải trong quá khứ không chỉ giới hạn ở
những nguyên nhân gây ra rủi ro mà cả những nhân tố làm gia tăng khả năng
xảy ra rủi ro. Cho đến nay, đây vẫn là phương pháp chủ yếu được các nhà
quản lý sử dụng để phát hiện rủi ro. Tuy nhiên, nếu chỉ dựa vào những nghiên
cứu về rủi ro trong q khứ thì sẽ khơng đủ vì có những rủi ro mà doanh
nghiệp chưa gặp phải bao giờ. Để đảm bảo phát hiện được đầy đủ các rủi ro,
các nhà quản trị phải sử dụng kết hợp với phương pháp thứ hai.
- Phương pháp hệ thống an toàn. Phương pháp này do các nhà khoa học
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


11

phát triển các chương trình vũ trụ của Mỹ phát minh ra. Do những rủi ro trong
lĩnh vực này hầu hết chưa được biết tới trong quá khứ nhưng lại đòi hỏi phải
ngăn ngừa tối đa nên các nhà khoa học của cơ quan Hàng không vũ trụ Mỹ
NASA đã phải xây dựng các mơ hình mơ phỏng rủi ro trên cơ sở những phân
tích về quy trình hoạt động và mơi trường hoạt động, qua đó sẽ phát hiện
những rủi ro nảy sinh trng mơi trường giả lập đó. Các mơ hình như vậy
thường rất phức tạp, cần có sự trợ giúp của các cơng cụ máy tính. Tuy nhiên,
với những doanh nghiệp có phạm vi hoạt động rộng, quy mơ lớn như các tập
đồn đa quốc gia, việc sử dụng phương pháp này là không thể thiếu để hỗ trợ
trong việc phát hiện ra những rủi ro tiềm tàng ở những môi trường kinh doanh
mới.
+ Các công cụ phát hiện rủi ro
Đồng thời với các phương pháp trê, để phát hiện rủi ro có rất nhiều các
cơng cụ có thể sử dụng, tuy nhiên các nhà quản trị thường chọn và sử dụng
các công cụ sau:
Bảng câu hỏi phân tích rủi ro: Đây là cơng cụ chủ yếu được sử dụng
trong phát hiện rủi ro. Các câu hỏi có thể được sắp xếp theo nguồn gốc rủi ro,
hoặc theo môi trường tác động (vi mô, vĩ mô, bên trong, bên ngoài)…xoay
quanh các vấn đề như các rủi ro mà doanh nghiệp đã gặp phải, mức độ tổn
thất, số lần xuất hiện rủi ro trong một thời gian nhất định, những biện pháp
phòng ngừa đã sử dụng và hiệu quả của chúng. Cần lưu ý, đây không phải là
hệ thống các câu hỏi dùng để phỏng vấn hay khảo sát như các bảng điều tra
thông thường mà là một hệ thống các vấn đề cần tìm hiểu để giúp nhà quản trị
định hướng trong quá trình xác định rủi ro.
Danh mục các nguy cơ: liệt kê các rủi ro thường gặp. Tuy nhiên nó
khơng thể bao qt hết các rủi ro mà doanh nghiệp có thể gặp phải, cho nên
phải dùng kết hợp với các danh mục khác.
Danh mục các rủi ro được bảo hiểm: danh mục này có thể lấy từ các
công ty bảo hiểm nhằm xác định những rủi ro nào có thể di chuyển hay chia
sẻ bằng các hợp đồng bảo hiểm. Những thống kê của các cơng ty bảo hiểm về

các rủi ro có thể gặp phải cũng là cơ sở tốt cho việc xác định các rủi ro của
doanh nghiệp.
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


12
Các hệ thống chuyên gia: đây là các quy trình phát hiện rủi ro được
xây dựng sẵn cho từng lĩnh vực nhất định, là sự kết hợp cả ba công cụ trên.
Tuy nhiên, các hệ thống này không phải lúc nào cũng sẵn có, hơn nữa có thể
khơng phù hợp hồn tồn với doanh nghiệp.
+ Quy trình phát hiện rủi ro
Với các phương pháp và công cụ phát hiện rủi ro, quy trình phát hiện
rủi ro thường được tiến hành qua các bước sau:
Định hướng: đây là bước đầu tiên phải thực hiện để phát hiện các rủi
ro. Mục đích là có được hiểu biết bao quát, tổng thể về doanh nghiệp và các
hoạt động của doanh nghiệp để định hướng trong việc phát hiện rủi ro.
Phân tích tài liệu: là việc phân tích các tài liệu liên quan đến doanh
nghiệp bao gồm cả những tài liệu lưu hành nội bộ doanh nghiệp lẫn những tài
liệu về doanh nghiệp do bên ngồi cung cấp. Ví dụ: phân tích các báo cáo tài
chính, quy trình nghiệp vụ, cơ cấu tổ chức doanh nghiệp, các hợp đồng kinh
tế, bảo hiểm doanh nghiệp đã tham gia, các báo cáo về tổn thất…
Phỏng vấn: nhiều thơng tin khơng thể tìm thấy trong các văn bản, tài
liệu mà chỉ có thể có được qua phỏng vấn các nhà quản lý hoặc nhân viên.
Việc phỏng vấn nhằm là rõ những thông tin trong các tài liệu hoặc bổ sung
những thơng tin cịn thiếu. Các đối tượng thường được phỏng vấn bao gồm
các nhà quản lý doanh nghiệp, giám đốc tài chính hoặc vị trí tương đương, cố
vấn pháp luật của doanh nghiệp, giám đốc nhân sự, bộ phận phụ trách mua,
bán hàng, nhân viên,…và cả bên ngồi như cơng ty tư vấn luật hoặc kiểm

tốn cơng ty.
Khảo sát, điều tra trực tiếp: việc điều tra trực tiếp tại hiện trường sẽ
giúp cung cấp những thông tin nhiều khi rất có giá trị, giúp phát hiện ra những
rủi ro mà trước đó có thể khơng phát hiện ra. Việc khảo sát cần được thực
hiện cùng với một người phụ trách có khả năng trả lời những câu hỏi phát
sinh.
Có thể nói, cơng tác nhận dạng và phân tích rủi ro là một cơng việc
khơng bao giờ kết thúc bởi vì các rủi ro mới liên tục xuất hiện. Hơn nữa,
khơng doanh nghiệp nào có thể chắc rằng mình đã phát hiện được hết rủi ro.
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


13
Để hỗ trợ cho công tác này, doanh nghiệp cần xây dựng một hệ thống thơng
tin hỗ trợ có khả năng cung cấp luồng thông tin liên tục về những thay đổi
trong hoạt động của doanh nghiệp với bên ngoài. Hệ thống cũng phải đảm bảo
đưa đến cho những bộ phận liên quan đến rủi ro những thông tin cần thiết để
phòng tránh rủi ro. Hệ thống này thường bao gồm:
Hướng dẫn về chính sách quản lý rủi ro của doanh nghiệp: Hướng dẫn
này bao gồm những thông tin về các hoạt động quản lý rủi ro mà doanh
nghiệp đang theo đuổi. Nó cần được phát cho các bộ phận có liên quan để biết
được mình cần phải làm gì để đóng góp vào hoạt động quản lý rủi ro của
doanh nghiệp cũng như biết được những hoạt động đó giúp gì cho bộ phận
của mình.
Hệ thống các ghi chép về các hoạt động quản trị rủi ro của doanh
nghiệp: bao gồm những thông tin về các tổn thất xảy ra cũng như những chi
phí cho các hoạt động quản trị rủi ro. Những thơng tin này đặc biệt có giá trị
vì nó giúp hồn thiện hơn hoạt động quản trị rủi ro

Hệ thống thông tin nội bộ: bao gồm các thông tin về kế hoạch đầu tư,
mua sắm tài sản, sản phẩm mới,…
b) Đo lường rủi ro.
Sau khi đã nhận dạng được rủi ro, phân tích các nguyên nhân thì hoạt
động tiếp theo của quá trình quản lý rủi ro là đo lường rủi ro. Tuy nhiên, rủi
ro có rất nhiều loại, một doanh nghiệp không thể cùng một lúc kiểm sốt,
phịng ngừa mọi loại rủi ro, bởi lẽ khả năng của mỗi doanh nghiệp đều có hạn.
Từ đó, cần phần loại các rủi ro, cần biết được đối với doanh nghiệp, loại rủi ro
nào có tần suất xuất hiện nhiều, loại rủi ro nào xuất hiện ít, loại rủi ro nào gây
ra hậu quả nghiêm trọng, loại nào ít nghiêm trọng hơn… từ đó có biện pháp
quản lý rủi ro thích hợp. Muốn vậy doanh nghiệp cần tiến hành việc đo lường
các rủi ro. Việc đo lường rủi ro là đánh giá mức độ nghiêm trọng của rủi ro để
đưa ra mức độ ưu tiên đối phó.
Phân loại mức độ nghiêm trọng của rủi ro: mức độ nghiêm trọng, rủi
ro thường được phân thành ba nhóm:
Nhóm nguy hiểm: bao gồm những rủi ro mà hậu quả của nó có thể dẫn
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


14
đến sự phá sản của doanh nghiệp.
Nhóm quan trọng: bao gồm những rủi ro mà hậu quả của nó khơng
phải là nguyên nhân chủ yếu làm cho daonh nghiệp rơi vào tình trạng phá sản
nhưng sẽ phải vay mượn để tiếp tục hoạt động.
Nhóm khơng quan trọng: bao gồm những rủi ro mà doanh nghiệp có
thê tự khắc phục hậu quả mà khơng q khó khăn về tài chính.
Để phân loại rủi ro như vậy, đòi hỏi phải đánh giá được mức độ nghiêm
trọng của rủi ro cũng như khả năng chịu đựng của doanh nghiệp khi rủi ro xảy

ra.
Chỉ tiêu đánh giá mức độ nghiêm trọng (quy mô tổn thất) của rủi
ro: việc đánh giá mức độ nghiêm trọng của rủi ro giúp nhà quản trị quyết định
doanh nghiệp có thể tự mình gánh chịu rủi ro hay phải chuyển giao bớt rủi ro
(mua bảo hiểm), nếu phải chuyển giao rủi ro thì điều kiện bảo hiểm nào là
thích hợp để vừa tiết kiệm được chi phía vừa đảm bảo được an toàn cho
doanh nghiệp. Để đánh giá mức độ nghiêm trọng hay quy mô tổn thất của mỗi
rủi ro. Nhà quản lý thường sử dụng hai chỉ tiêu: mức đột ổn thất tối đa và khả
năng xảy ra tổn thất.
Thứ nhất là mức độ tổn thất tối đa mà rủi ro có thể gây ra cho doanh
nghiệp. Ví dụ, đối với một dự án đầu tư ra nước ngồi, tổn thất tối đa mà
doanh nghiệp có thể phải gánh chịu là toàn bộ số tiền bỏ ra để đầu tư vào dự
án đó. Tuy nhiên trên thực tế, tổn thất khơng đến mức như vậy vì doanh
nghiệp có thể bán lại dự án (bao gồm quyền đầu tư, giá trị máy móc, nhà
xưởng…) với giá rẻ, chấp nhận thua lỗ nhưng vẫn thu hồi được một phần vốn
đầu tư.
Ngồi ra, khi rủi ro xảy ra, nó khơng chỉ gây thiệt hại trực tiếp mà còn
kéo theo nhiều thiệt hại liên quan, do vậy việc đánh giá thiệt hai do rủi ro gây
ra đối với doanh nghiệp không chỉ bao gồm các thiệt hại trực tiếp mà phải bao
gồm cả những thiệt hại gián tiếp do rủi ro đó gây ra. Những thiệt hại gián tiếp
này không chỉ bao gồm những thiệt hại xảy ra ngay khi đó mà cả những thiệt
hại cịn tiếp diễn sau này. Ví dụ: tòa nhà bị cháy là thiệt hại trực tiếp của
doanh nghiệp nhưng các chi phí liên quan đến phá dỡ tịa nhà đó là thiệt hại
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


15
gián tiếp xảy ra đồng thời, thiệt hại gián tiếp xảy ra sau đó là doanh nghiệp

khơng thể cho th tịa nhà đó tiếp dẫn đến sự giảm sút các khoản thu nhập từ
việc cho thuê.
Thứ hai là mức độ, khả năng xảy ra tổn thất. Chỉ tiêu này phản ánh tần
suất xuất hiện của rủi ro-số lần xảy ra tổn thất hay khả năng xảy ra biến cố
nguy hiểm đối với doanh nghiệp trong một khoảng thời gian nhất định (năm,
quý, tháng…)
Các phương pháp đo lường rủi ro:
Để đo lường rủi ro, các doanh nghiệp có thể sử dụng kết hợp các
phương pháp đo lường định lượng và các phương pháp đánh giá định tính.
Các phương pháp đo lường định lượng:
Để đánh giá khả năng xảy ra tổn thất có thể được thực hiện thơng qua
các phân tích lượng hóa trên cơ sở lý thuyết xác suất. Ba biến số về rủi ro mà
nhà quản trị thường tính tốn phân phối xác suất là số tổn thất mà doanh
nghiệp gặp phải trong một khoảng thời gian nhất định, mức độ thiệt hại của
từng tổn thất, và tổng giá trị tổn thất mà doanh nghiệp phải chịu tỏng một
khoảng thời gian cho trước. Để xác định phân phối xác suất của những biến
số này, nhà quản lý rủi ro thường sử dụng hai phương pháp sau:
Phương pháp thứ nhất: xây dựng các mơ hình tính xác suất xảy ra tổn
thất trên cơ sở các số liệu quá khứ về tổn thất đó. Phương pháp này có hạn
chế là chỉ áp dụng được với những rủi ro đã từng xảy ra và số lần quan sát
được rủi ro phải đủ lớn để những ước lượng về xác suất đáng tin cậy. Hơn
nữa, phương pháp này khơng tính đến những thay đổi của mơi trường xung
quanh, nói cách khác, nó dựa trên giả thiết là phân phối xác suất xảy ra tổn
thất là không thay đổi trong thời gian ngắn, trong khi trên thực tế những thay
đổi về môi trường xung quanh có thể đưa đến những thay đổi đáng kể đến
phân phối xác suất xảy ra tổn thất. Mơ hình nhị thức và mơ hình Poisson hay
được sẻ dụng để xác định phân phối xác suất của số rủi ro doanh nghiệp gặp
phải, còn các phân phối logarit chuẩn, phân phối lũy thừa và phân phối Pareto
hay được sử dụng để tính phân phối xác suất của mức độ thiệt hại của mỗi tổn
thất. Phân phối xác suất của tổng giá trị các tổn thất sẽ xác định trên cơ sở kết

Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


16
hợp phân phối xác suất của số rủi ro doanh nghiệp gặp phải và phân phối xác
suất của mức độ thiệt hại của mỗi tổn thất.
Phương pháp thứ hai: sử dụng các mơ hình giả lập để tích hợp cả những
thay đổi của môi trường vào các phân phối xác suất cần xác định. Các mơ
hình được sử dụng chủ yếu trong phương pháp này là giả lập Monte Carlo,
phân phối Gamma…
Cũng cần lưu ý là việc sử dụng các lý thuyết xác suất để đánh giá khả
năng xảy ra rủi ro không dễ triển khai ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong
những trường hợp này, tư vấn của các công ty bảo hiểm về các rủi ro mà
doanh nghiệp cần đánh giá sẽ hiệu quả hơn. Tuy nhiên, với những doanh
nghiệp lớn, việc tự đánh giá sẽ hiệu quả hơn vì đánh giá rủi ro từ góc độ công
ty bảo hiểm không phải lúc nào cũng phù hợp với doanh nghiệp.
Phương pháp đo lường định lượng có ưu điểm lớn, chúng cung cấp các
thông tin định lượng giúp các nhà quản trị dễ hình dung hơn về khả năng xảy
ra và mức độ ảnh hưởng của các rủi ro. Tuy nhiên, các phương pháp này cũng
có những hạn chế như:
- Mơ hình rất phức tạp và dựa trên nhiều giả định về các đối tượng đo
lường.
- Yêu cầu một cơ sở dữ liệu đủ lớn.
- Việc kiểm tra tính xác thực kết quả của một số mơ hình chỉ được thực
hiện sau một vài năm.
- Mơ hình rất nhạy cảm đối với sự biến đổi của môi trường kinh tế.
Việc mơ hình sử dụng nhiều giả định để tạo lập cơ sở dữ liệu khiến một sự
thay đổi nhỏ trong môi trường kinh tế sẽ ảnh hưởng đến các tiêu chí tạo lập cơ

sở dữ liệu, làm thay đổi cơ sở dữ liệu và do đó làm thay đổi kết quả của mơ
hình.
Những hạn chế trên cho thấy việc áp dụng mơ hình định lượng khơng
phải là cơng việc đơn giản mà yêu cầu một nguồn lực lớn từ việc chọn gói
phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu và liên tục chỉnh sửa các giả định để có thể
liên tục cập nhật các kết quả đo lường.

Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


17
Phương pháp đo lường định tính:
Tuy nhiên, trong thực tế, khơng phải rủi ro nào cũng có thể lượng hóa
được. Đối với những rủi ro khó quan sát, khó lượng hóa, thay vì xây dựng mơ
hình lượng hóa, các doanh nghiệp trên thế giới có xu hướng sử dụng phương
pháp đánh giá định tính dựa trên các ý kiến của các chuyên gia trong lĩnh vực
quản trị rủi ro.
Như vậy, phương pháp đánh giá định tính là phương pháp dựa trên
những đánh giá của các chuyên gia để từ đó xếp hạng các rủi ro và đưa ra một
báo cáo tổng hợp. Phương pháp này được sử dụng đối với những rủi ro khó
đo lường.
Bảng 1.1 Khả năng đo lường của một số rủi ro
Rủi ro

Khả năng đo lường mức Khả năng đo lường tần
độ nghiêm trọng
số


Rủi ro liên quan đến tổ chức hoạt
động

Thấp

Thấp

Rủi ro liên quan đến chiến lược và
thực hiện chiến lược

Thấp

Thấp

Rủi ro công nghệ

Cao

Cao

Rủi ro về nhân sự

Cao

Cao

Rủi ro do các yếu tố bên ngoài
khác gây nên

Cao


Cao

(Nguồn: Credit Suisse Group 2000)
Phương pháp đánh giá định tính giải quyết được hai vấn đề của phương
pháp đo lường định lượng. Thứ nhất, phương pháp này đánh giá được các rủi
ro khó đo lượng được. Thứ hai, khi mơi trường kinh doanh thay đổi, phương
pháp này cho biết kết quả nhanh hơn mơ hình định lượng vì khi đó mơ hình
định lượng phải được điều chỉnh rất nhiều bước mới có thể cập nhật được kết
quả. Khác với mơ hình định lượng, phương pháp định tính khơng đưa ra một
giá trị tuyệt đối của tổn thất gây ra bởi một loại rủi ro nào đó mà chỉ theo dõi
sự biến đổi của các yếu tố này.

Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


18
Bảng 1.2 Bảng xếp hạng tín dụng theo ý kiến chuyên gia
Nhóm
khách
hàng
1

Mức
xếp
hạng
AAA


2

AA

3

A

4

BBB

5

BB

6

B

CCC

CC
7

C

D

Ý nghĩa

Đây là khách hàng có mức xếp hạng cao nhất. Khả năng hoàn trả
khoản vay của khách hàng được xếp hạng này là đặc biệt tốt.
Khách hàng xếp hạng AA có năng lực trả nợ khơng kém nhiều so
với khách hàng được xếp hạng AAA. Khả năng hoàn trả khaorn
nợ của khách hàng được xếp hạng này là rất tốt.
Khách hàng được xếp hạng A có thể có nhiều khả năng chịu tác
động tiêu cực của các yếu tố bên ngoài và các điều kiện kinh tế
hơn các khách hàng được xếp hạng cao hơn. Tuy nhiên, khả năng
trả nợ vẫn được đánh giá là tốt.
Khách hàng xếp hạng BBB có các chỉ số cho thấy khách hàng
hồn tồn có khả năng hồn trả đầy đủ các khoản nợ. Tuy nhiên,
các điều kiện kinh tế bất lợi và sự thay đổi của các yếu tố bên
ngồi có nhiều khả năng hơn trong việc làm suy giảm khả năng trả
nợ của khách hàng.
Khách hàng xếp hạng BB ít có nguy cơ mất khả năng trả nợ hơn
các nhóm từ B đến D. Tuy nhiên, các khách hàng này đang phải
đối mặt với nhiều rủi ro tiềm ẩn hoặc các ảnh hưởng từ các điều
kiện kinh doanh, tài chính và kinh tế bất lợi, các ảnh hưởng này có
khả năng dẫn đến sự suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng.
Khách hàng xếp hạng B có nhiều nguy cơ mất khả năng trả nợ hơn
các khách hàng nhóm BB. Tuy nhiên, hiện thời khách hàng vẫn có
khả năng hồn trả khaorn vay. Các điều kiện kinh doanh, tài chính
và kinh tế nhiều khả năng ảnh hưởng đến khả năng hoặc thiện chí
trả nợ của khách hàng.
Khách hàng xếp hạng CCC hiện thời đang bị suy giảm khả năng
trả nợ, khả năng trả nợ của khách hàng phụ thuộc vào độ thuận lợi
của các điều kiện kinh doanh, tài chính và kinh tế. Trong trường
hợp có các yếu tố bất lợi xảy ra, khách hàng có nhiều khả năng
khơng trả được nợ.
Khách hàng xếp hạng CC hiện thời đang bị suy giảm nhiều khả

năng trả nợ.
Khách hàng xếp hạng C trong trường hợp đã thực hiện các thủ tục
xin phá sản hoặc có các động thái tương tự nhưng việc trả nợ của
khách hàng vẫn đang được duy trì.
Khách hàng xếp hạng D trong trường hợp đã mất khả năng trả nợ,
các tổn thất đã thực sự xảy ra; không xếp hạng D cho các khách
hàng mà việc mất khả năng trả nợ mới chỉ là khả năng, dự kiến.

(Nguồn: Mơ hình Standard and Poor’s - Sổ tay tín dụng BIDV)
Phương pháp đánh giá đơn giản nhất là xin ý kiến chuyên gia để xếp
hạng rủi ro. Thông qua việc xếp hạng, các yếu tố định tính có thể được
chuyển thành định lượng. Công việc đánh giá trải qua ba bước:
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


19
(1) Liệt kê và đánh giá định kỳ các rủi ro
(2) Chấm điểm rủi ro dựa trên các tiêu chí: mức độ nghiêm trọng, tần
số phát sinh, thời điểm có khả năng phát sinh…
(3) Thông qua việc chấm điểm, các chuyên gia sẽ tập hợp và đưa ra
những chỉ tiêu để theo dõi sự biến đổi của rủi ro.
Minh họa về phương pháp ý kiến chuyên gia liên quan đến việc đánh
giá xếp hạng tín dụng ngân hàng được trình bày trong bảng 1.2.
Hạn chế của mơ hình định tính là các nhận xét, đánh giá, xếp hạng và
chấm điểm rủi ro đều là chủ quan. Chính vì vậy, các nhà quản trị ln khuyến
khích kết hợp hai phương pháp định tính và định lượng.
Khơng thể phủ nhận tác dụng của việc lượng hóa cá loại rủi ro nhưng
khơng nhất thiết các doanh nghiệp phải lượng hóa được tất cả các rủi ro. Theo

các chuyên gia, thay vì quan trọng hóa việc đo lường mọi rủi ro, các doanh
nghiệp nên tập trung đo lường những rủi ro quan trọng. Nguyên lý mà các
chuyên gia quản trị rủi ro đưa ra là 80/20, nghĩa là doanh nghiệp nên dành
80% nguồn lực phân bổ cho quản trị rủi ro để tập trung vào 20% rủi ro quan
trọng nhất. Rủi ro quan trọng nhất thường là rủi ro có tần số xuất hiện thấp
nhưng gây hậu quả nghiêm trọng đối với doanh nghiệp vì doanh nghiệp đã
quen với việc xử lý những rủi ro có thần số thấp và hậu quả khơng nghiêm
trọng. Tuy nhiên, nhiều khi rủi ro quan trọng lại khó lượng hóa và khi đó
doanh nghiệp cần phải mềm dẻo áp dụng phương pháp đánh giá định tính.
Có thể nói, việc kết hợp giữa các phương pháp định lượng và định tính
là kim chỉ nam trong hoạt động đo lường rủi ro trong tương lai. Sử dụng đồng
thời hai phương pháp có hai lợi ích rất lớn. Thứ nhất, doanh nghiệp có thể kết
hợp được kinh nghiệm quản trị rủi ro của các chuyên gia trong nhiều năm và
kết quả của mơ hình định lượng. Kết quả của mơ hình sẽ giúp các nhà quản lý
tránh được những đánh giá quá chủ quan và cảm tính. Thứ hai, sự kết hợp này
giúp bao quát được hầu hết các rủi ro của doanh nghiệp.
Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là việc sử dụng các phương pháp định lượng
để đánh giá khả năng xảy ra rủi ro không dễ triển khai ở các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Trong những trường hợp này, tư vấn của các công ty bảo hiểm về
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


20
các rủi ro mà doanh nghiệp cần đánh giá sẽ hiệu quả hơn. Nhưng với những
doanh nghiệp lớn việc tự đánh giá sẽ hiệu quả hơn vì đánh giá rủi ro từ góc độ
cơng ty bảo hiểm khơng phải lúc nịa cũng phù hợp với doanh nghiệp.
c) Kiểm sốt - phòng ngừa rủi ro
Trên cơ sở những rủi ro đã nhận dạng và đo lường được, doanh nghiệp

có thể tiến hành thực hiện các biện pháp để kiểm sốt- phịng ngừa các rủi ro
đó. Kiểm sốt rủi ro là một trong hai nội dung trọng tâm của quản lý rủi ro
hiện đại. Kiểm soát rủi ro là việc sử dụng các chiến lược, các chương trình
hành động, cơng cụ, kỹ thuật… nhằm ngăn ngừa, né tránh hoặc giảm thiểu
những tổn thất, những ảnh hưởng không mong đợi của rủi ro đối với doanh
nghiệp. Các biện pháp kiểm soát rủi ro có thể chia thành 3 nhóm cơ bản sau:
+ Né tránh rủi ro
Đây là các biện pháp trong đó nhà quản trị sẽ tìm cách phát hiện những
dự án kinh doanh có nguy cơ xảy ra rủi ro cao để tránh cho doanh nghiệp
khơng tham gia vào, nhờ đó khơng phải chịu rủi ro.
Biện pháp tránh rủi ro có thể giúp cho doanh nghiệp không phải chịu
bất kỳ hậu quả xấu nào mà rủi ro được phát hiện có thể gây ra nhưng có thể
khiến cho doanh nghiệp bỏ lỡ những cơ hội kiếm lợi. Hơn nữa, không phải rủi
ro nào cũng có thể né tránh được. Ví dụ, kinh doanh ngân hàng không thể né
tránh được rủi ro về tín dụng khi khách hàng khơng có khả năng hồn trả nợ
gốc và/hoặc nợ lãi đúng hạn. Hoặc khi một doanh nghiệp đầu tư vào một quốc
gia đang hoặc kém phát triển sẽ phải đối mặt với những rủi ro về chính trị do
hệ thống pháp luật hoặc quản lý hành chính của nước đó cịn yếu kém. Doanh
nghiệp có thể chọn giải pháp không đầu tư vào quốc gia đó để tránh những rủi
ro nói trên nhưng sẽ phải bỏ lỡ cơ hội kiếm lời từ thị trường này.
+ Ngăn ngừa và giảm thiểu rủi ro
Đây là nhóm các giải pháp nhằm giảm đến mức tối đa các rủi ro có thể
đến với doanh nghiệp, chúng bao gồm các biện pháp ngăn ngừa và giảm thiểu
các rủi ro.
Trước hết là ngăn ngừa rủi ro: đây là các biện pháp nhằm vào nguyên
nhân gây ra rủi ro, khiên cho rủi ro không thể xảy ra. Chẳng hạn, để ngăn
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009



21
chặn những rủi ro do thiếu thông tin khi tham gia vào một thị trường mới, có
thể sử dụng hình thức bán hàng qua đại lý là các doanh nghiệp đã hoạt động
lâu năm tại thị trường đó trong thời gian thăm dị thì trường thay vì trực tiếp
bán. Hay nghiên cứu xây dựng các quy trình an tồn lao động nhằm ngăn
ngừa các rủi ro tai nạn lao động…
Tuy nhiên, do không thể ngăn chặn hết được mọi rủi ro, các nhà quản
lý rủi ro phải sử dụng các biện pháp tiếp theo. Một khi không thể né tránh rủi
ro, nhà quản trị sẽ phải tìm cách giảm thiểu số lần xảy ra rủi ro. Ví dụ, để
giảm rủi ro bị đối tác lừa đảo, doanh nghiệp cần thu thập đầy đủ thơng tin đến
mức có thể để nắm rõ về các đối tác.
+ Giảm thiểu những tổn thất do rủi ro gây ra
Đây là biện pháp nhằm kiểm soát, giảm thiểu thiệt hại một khi rủi ro
xảy ra. Ví dụ, để hạn chế thiệt hại do rủi ro bị nhà cung cấp ép giá hoặc từ
chối cung cấp hàng gây ra, doanh nghiệp cần đa dạng hóa nguồn cung cấp của
mình. Biện pháp mang tính chất tích cực nhưng khơng thể giúp doanh nghiệp
tránh được rủi ro hồn toàn. Hơn nữa, để thực hiện biện pháp này cũng địi
hỏi những khoản chi phí nhất định cả về tiền bạc và thời gian. Chẳng hạn chi
phí để thu thập thông tin về đối tác. Giảm thiểu những tổn thất rủi ro gồm:
> Tài trợ rủi ro: hoạt động kiểm sốt rủi ro khơng thể giúp doanh
nghiệp tránh được mọi rủi ro. Một khi rủi ro xảy ra, doanh nghiệp cần phải
sẵn sàng cho các tổn thất, không để ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của
mình. Tài trợ rủi ro chính là nội dung quản lý rủi ro nhằm mục đích chuẩn bị
cho doanh nghiệp trước những tổn thất xảy ra. Tài trợ rủi ro bao gồm các hoạt
động nhằm dự phịng các nguồn tài chính cho các thiệt hại một khi rủi ro xảy
ra. Tài trợ rủi ro được chia làm hai nhóm biện pháp cơ bản:
> Chấp nhận rủi ro và lập quỹ dự phòng để bù đắp tổn thất nếu rủi ro
xảy ra: Rất nhiều hoạt động hay môi trường kinh doanh mà doanh nghiệp
không thể từ bỏ hoặc khơng thể ngăn chặn được hồn tồn rủi ro. Chấp nhận

rủi ro là biện pháp không thể tránh khỏi để không bỏ lỡ những cơ hội kiếm
lời. Trong trường hợp này, nhà quản trị phải dự phòng các nguồn lực tài chính
để kịp thời bù đắp những thiệt hại có thể xảy ra để khơng ảnh hưởng tới hoạt
động kinh doanh chung của daonh nghiệp. Tuy nhiên, khơng phải lúc nào
doanh nghiệp cũng có thể dự phịng đủ cho các thiệt hại có thể xảy ra bởi vì
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


22
việc dự phòng quá nhiều sẽ làm ảnh hưởng tới nguồn tài chính mà doanh
nghiệp cần để kinh doanh. Chính vì vậy, các nhà quản trị phải kết hợp với
biện pháp thứ hai là di chuyển hoặc chia sẻ rủi ro.
> Chuyển giao hoặc chia sẻ rủi ro: Để chia sẻ rủi ro, doanh nghiệp sẽ
phải ký kết những hợp đồng với những điều khoản đặc biệt. Ví dụ, để tránh
rủi ro giá cả biến động, doanh nghiệp sẽ phải ký những hợp đồng dài hạn với
giá cả cố định, hoặc doanh nghiệp sẽ phải tham gia vào các hơp đồng ngoại tệ
kỳ hạn để tránh rủi ro tỷ giá. Với những hợp đồng với các điều khoản cố định
như vậy, rủi ro sẽ được chia sẻ giữa cả hai bên mua và bán. Việc ký kết hợp
đồng bảo hiểm cũng có thể coi là một biện pháp chia sẻ rủi ro giữa những
người cùng tham gia bảo hiểm.
Để chuyển giao rủi ro, doanh nghiệp cũng bị đòi hỏi phải tham gia vào
các hợp đồng đặc biệt nhằm chuyển giao phần rủi ro mà mình khơng muốn
gánh chịu sang những chủ thể sẵn sàng nhận thêm rủi ro để lấy một khoản thu
nhập. Chẳng hạn, với việc mua hợp đồng quyền chọn ngoại tệ, doanh nghiệp
chuyển giao rủi ro tỷ giá tăng cao khi cần mua ngoại tệ sang ngân hàng bán
quyền chọn cho mình, ngân hàng chấp nhận rủi ro đó để đổi lấy việc nhận
được tiền bán quyền chọn. Tham gia vào các hợp đồng bảo hiểm cũng có thể
xem là một biện pháp để chuyển giao rủi ro sang các công ty bảo hiểm.

Tuy nhiên, chuyển giao hết rủi ro khơng phải là biện pháp thơng mình
vì chi phí để chuyển giao cũng cao tương ứng với mức độ rủi ro. Do vậy,
doanh nghiệp cần xác định mức độ rủi ro mình muốn chuyển giao, mức độ rủi
ro mình muốn giữ lại. Nói một cách khác, chuyển giao rủi ro chỉ nên được
xem là biện pháp nhằm đưa mức độ rủi ro mà doanh nghiệp phải đối mặt về
mức độ rủi ro mà doanh nghiệp có thể chấp nhận được chứ không phải là biện
pháp nhằm triệt tiêu rủi ro.
Tuy khơng thể giúp triệt tiêu hồn tồn rủi ro, nhưng biện pháp chuyển
giao và chia sẻ rủi ro cũng giúp giảm chi phí dự phịng rủi ro cho doanh
nghiệp đối với những rủi ro mà nó khơng thể tránh được. Tuy nhiên, không
phải rủi ro nào cũng có thể chuyển giao hoặc chia sẻ, trong những tình huống
đó, nhà quản lý sẽ phải quyết định giữa việc chấp nhận hoặc tránh rủi ro.
Trong quá trình quản lý rủi ro, việc sử dụng biện pháp nào phải căn cứ
vào những đánh giá về khả năng xảy ra rủi ro, mức độ thiệt hại mà rủi ro có
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


23
thể gây ra, cũng như những nguồn lực tài chính mà doanh nghiệp sẵn có để
khắc phục những thiệt hại đó. Lợi ích và chi phí của từng biện pháp sẽ phải
được cân nhắc. Tất cả điều này sẽ phụ thuộc một phần không nhỏ ở những
thông tin mà doanh nghiệp có được về rủi ro. Do vậy, có được những thông
tin đầy đủ về rủi ro cũng quan trọng không kém những hiểu biết về việc vận
dụng các kỹ thuật quản trị rủi ro.
1.2 Các vấn đề lý thuyết về hoạt động tín dụng và vấn đề về quản lý
rủi ro tín dụng
1.2.1 Khái niệm tín dụng
Danh từ tín dụng có nghĩa là một sự tin tưởng, tín nhiệm lẫn nhau, hay

nói cách khác đó là lịng tin.Trong thực tế, thuật ngữ tín dụng được hiểu theo
nhiều nghĩa khác nhau, khó có thẻ đưa ra một định nghĩa đầy đủ và rõ ràng về
tín dụng, tùy từng góc độ nghiên cứu, bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng
có nội dung riêng.
Theo Marx, tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ
người sở hữu sang người sử dụng, sau một thời gian nhất định lại quy về với
một lượng giá trị lớn hơn giá trị ban đầu.
Theo quan điểm này, phạm trù tín dụng có ba nội dung chủ yếu đó là:
tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hồn trả.
Như vậy, tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người
đi vay thông qua sự vận động của giá trị, vốn tín dụng được Bảng hiện dưới
hình thức tiền tệ hoặc hàng hóa, q trình đó được thể hiện qua 3 giai đoạn
sau:
- Thứ nhất: phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay, ở giai đoạn này
giá trị vốn tín dụng được chuyển sang người đi vay, ở đây chỉ có một bên
nhận được giá trị và cũng chỉ một bên đã nhượng đi giá trị.
- Thứ hai: sử dụng vốn tín dụng trong quá trình tái sản xuất, người đi
vay sau khi nhận được giá trị vốn tín dụng, họ được quyền sử dụng giá trị đó
để thỏa mãn nhu cầu sản xuất hoặc tiêu dùng của mình. Tuy nhiên, người đi
vay chỉ được quyền sử dụng trong một khoảng thời gian nhất định mà không
được quyền sở hữu về giá trị đó.
Đặng Thị Nguyệt Anh

Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


24
- Thứ ba: đây là giai đoạn kết thúc một vịng tuần hồn của tín dụng,
sau khi vốn tín dụng đã hoàn thành một chu kỳ sản xuất để trở thành hình thái
tiền tệ thì vốn tín dụng được người đi vay hoàn trả lại cho người cho vay.

Những hành vi tín dụng có thể được diễn tra trực tiếp giữa người thừa
vốn cần đầu tư với người cần vốn để sử dụng. Nhưng thực tế hai người này
khó có thể phù hộp được với nhau về quy mô, về thời gian nhàn rỗi và thời
gian sử dụng vốn, hoặc cũng có thể phù hợp được thì phải tốn kém chi phí tìm
kiếm, nên để thỏa mãn được nhu cầu của cả hai người thì cần phải có thêm
người thứ ba đứng ra tập trung được tất cả số vốn của những người tạm thời
thừa, cần đầu tư kiếm lãi. Trên cơ sở vốn tập trung được phân phối cho những
người cần vốn để sử dụng dưới hình thức cho vay. Người đó khơng có ai khác
chính là các tổ chức tín dụng, trong đó chủ yếu là các ngân hàng thương mại –
người mơi gới tài chính trên thị trường tài chính. Việc các ngân hàng thương
mại tập trung vốn dưới hình thức huy động và phân phối dưới hình thức cho
vay được gọi là tín dụng ngân hàng.
1.2.2 Đặc điểm của tín dụng
- Tín dụng là sự cung cấp một lượng giá trị dựa tên cơ sở lòng tin, trong
đó người cho vay tin tưởng người đi vay sử dụng vón vay có hiệu quả sau một
thời gian nhất định và do đó có khả năng trả được nợ.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng một phần giá trị có thời hạn. Để đảm
bảo thu hồi nợ đúng hạn, người cho vay thường xác định rõ thời gian cho vay,
việc xác định thời hạn đó dựa vào quá trình ln chuyển vốn của đối tượng
vay, có nghĩa là thời hạn cho vay phải phù hợp với chu kỳ ln chuyển vốn
của đối tượng vay thì lúc đó người vay mới có điều kiện để trả nợ, nếu thời
hạn cho vay nhỏ hơn chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay thì khi đến
hạn khách hàng chưa có nguồn để trả nợ sẽ gây khó khăn cho khách hang,
người lại nếu thời hạn cho vay dài hơn chu kỳ luân chuyển vốn sẽ tạo điều
kiện cho khách hàng sử dụng vốn khơng đúng mục đích và khơng có nguồn
để trả nợ, nhưng nếu có nguồn thu nhập khác ngồi nguồn thu chính thì có thể
thu nợ từ nguồn đó. Vì vậy, thời hạn cho vay có thể ngắn hơn chu kỳ sản xuất
kinh doanh. Việc xác định thời hạn cho vay không chỉ dựa vào chu kỳ luân
chuyển vốn của đối tượng vay mà còn phải dựa vào tính chất vốn của người
Đặng Thị Nguyệt Anh


Cao học Quản trị kinh doanh 2007-2009


×