Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của nguyễn minh châu sau 1975

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.43 MB, 74 trang )

..

TRƯỜNG ĐẠI HỌC AN GIANG
KHOA SƯ PHẠM

----- [ \ -----

VĂN THỊ HỒNG HOA
LỚP DH5C1

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
NGÀNH NGỮ VĂN

Giảng viên hướng dẫn
TIÊU MINH ĐƯƠNG

LONG XUYÊN. 5/2008


VÀI NÉT VỀ NGUYỄN MINH
CHÂU (1930 – 1989)
Tên khai sinh: Nguyễn Minh Châu cũng là
bút danh, sinh ngày 20 tháng 10 năm 1930. Quê
gốc: làng Thôi, xã Quỳnh Hải, huyện Huỳnh Lưu,
tỉnh Nghệ An. Tốt nghiệp Thành Chung. Đảng
viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội viên Hội Nhà
văn Việt Nam (1972).
* Vào các năm 1944 - 1945, Nguyễn Minh
Châu học Trường Kỹ nghệ Huế. Năm 1945 ông tốt
nghiệp Thành chung. Tháng 1 năm 1950 ông học
chuyên khoa Trường Huỳnh Thúc Kháng (Hà


Tĩnh) và sau đó gia nhập quân đội theo học
Trường sỹ quan Trần Quốc Tuấn. Từ năm 1952 đến 1956 ơng cơng tác tại Ban tham
mưu tiểu đồn 722, 706 thuộc sư đoàn 320. Từ năm 1956 đến năm 1958 ơng là trợ
lý văn hóa trung đồn 64 thuộc sư đồn 320. Năm 1961 ơng theo học Trường Văn
hóa Lạng Sơn. Năm 1962 về cơng tác tại phịng Văn nghệ quân đội, sau chuyển sang
tạp chí Văn nghệ quân đội. Ông tạ thế ngày 23 tháng 1 năm 1989 tại Hà Nội.
* Tác phẩm chính đã xuất bản: Cửa sông (tiểu thuyết, 1987); Những vùng
trời khác nhau (truyện ngắn, 1970); Dấu chân người lính (tiểu thuyết, 1972); Miền
cháy (tiểu thuyết, 1977); Lửa từ những ngôi nhà (tiểu thuyết, 1977); Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành (truyện ngắn, 1983); Bến quê (truyện ngắn, 1985); Những
người đi từ trong rừng ra (tiểu thuyết, 1982); Mảnh đất tình yêu (tiểu thuyết, 1987);
Cỏ lau (truyện vừa, 1989).
- Nguyễn Minh Châu đã được nhận Giải thưởng Bộ Quốc phòng năm (1984 1989) cho tồn bộ tác phẩm của ơng viết về chiến tranh và người lính; Giải thưởng
Hội Nhà văn Việt Nam (1988-1989) cho tập truyện vừa Cỏ lau.


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành tốt khố luận, tơi đã nhận được nhiều sự ưu ái của
Gia đình tôi, nhất là ba mẹ, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi về vật chất và tinh
thần. Gia đình đã tạo cho tôi tâm thế thoải mái để làm công việc nghiên cứu đầy khó
khăn, ln khuyến khích để tơi vững tin vượt qua mọi trở ngại trong quá trình hồn
thành khố luận.
Trường Đại học An Giang, các phịng ban, khoa sư phạm, đặc biệt là quý
thầy cô trong ngành Ngữ văn đã tận tình giúp đỡ, sẵn sàng hỗ trợ tơi trong suốt q
trình nghiên cứu, đóng góp những ý kiến quý báu, cung cấp những tư liệu, tài liệu,
tri thức cần thiết để tôi nghiên cứu vấn đề đạt hiệu quả.
Thầy Tiêu Minh Đương đã quan tâm sâu sát và kịp thời hướng dẫn tơi giải
quyết những khó khăn bước đầu trong cơng việc mang tính chất mới mẻ và lạ lẫm
này. Thầy đã tận tình giúp đỡ, động viên tôi về mặt tinh thần để tôi tự tin thực hiện
cơng trình trên cơ sở phát huy khả năng tìm tịi, học hỏi và sáng tạo. Có thể nói tơi

học được rất nhiều từ phía thầy về kinh nghiệm nghiên cứu một đề tài, các bước
thực hiện và trình bày theo khoa học và nhất là hứng thú, niềm say mê nghiên cứu
khoa học, thấy được ý nghĩa thật sự của việc nghiên cứu.
Các bạn cùng khoá học đã nhiệt tình hợp tác, đóng góp, giúp đỡ, ủng hộ tơi
trong mọi thao tác, mọi bước hình thành khố luận.
XIN NHẬN Ở TÔI LỜI CẢM ƠN CHÂN THÀNH VÀ SÂU SẮC NHẤT!
Tuy nhiên với vốn kiến thức còn hạn chế của một sinh viên sắp ra trường,
chắc chắn khoá luận sẽ cịn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được những ý kiến đóng
góp q báu của thầy cơ và các bạn!
Long Xuyên. Tháng 5/ 2008
SV VĂN THỊ HỒNG HOA


MỤC LỤC
Lời cảm ơn
A Phần mở đầu
1 Lý do chọn đề tài ..............................................................................
2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu .................................................................
3 Phạm vi nghiên cứu............................................................................
4 Phương pháp nghiên cứu....................................................................
5 Mục đích nghiên cứu..........................................................................
6 Cấu trúc luận văn................................................................................
7 Đóng góp của khố luận.....................................................................
B Phần nội dung
Chương I Cơ sở lý luận .........................................................................
1 Cảm hứng và cảm hứng nhân đạo..................................................
1.1 Cảm hứng tư tưởng ......................................................................
1.2 Cảm hứng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo ................................
2 Cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt Nam .............................
2.1 Từ văn học dân gian đến văn học giai đoạn 1945.......................

2.2 Giai đoạn 1945 – 1975 ................................................................
2.3 Sau năm 1975 đến nay ................................................................
Chương II Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của
Nguyễn Minh Châu sau 1975 ......................................................................
1 Tinh thần khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người ............
1.1 Ca ngợi con người giác ngộ lý tưởng biết làm chủ vận mệnh
mình................................................................................................................
1.2 Phê phán những hành động giả trá, thiếu nhân tính....................
2 Tinh thần cảm thơng về số phận và những nỗi đau khổ của
con người trong mỗi tác phẩm ....................................................................
2.1 Niềm trân trọng đối với con người...............................................
2.2 Niềm tin vào khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi con
người...............................................................................................................
C Phần kết luận ........................................................................................
Tài liệu tham khảo........................................................................................

1
2
4
4
5
5
6
7
7
7
8
11
11
13

15
19
19
19
32
41
41
56
66
68


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuấn Thành và Vũ Nguyễn (tuyển chọn). 2007. Truyện ngắn Nguyễn Minh
Châu, tác phẩm và dư luận. NXB Văn học.
2. Đại học quốc gia, Trường viết văn Nguyễn Du, Tạp chí văn nghệ Quân đội.
1999. 50 năm văn học Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8. NXB Đại học
quốc gia Hà Nội.
3. Đỗ Đức Hiểu. 2000. Thi pháp hiện đại. Hà Nội: NXB Hội nhà văn.
4. Đặng Thai Mai. 1997. Toàn tập, tập I,II. NXB Văn học Hà Nội.
5. G. N. Pospelov (chủ biên). 1985. Dẫn luận nghiên cứu văn học I. NXB Giáo
dục.
6. Hà Minh Đức. 2000. Đi tìm chân lý nghệ thuật (tiểu luận, phê bình). NXB
Văn Học Hà Nội.
7. Hà Xuân Trường. 1986. Văn học, cuộc sống và thời đại. NXB Văn học Hà
Nội.
8. Hoàng Ngọc Hiến. 1997. Văn học và học văn. Hà Nội: NXB Văn học.
9. Hoàng Ngọc Hiến. 2006. Những ngả đường vào văn học. Hà Nội: NXB Giáo
dục.
10. Lương Duy Trung (chủ biên). 1993. Văn học và ngôn ngữ (kỷ yếu). Trường

Đại học sư phạm TP Hồ Chí Minh.
11. Nguyễn Đức Khuông. 2005. Tác giả, tác phẩm văn học Việt Nam trong con
mắt người nước ngoài. NXB Đại học sư phạm.
12. Nguyễn Minh Châu. 2006. Tuyển tập truyện ngắn. NXB Văn học
13. Nguyễn Thanh Bình và Nguyễn Đức Khng (tuyển chọn và giới thiệu).
2005. Tìm hiểu nhà văn và tác phẩm trong nhà trường. NXB Đại học sư
phạm.
14. Nguyễn Thị Bình. 1999. Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải - Nhà văn và tác
phẩm trong nhà trường. NXB Giáo dục.
15. Nguyễn Trọng Hoàn (giới thiệu và tuyển chọn). H, 2001. Nguyễn Minh
Châu, tác giả, tác phẩm. NXB Giáo dục.
16. Nguyễn Văn Kha. 2003. Nguyễn Minh Châu, nhà văn chiến sĩ. NXB Hội
nghiên cứu và giảng dạy Văn học TP Hồ chí minh.
17. Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn (chủ biên). 2006. Văn học việt nam sau
1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy. NXB Giáo dục.
18. Phạm Đăng Dư và Lê Lưu Oanh. 2002. Giáo trình lý luận văn học. Bộ giáo
dục và đào tạo, Đại học Huế, TT Đào tạo từ xa.
19. Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử, Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La
Khắc Hoà, Thành Thế Thái Bình. 2004. Lý luận văn học. NXB Gíao dục.
20. Tôn Phương Lan (sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu). 2002. Nguyễn Minh
Châu, Trang giấy trước đèn. NXB khoa học xã hội.


21. Tôn Phương Lan. 2002. Phong cách nghệ thuật Nguyễn Minh Châu. NXB
Khoa học xã hội.
22. Lý luận và phê bình văn học. 1996. Văn học và cuộc sống. NXB Lao động.
23. Vân Trang, Ngơ Hồng, Bảo Hương (sưu tầm và biên soạn). 1997. Văn học
1975-1985, tác phẩm và dư luận. NXB Hội nhà văn Hà Nội.
24. Văn học và tuổi trẻ, số 8/ 2001.



MỤC LỤC
Lời cảm ơn
A Phần mở đầu
1 Lý do chọn đề tài
.................................................................
2 Lịch sử vấn đề nghiên cứu ..................................................................................
3 Phạm vi nghiên cứu.............................................................................................
4 Phương pháp nghiên cứu.....................................................................................
5 Mục đích nghiên cứu...........................................................................................
6 Cấu trúc luận văn ................................................................................................
7 Đóng góp của khố luận......................................................................................
B Phần nội dung ........................................................................................................
Chương I Cơ sở lý luận ........................................................................................
1 Cảm hứng và cảm hứng nhân đạo...................................................................
1.1 Cảm hứng tư tưởng .......................................................................................
1.2 Cảm hứng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo .................................................
2 Cảm hứng nhân đạo trong văn học Việt Nam hiện đại ................................
2.1 Từ văn học dân gian đến văn học giai đoạn 1945........................................
2.2 Giai đoạn 1945 – 1975 .................................................................................
2.3 Sau năm 1975 đến nay .................................................................................
Chương II Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh
Châu sau 1975 ...............................................................................................................
1 Tinh thần khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người .............................
1.1 Ca ngợi con người giác ngộ lý tưởng biết làm chủ vận mệnh mình .............
1.2 Phê phán những hành động giả trá, thiếu nhân tính .....................................
2 Tinh thần cảm thơng về số phận và những nỗi đau khổ của con người
trong mỗi tác phẩm.......................................................................................................
2.1 Niềm trân trọng đối với con người................................................................
2.2 Niềm tin vào khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi con người ...........

C Phần kết luận..........................................................................................................

1
1
1
2
2
3
3
3
5
5
5
5
5
6
6
7
7
8
8
8
8
9
9
10
10


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975


1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Mỗi sáng tác văn học đều bắt nguồn từ đời sống, mà “cái thiện và cái ác gắn
liền với những hiện tượng trong đời sống, từ tâm trạng đến hành động của con
người và cũng là đối tượng phản ánh, sáng tạo trong nghệ thuật” [6; 33-34]. Nói
như thế có nghĩa là trong quá trình tiếp xúc hiện thực hai mặt tồn tại trong tương
quan đó, nhà văn chiêm nghiệm và nhận ra “trong con người đang sống lẫn lộn
người tốt kẻ xấu, rồng phượng lẫn rắn rết, thiên thần và ác quỷ” [12; 133], từ đó
hình thành nên cảm hứng, nguồn động lực thôi thúc họ phản ánh vào tác phẩm.
Bằng nhãn quan nghệ sĩ, họ luôn cúi xuống những số phận, những con người ở mọi
tầng lớp từ nhiều góc độ để tìm tịi, phát hiện ra “chất người” bị hoà vào những bề
bộn, ngổn ngang của cuộc sống, để từ đó họ lên tiếng ngợi ca hoặc phê phán nhằm
khẳng định những chân giá trị, những phẩm chất tốt đẹp nơi con người.
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn trưởng thành trong thời kì kháng chiến
chống Mỹ và đặc biệt ông là nhà văn đi tiên phong ở thời kì đổi mới. Ơng sớm nhận
ra được trong mỗi con người ln tồn tại hai mặt thiện – ác. Vì thế, sau năm 1975,
khi đất nước được giải phóng, Nguyễn Minh Châu đã thẳng thắn soi rọi vào thực tế
chiến tranh, ông đã phát hiện ra đằng sau những con người cao cả, “thánh nhân” ấy
là những thói nhỏ nhen, ích kỷ, tham sống sợ chết. Ơng nhìn thấy được nỗi ân hận,
day dứt đến tột cùng của họ về những lỗi lầm trước đây khi đang sống thật với lịng
mình, đang nhìn thẳng vào sự thật cuộc đời mình. Và ơng đã phản ánh vào các sáng
tác của mình để người đọc cùng chiêm nghiệm, cùng nhận ra những điều tưởng
chừng như khơng thể có trong những lúc ranh giới giữa sống và chết rất mong
manh. Vậy mà nó vẫn xảy ra và nó trải đều qua mỗi số phận con người trong xã hội.
Quen sống với hào khí chiến công làm cho người ta không ngừng nảy sinh
những điều dối trá, mập mờ và vì hồn cảnh mà con người ta dường như tạm quên
đi ý thức tìm về sự thật, thậm chí có thể bị dị ứng khi phát hiện ra sự thật. Nguyễn

Minh Châu không như thế, với ơng lúc này đây khơng cịn chiến tranh chống kẻ thù,
thì con người cần nhìn thẳng vào sự thật, cần đấu tranh với chính bản thân mình, với
chính những sai lầm của bản thân để tự phê phán, để sửa chữa, để hoàn thiện cuộc
đời. Hơn nữa, Nguyễn Minh Châu cũng đã đi tìm cái “hạt ngọc”, “cái sợi chỉ xanh
óng ánh” ẩn sâu trong những thân phận con người đã lầm lạc để từ đó nâng con
người lên một tầm cao hơn, hoàn thiện nhân cách con người.
Sau 1975, sự tự ý thức và tinh thần nhân bản là cảm hứng chủ đạo của nền văn
học. Nguyễn Minh Châu cũng đã góp mặt cùng trào lưu bằng một mảng những sáng
tác đậm chất nhân văn qua một loạt các tập truyện ngắn “Người đàn bà trên chuyến
tàu tốc hành” (1983); “Bến quê” (1985); “Cỏ lau” (1989). Tác giả đã dõi theo từng
bước đi, từng việc làm, từng suy nghĩ và từng phút giây tự vấn lương tâm vì lầm lạc
của những con người trong tác phẩm. Sau đó bằng sự cảm thơng sâu sắc cũng như
lịng trân trọng, tràn đầy tình u thương, ơng đã khẳng định bên trong mỗi con
người đều có hai mặt thiện - ác, nhưng lúc nào họ cũng ln vươn lên, hồn thiện

Văn Thị Hồng Hoa

1


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

mình, đấu tranh loại bỏ mặt tiêu cực của bản thân để giữ lại phẩm chất tốt đẹp vốn
có trong mỗi con người.
Nhận được những điều đó qua các tác phẩm của Nguyễn Minh Châu, chúng tơi
chọn đề tài này như một sự say mê tìm tòi, phát hiện và chứng minh điều tác giả đã
khẳng định.

2.


LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Vấn đề mà đề tài thực hiện đã có rất nhiều người quan tâm, nghiên cứu. Tuy
nhiên, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận từ các góc độ khác nhau nhưng nhìn chung,
dường như sự tập trung khơng phải là xâu chuỗi tồn bộ sáng tác của nhà văn mà
điểm dừng trên từng tác phẩm riêng lẻ vì thế chưa khái quát thành một hệ thống.
Trước hết, xuất phát từ lập trường Xã hội học
Nhà nghiên cứu Nguyễn Trọng Hoàn đi sâu vào truyện ngắn “Bức tranh” để đi
sâu khai thác “cuộc đấu tranh nội tâm với khát vọng tìm tịi và phục hiện ánh sáng
nhân tính trong khả năng tự thức tỉnh của “con người bên trong con người”
(Bakhtin)” [15; 143]. Tác giả đi vào những trạng huống tâm lý nhân vật phức tạp với
diễn biến đa chiều, những hình thức nghệ thuật đặc sắc nhằm thể hiện tư tuởng chủ
đề của tác phẩm là khát vọng thức tỉnh lương tâm, hướng tới cái đẹp của sự hồn
thiện nhân cách trong cuộc sống .
Cũng từ góc độ này, N.I.Niculin trong “Nguyễn Minh Châu và sáng tác của
anh” đã thấy được qua truyện vừa “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”. Sự lo
lắng của nhà văn, khát vọng bảo vệ tất cả những gì tích cực, đẩy lùi cái ác, đã bộc lộ
rõ rệt trong cuốn sách mới này của anh. Ngay ở đây anh vẫn giữ một niềm tin không
chút dao động vào cái đẹp tâm hồn của con người. Ở các truyện ngắn như “Bức
tranh”, “con người bị phán xét bởi lương tâm mình, khơng gì khe khắt và cơng bằng
hơn sự phán xét này” [15; 291].
Thứ hai, từ góc độ nội dung tư tưởng
Các tác giả tìm hiểu cảm hứng ngợi ca và phê phán nhưng chỉ trong một vài tác
phẩm riêng lẻ.
Hồ Hồng Quang phát hiện ra qua những tác phẩm về chiến tranh những năm
1980 có một sự chiêm nghiệm lại về cuộc chiến và người lính cách mạng của
Nguyễn Minh Châu, tìm hiểu hai mặt tương phản của hai lớp người trong chiến
tranh: người anh hùng và kẻ đớn hèn như Lực trong “Cỏ lau” và Thái trong “Mùa
trái cóc ở miền Nam” hay trong chính bản thân của mỗi con người như Lực vừa là
một con người anh dũng trong chiến đấu, cao thượng trong tình yêu, trong ứng xử

vừa có những lúc nhỏ nhen, tự ái, thù vặt.
Phạm Quang Long nhìn thấy thái độ của Nguyễn Minh Châu đối với con người:
niềm tin pha lẫn lo âu. Nhà nghiên cứu cho rằng “Những tác phẩm như “Cơn
giông”, “Bức tranh”, “Mùa trái cóc ở miền Nam”, “Cỏ lau” viết trong những năm

Văn Thị Hồng Hoa

2


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

cuối đời ơng chính là sự thể hiện nỗi đau đời mà ông đã day dứt trong bao nhiêu
năm ấy” [15; 268-269].
Đối với tác giả Huỳnh Như Phương thì sự phân tích nhiều dằn vặt của người
họa sĩ trong truyện “Bức tranh” là một thái độ đạo đức bao hàm tình cảm có tội và
phần nào ý thức trách nhiệm. Vì thế, đem lại cho nó một ý nghĩa mới, đó là một vết
đen của nhân cách mà tôi đã nhận ra và đang nổ lực rửa sạch đi.
Thứ ba, từ cơ sở Thi pháp học, có những tên tuổi như
Ngọc Trai, Nguyễn Văn Hạnh, Nguyễn Thị Hiếu, Lê Quang Hưng và điểm gặp
gỡ giữa các nhà nghiên cứu là chỉ dừng lại khám phá những xung đột nội tâm,
những trăn trở, day dứt của con người trong tác phẩm “Bức tranh”, “Người đàn bà
trên chuyến tàu tốc hành”, “Khách ở quê ra” và “Phiên chợ Giát”.
Chu Văn Sơn đi vào cảm hứng ca ngợi trong tác phẩm “Cỏ lau”. Xem vẻ đẹp
nữ tính của Thai, thiên chức làm mẹ, làm vợ là linh hồn của tác phẩm “Cỏ lau”, từ
đó khơng ngừng nhận ra “hạt ngọc” trong tâm hồn những con người trong tác phẩm.
Còn Hồng Ngọc Hiến có trải cái nhìn từ truyện “Bức tranh” đến “Phiên chợ
Giát”. Ở “Bức tranh” tác giả chú ý đến quá trình tự nhận thức của người hoạ sĩ. Cịn
trong “Phiên chợ Giát” thì chú ý quan hệ giữa Bị Khoang và lão Khúng ở con người
nơng dân là quan hệ “lẫn lộn bò và người”, “hai mà một, một mà hai”.

Đỗ Đức Hiểu thì tìm hiểu tác phẩm Phiên chợ Giát như “là một tâm trạng lớn,
là những cảm xúc và những suy tư sâu thẳm, một văn bản đa thanh, một tác phẩm
nghệ thuật mở, một bức tranh lạ lùng, tức là Phiên chợ Giát có một tầm cỡ lớn” [3;
250].
Tơn Phương Lan đi vào tìm hiểu cảm hứng nhân đạo ở tư tưởng nghệ thuật,
quan niệm về hiện thực và con người, tìm hiểu về nhân vật, tình huống và điểm nhìn
trần thuật, giọng điệu và ngôn ngữ trong các sáng tác của Nguyễn Minh Châu.
Hồng Thi Văn thì đi sâu vào cảm hứng nhân đạo mang tính tập trung, cụ thể là
hai truyện ngắn “Cỏ lau và Phiên chợ Giát” và nhấn mạnh ở nhân vật Lực và lão
Khúng về cuộc đời cũng như những trăn trở của họ. Hoàng Thi Văn nhận ra, nhà
văn Nguyễn Minh Châu bằng tấm lòng ưu ái đối với cuộc đời nên cảm hứng tư
tưởng thể hiện ở hai sắc thái vừa ngợi ca, vừa phê phán. Tinh thần ngợi ca đã “khắc
hoạ hình ảnh người lính với nét đẹp đời thường, thái độ lặng lẽ chấp nhận những
thiệt thòi, mất mát, tâm trạng dằn vặt, trăn trở, tự vấn mình về một lỗi lầm trong
quá khứ” [10; 55]. Một tình yêu duy nhất thuỷ chung mang theo suốt cuộc đời- đó
chính là vẻ đẹp trong tâm hồn và trong cuộc đời sống tinh thần của người chiến sĩ.
Và tác giả đã tìm hiểu lão Khúng, hình ảnh người nơng dân với những dịng hồi
tưởng, những giây phút đấu tranh tâm trạng đan xen trong ông. Tác giả nhận ra ngòi
bút của Nguyễn Minh Châu giàu lòng yêu thương, sáng tác với ý thức “đi tìm cái
hạt ngọc ẩn dấu trong bề sâu tâm hồn con người, miêu tả với tất cả sự đa dạng,
phong phú, tiềm ẩn bên trong vẻ ngồi mộc mạc, chất phác mn đời của người

Văn Thị Hồng Hoa

3


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

nông dân” [10; 55]. Đối với phê phán là bản tính ích kỉ đời thường của người lính

đã dẫn đến sự hy sinh khơng đáng của người liên lạc trẻ, cũng như lột tả khía cạnh
bảo thủ, trì trệ trong bản tính của người nơng dân [10; 58].
Nghiên cứu về Cảm hứng nhân đạo trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu, có
thể nói, các nhà nghiên cứu đã tập trung khai thác và lý giải diễn ra trên diện rộng,
mỗi người có mỗi cách lý giải nhưng điểm gặp gỡ ở họ là xác định cảm hứng nhân
đạo của nhà văn. Đáng kể nhất là bài nghiên cứu của Hoàng Thi Văn đã đi sâu vào
yêu cầu của đề tài nhưng lại chỉ dừng lại ở hai tác phẩm “Cỏ lau và Phiên chợ Giát”.
Từ những ý kiến trên sẽ là cơ sở cho chúng tôi đi vào nghiên cứu cảm hứng nhân
đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

3.

PHẠM VI NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu một số truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu mà cụ
thể là chín tác phẩm: Bức tranh, Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cơn giơng,
Bến q, Chiếc thuyền ngồi xa, Khách ở quê ra, Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam,
Phiên chợ Giát. Và ở đây, chúng tôi xem các sáng tác như một chỉnh thể thống nhất
xâu chuỗi với nhau và sợi chỉ đỏ xuyên thấm là cảm hứng nhân đạo của nhà văn.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Là cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu, cụ thể là cảm hứng ca ngợi
hoặc phê phán. Ở đây cũng cần thấy rằng ngợi ca hay phê phán thì sáng tác văn học
của bất kì nhà văn chân chính nào cũng hướng về khẳng định giá trị con người và
cảm hứng nhân đạo của Nguyễn Minh Châu khơng ngồi quy luật đó.

4.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU


Sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975 với một số lượng tác phẩm khá lớn
vừa có tiểu thuyết, vừa có truyện ngắn. Trong giới hạn của đề tài, với chín truyện
ngắn thì cảm hứng nhân đạo như mối dây xuyên qua từng tác phẩm. Có thể nói, mỗi
tác phẩm đều có cách thể hiện cảm hứng nhân đạo khác nhau ở từng phương diện,
từng khía cạnh làm nên đặc điểm nổi bật cho từng tác phẩm. Vì thế, để kết quả
nghiên cứu đạt hiệu quả tốt nhất, chúng tôi sử dụng hệ thống phương pháp
Trước hết, cơ sở không thể thiếu được cho nghiên cứu là lập trường duy vật
biện chứng. Tức là tinh thần của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy
vật lịch sử là cơ sở để chúng tôi tiến hành xác lập mọi tiếp cận đối tượng nghiên
cứu.
Khi đi vào nghiên cứu cụ thể thì việc phân tích là một trong những phương
pháp chủ yếu. Cụ thể, để làm rõ cho việc lý giải cảm hứng nhân đạo trong một số
sáng tác của nhà văn thì việc phân tích hình tượng nghệ thuật trong từng tác phẩm là
điều không thể thiếu trong nghiên cứu. Tuy nhiên, như đã nói, với số lượng chín tác

Văn Thị Hồng Hoa

4


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

phẩm mà chúng tôi xem như một chỉnh thể thống nhất thì việc phân tích ở đây là
phân tích – hệ thống.
Tất nhiên, tính hệ thống khơng chỉ dừng lại sự xâu kết, mà cịn góp phần cho
chúng tôi lý giải trong một chỉnh thể thống nhất đó ở hai bình diện là cảm hứng ngợi
ca và cảm hứng phê phán. Có thể nói, phương pháp phân tích - hệ thống là cơ sở có
nhiều ưu điểm cho chúng tôi nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác
của nhà văn Nguyễn Minh Châu .
Ngồi ra, trong q trình phân tích, lý giải thì việc so sánh cũng là điều rất cần

thiết. Vì có so sánh mới làm sáng rõ được đối tượng nghiên cứu. Đó là đi vào so
sánh ngang giữa các tác phẩm để nhận biết các tác phẩm có những điểm gì giống và
khác nhau về loại hình nhân vật, có nhiều bước chúng tơi so sánh với các tác phẩm
ngồi giới hạn đề tài.Văn học phản ánh chân thật hiện thực đời sống nên chúng tôi
đã đặt tác phẩm vào mối tương quan với xã hội bên ngồi, từ đó rút ra hiện thực mà
tác giả phản ánh vào tác phẩm.
Như đã nói, lập trường duy vật biện chứng và thơng qua những phương pháp cụ
thể thì cơ sở lý luận không thể không dung hợp. Nghĩa là ở đây, tinh thần lý luận
văn học là điều kiện xác lập cảm hứng nhân đạo, nhưng trong quá trình lý giải thì
chúng tơi phần nào lý giải trên cơ sở Thi pháp học hiện đại. Bởi cảm hứng nhân đạo
là bình diện thuộc tư tưởng nghệ thuật. Vì thế, tinh thần dung hợp cơ sở lý luận
không làm sai lệch kết quả nghiên cứu.
Tóm lại, tất cả các phương pháp trên đều nhằm mục đích nghiên cứu, khai thác
đề tài đạt hiệu quả cao nhất.

5.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Từ những gì tìm hiểu về tác phẩm, nhận ra thái độ, tư tưởng cũng như cái nhìn
nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu về con người trong tác phẩm, ình thành một cách
nhìn mới về con người. Đó chính là sự trăn trở của tác giả trước đời sống, nhà văn
không hề thờ ơ hay lạnh nhạt trước số phận của những con người dù họ đang lầm
lạc. Hay nói đúng hơn, tác giả ln thấu hiểu, xót thương và cảm thơng với những
lỗi lầm của họ nên đã phơi bày một cách chân thật những miền nội tâm, những suy
nghĩ về những việc làm đã khiến họ ray rứt trong cuộc sống.

6.

CẤU TRÚC LUẬN VĂN


Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, phần nội dung nghiên cứu gồm 2
chương
Chương I Cơ sở lý luận. (từ trang 7 đến 18)
Đi vào tìm hiểu những khái niệm về cảm hứng tư tưởng và cảm hứng nhân
đạo.Và sau đó đi vào cảm hứng nhân đạo qua các giai đoạn văn học, từ văn học dân
gian đến văn học hiện đại. Xoáy sâu vào giai đoạn 1945 - 1975 và sau 1975, nhất là
trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Văn Thị Hồng Hoa

5


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

Chương II Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu
sau 1975 (từ trang 19 đến 67).
Ở chương này chúng tơi tìm hiểu:
1.

Tinh thần khẳng định phẩm chất tốt đẹp của con người
1.1. Ca ngợi con người giác ngộ lý tưởng biết làm chủ vận mệnh mình.

Ca ngợi những người lính với những mất mát, hy sinh thầm lặng
trong cuộc đời, ca ngợi những người phụ nữ với phẩm chất thuỷ chung, suốt đời
chịu thương chịu khó vì chồng vì con.
1.2. Phê phán những hành động giả trá thiếu nhân tính
Lên án những hành vi vơ nhân tính của những con người vì vật chất
mà tha hố. Cũng như phê phán phút giây lầm lạc của những con người chưa vượt

qua “cái tơi” của mình.
2.

Tinh thần cảm thơng về số phận và những nỗi đau khổ của con người
2.1. Niềm trân trọng đối với con người.

Ở phần này, chúng tôi đi sâu phân tích từng số phận, nỗi đau khổ,
bất hạnh và niềm hạnh phúc thật sự cũng như khát vọng của con người trong tác
phẩm.
2.2. Niềm tin vào khả năng thức tỉnh và hướng thiện của mỗi người.
Thơng qua q trình phản tỉnh của con người trong tác phẩm, khẳng
định niềm tin của tác giả vào phẩm chất tốt đẹp của con người dù trong bất kỳ hoàn
cảnh nào cũng muốn vượt lên số phận để hồn thiện bản thân.

7.

ĐĨNG GĨP CỦA KHOÁ LUẬN

Nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu
sau 1975, trước hết giúp cho chúng tơi có điều kiện hiểu rõ về bình diện tư tưởng
trong sáng tác của nhà văn để góp phần trang bị kĩ hơn cho mình về mặt kiến thức
để giúp cho nghề nghiệp sau này.
Nhà văn Nguyễn Minh Châu có vị trí khá đặc biệt của nền văn học Việt Nam
sau 1975, vì thế nghiên cứu cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của ông cũng
là cơ sở cho việc hiểu biết thêm về văn học dân tộc trong giai đoạn ấy.

Văn Thị Hồng Hoa

6



Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

CHƯƠNG I CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.

CẢM HỨNG VÀ CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO
1.1. Cảm hứng tư tưởng

Theo giáo trình lý luận văn học (Phương Lựu (chủ biên), Trần Đình Sử,
Nguyễn Xuân Nam, Lê Ngọc Trà, La Khắc Hồ, Thành Thế Thái Bình)
Cảm hứng - trạng thái tâm lý then chốt và bao trùm trong sáng tác của nhà văn.
Cảm hứng được biểu hiện rõ nhất khi nhà văn bắt đầu viết, nhưng có thể bàng
bạc trong hầu hết các khâu của quá trình sáng tác. Dĩ nhiên, cảm hứng cũng có thể
có trong tất cả các ngành sản xuất khi mà con người lao động hoàn toàn tự nguyện
theo những mục đích hồn tồn phù hợp với lý tưởng và khả năng của mình. Nhưng
khác với thành phẩm của tất cả các ngành lao động khác, tác phẩm văn học nghệ
thuật cịn chứa đựng tình cảm chủ quan của chủ thể sáng tạo, cho nên cảm hứng
sáng tạo của văn nghệ sĩ vốn phải mãnh liệt. Nguyễn Qnh nói “Người làm thơ
khơng thể khơng có hứng, cũng như tạo hố khơng thể khơng có gió vậy… Tâm
người ta như chuông như trống, hứng như chày và dùi. Hai thứ đó gõ, đánh vào
chng trống khiến chúng phát ra tiếng; hứng đến khiến người ta bật ra thơ, cũng
tương tự như vậy”. Cũng có nhà văn khơng coi trọng cảm hứng, Phlôbe không tin
tưởng nhiều vào cảm hứng. Phrăngxơ cảm thấy ngọn lửa cảm hứng trong ông rất ơn
hồ. Xtăngđan có lúc hối tiếc khơng sử dụng tốt mười năm của đời mình vì cứ chờ
đợi cảm hứng. Dơla nói rằng “sáng sáng ơng ngồi vào bàn viết như nhà bn ngồi
vào bàn tính sổ”. Giorgiơ Xăng cũng hằng ngày viết đều đặn một số trang nhất định.
Tô Hồi cịn nói rõ hơn “Dù khơng thấy hứng, cũng cứ viết… Hơm ấy, dù khơng
thích cũng viết… Lúc sửa có vứt mấy trang hơm ấy, nhưng cũng cịn lại cái thói
quen làm việc”. Như thế khơng có cảm hứng mà miễn cưỡng viết, chẳng qua là tập

thói quen. Và chính đó là con đường động não, tích luỹ sẽ tạo cảm hứng thật sự.
Cho nên tuy có nhanh chậm, cao thấp, kéo dài hoặc chóng tan khác nhau, nhưng
sáng tác văn học nghệ thuật khơng thể khơng có cảm hứng. Viết văn là gan ruột, tâm
huyết, chỉ bộc lộ những gì đã thực sự tràn đầy trong lịng, khơng thể cho ra những
sản phẩm của một tâm hồn bằng lặng, vô vị, miễn cưỡng.
Cảm hứng là một trạng thái tâm lí căng thẳng nhưng say mê khác thường. Sự
căng thẳng của ý chí và trí tuệ, sự dồi dào về cảm xúc, khi đạt đến sự hài hoà, kết
tinh, sẽ cháy bùng trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, dẫn dắt họ đến những mục
tiêu da diết bằng con đường gần như trực giác, bản năng. Cảm hứng chỉ có thể là kết
quả bất ngờ của việc thai nghén lâu dài, suy tư, cấu tứ, tưởng tượng trước đó.
Traixcapxki đã nói chí lí rằng “cảm hứng là một khách quan khơng ưa thăm đến kẻ
lười”. Sinle nói “cái mà uổng cơng suốt mấy tuần liền, thì được giải quyết trong ba
ngày nhờ một tia nắng dịu; song rõ ràng là sự thường xuyên của tôi đã chuẩn bị cho
bước tiến triển đó”. Bơđơlơ cũng nói “Cảm hứng là nghị lực, là sự phấn khởi mang
tính chất trí tuệ và là khả năng nương giữ cái sức mạnh trong trạng thái kích thích”.

Văn Thị Hồng Hoa

7


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

Dẫn luận nghiên cứu văn học (G. N. Pospelov (chủ biên))
Sự lý giải đánh giá sâu sắc và chân thực – lịch sử đối với các tính cách được mơ
tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư
tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác phẩm của nhà văn.
Ngay các triết gia cổ Hy Lạp và sau này là Hegel và Belinsky đều đã dùng từ
“cảm hứng” (tiếng Hy Lạp cổ: pathos – một tình cảm sâu sắc, nồng nàn) để chỉ
trạng thái phấn hưng cao độ của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất của cuộc

sống mà họ mô tả. Sự chiếm lĩnh ấy bao giờ cũng bắt nguồn từ lý tưởng xã hội của
nhà văn nhằm phát triển và cải tạo thực tại.
Ở những tác phẩm khơng có chiều sâu của hệ vấn đề, sự lý giải và đánh giá các
tính cách sẽ khơng nâng lên được thành cảm hứng. Ở những tác phẩm mang tư
tưởng giả tạo, cảm hứng chỉ được tạo nên do ý chí chủ quan của nhà văn và vì vậy
cảm hứng sẽ mang tính chất gượng gạo, cố tình.
Do những khác biệt cốt yếu của bản thân cuộc sống được nhận thức, cảm hứng
của các tác phẩm văn học cũng được bộc lộ một số biến thể. Nó có thể là cảm hứng
anh hùng, cảm hứng bi kịch, cảm hứng kịch tính, cảm hứng thương cảm… Nhưng
tất cả đều là sự ý thức và đánh giá chân thực và sâu sắc về những gì đang diễn ra và
đang tồn tại trong thực tế.
Theo Giáo trình Lý Luận văn học (Phạm Đăng Dư, Lê Lưu Oanh)
Nội dung tư tưởng của tác phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lý giải dửng
dưng, lạnh lùng mà gắn liền với xúc cảm mãnh liệt .
Cảm hứng trong tác phẩm trước hết là niềm say mê khẳng định chân lý, lý
tưởng, phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca,
đồng tình với những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối,
các hiện tượng tầm thường.
Cảm hứng của tác giả dẫn đến sự đánh giá theo quy luật của tình cảm. “Nghệ
thuật vận dụng quy luật riêng của tình cảm”. Niềm tin yêu, say mê và khẳng định tư
tưởng, chân lý làm cho cảm hứng trong tác phẩm thường mang tính chất “thiên vị”,
“thiên ái” đối với nhân vật của mình, chân lý của mình.

1.2. Cảm hứng nhân đạo và chủ nghĩa nhân đạo
Từ “Nhân đạo” (theo nghĩa của từ điển Tiếng Việt của Minh Tân - Thanh
Nghi - Xuân Lâm biên soạn) là đạo đức thể hiện ở sự thương yêu, quý trọng và bảo
vệ con người.
Chủ nghĩa nhân đạo theo quan niệm của một số nhà nghiên cứu như Trần
Thanh Đạm, Hoàng Ngọc Hiến đã hướng vào lý giải văn học
Trước hết, theo Trần Thanh Đạm [22; 23] quan niệm


Văn Thị Hồng Hoa

8


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

Nói đến chủ nghĩa nhân đạo là trước hết nói đến lịng thương người, sự mẫn
cảm trước nỗi khổ đau, bất hạnh của đồng loại, sự quan tâm, mưu cầu điều tốt, điều
lành, niềm hạnh phúc cho người vốn dễ dàng bất hạnh hơn là hạnh phúc. Chủ nghĩa
nhân đạo là thái độ đạo đức đối với con người như là đối tượng của tình thương yêu.
Nếu chủ nghĩa nhân bản thiên về sự thấu hiểu, thơng cảm phần thể xác của con
người thì chủ nghĩa nhân đạo chú tâm hơn phần đạo lý của nó. Chủ nghĩa nhân đạo
chân chính khơng chỉ thương xót hay thương yêu mà còn quý trọng và đòi hỏi. Con
người không phải là thần thánh nhưng con người phải vươn lên thế giới của thần
thánh, xa dần thế giới của lồi vật càng nhiều càng tốt. Nói như ai, con người phải
dần dần bớt phần “con” mà thêm phần “người”. Chủ nghĩa nhân bản xác lập cái
chân, chủ nghĩa nhân đạo khuyến khích cái thiện. Nhưng con người xứng đáng với
vị thể và danh hiệu lồi người, khơng chỉ sống thực, sống tốt mà cịn sống đẹp; cái
đẹp chân chính bao gồm cả cái thực và cái tốt bên trong. Đây là lĩnh vực của chủ
nghĩa nhân văn, giang sơn của văn hóa, văn chương, nghệ thuật (nghĩa của chữ
“văn” là đẹp, vẻ đẹp, cái đẹp). Chủ nghĩa nhân văn cũng là chủ nghĩa nhân bản, chủ
nghĩa nhân đạo là tri thức và đạo đức về con người trong cái biểu hiện về văn hóa,
nghệ thuật, là hình thái tổng hợp và sáng tạo của cả ba nhân tố.
Hoàng Ngọc Hiến trong “Những ngả đường vào văn học” thì xem xét nội dung
này rất cụ thể, theo ông
Trong các biểu hiện đa dạng của lý tưởng nhân văn tiến bộ trong lịch sử văn
học Việt Nam có hai cảm hứng nhân văn đáng được chú ý. Cảm hứng thứ nhất là
lịng ưu ái, tình thương đối với con người, đặc biệt những con người khốn khổ gặp

cảnh hoạn nạn. Nguyễn Du tiêu biểu cho dòng cảm hứng nhân văn này.
Trong tư tưởng truyền thống của nhân dân ta, tư tưởng nhân đạo trước hết được
diễn đạt bởi khái niệm tình thương, khái niệm này, dĩ nhiên không thể chứa đựng
được nội hàm của chủ nghĩa nhân đạo mới. Tình thương, theo nghĩa đơn giản nhất
của từ này, là năng lực thông cảm với nỗi đau của người khác. Không phải ngẫu
nhiên trong ngôn ngữ của ta, “đau” và “ thương” đi với nhau. Thông cảm với nỗi
đau của người khác cũng là một cái đau, một sự xót xa của chính mình: tình thương
thật sự bao giờ cũng là đau xót. Tình thương là một năng lực nhân tính vĩ đại. Đau
thương bao giờ cũng là nguồn cảm hứng nhân đạo chủ nghĩa lớn lao của văn học
nghệ thuật. Nguyễn Du, Lỗ Tấn… đã trở thành những nghệ sĩ lớn, trước hết là vì
hơn bất cứ ai, họ đã thơng cảm sâu sắc và đau đớn da diết những nỗi đau nhân tình
trong thời đại của họ. Mỗi lần văn học chuyển giai đoạn thì trong ý thức của văn học
thường xuất hiện những “vùng đau mới”. Đau thương là bằng chứng của sức sống
con người. Bắt đầu của tình thương là sự thông cảm với nỗi đau của người khác.
Tình thương là một năng lực nhân tính phổ biến, vì trên đời này có ai khơng có nỗi
đau. Trong quan hệ giữa người và người, ngồi u cầu tình thương: đó là sự kính
trọng, sự q trọng lẫn nhau trong quan hệ giữa người và người của cộng đồng xã
hội mới. Nói đến cái đáng quý trọng của con người, trước hết phải nói đến những
phẩm giá nhân tính, những phẩm giá thuộc về cơ thể, trí tuệ, tình cảm, ý chí của con

Văn Thị Hồng Hoa

9


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

người, đó là tài sắc, đức hạnh và những phẩm giá khác của con người. Vậy thì trong
cộng đồng xã hội của chúng ta, người nào chả đáng quý trọng, ngay ở những người
bình thường cũng có thể tìm thấy vài ba nét phẩm giá kể trên. Mỗi người đều đáng

quý trọng trước hết vì mỗi người là một nhân cách rất riêng, không ai thay thế được.
Định nghĩa của Hêgel về tình thương bao hàm một nghịch lý “qn mình đi
chính là làm chủ bản thân mình, hơn nữa, qn mình đi, đó là lần đầu tiên tìm được
bản thân mình và làm chủ được bản thân mình”. “Thương người”- đúng theo cách
hiểu của Hegel về tình thương – là ngun tắc xả thân. Cịn “thương mình”, mặt nào
đó, có thể xem là ngun tắc vị kỉ. Quan hệ “thương người – thương mình” nằm
trong mối quan hệ giữa nguyên tắc xả thân và nguyên tắc vị kỉ. Có những việc làm
rõ ràng có lợi cho cá nhân, có những suy tính cá nhân nhưng khơng thể quy là ích kỉ
được. Ngược lại, có những hành động đóng góp lớn cho tập thể nhưng xét về động
cơ thì khơng đơn thuần chỉ có sự xả thân.
Dịng cảm hứng nhân văn thứ hai – khơng phổ biến như cảm hứng nhân văn
“tình thương” và gần gũi hơn với lý tưởng nhân văn cộng sản chủ nghĩa – trực tiếp
đặt yêu cầu phát triển năng lực của con người. Tuy khơng thật nổi đậm, nhưng vẫn
có thể tìm thấy thấp thống cảm hứng này ở Nguyễn Trãi, Nam Cao. Có thể hiểu
được lí tưởng nhân văn của Nguyễn Trãi qua bài thơ số 173 trong thơ chữ Nơm
“Quốc âm thi tập” của ơng
Nên thợ nên thầy vì có học
No ăn no mặc bởi hay làm.
Ở đây tác giả đặt ra những vấn đề và những yêu cầu cơ bản nhất của cuộc sống
làm người: “làm” và “học”, “no ăn no mặc” và “nên thợ nên thầy”. Nói theo cách
diễn đạt của Mác, “no ăn no mặc” đó là “yêu cầu thoả mãn những nhu cầu bức thiết
nhất” và “nên thợ nên thầy” là yêu cầu phát triển các năng lực con người. Trong
dòng văn học hiện thực Việt Nam trước cách mạng, Nam Cao là tác giả có những
cảm hứng gần gũi hơn cả với lý tưởng nhân văn của chủ nghĩa cộng sản. Cảm hứng
nhân văn này được bộc lộ trong những suy nghĩ day dứt của Thứ (trong “sống
mòn”) về cách sống và lẽ sống làm người: “Thứ - tác giả viết – rằng sống chỉ là làm
thế nào cho con mình, vợ mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm cái gì đẹp
hơn nhiều, cao quý hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến
tận độ (HNH nhấn mạnh) những khả năng của loài người chứa đựng ở trong
mình…”. Câu sau cùng giống như một câu được trích dẫn trong ngun tắc của

Mác. Tác giả cịn khẳng định xây dựng nhân cách con người mới là một vấn đề lớn
của chủ nghĩa nhân đạo xã hội chủ nghĩa.
Ở đây chúng tơi thống nhất khái niệm với Hồng Ngọc Hiến, cảm hứng nhân
đạo
Thứ nhất đó là lịng ưu ái, tình thương đối với con người, đặc biệt là những con
người khốn khổ, gặp cảnh hoạn nạn.

Văn Thị Hồng Hoa

10


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

Thứ hai là cảm hứng trân trọng và đề cao phẩm chất tốt đẹp, nhu cầu nâng cao,
phát triển năng lực của con người.

2.

CẢM HỨNG NHÂN ĐẠO TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, lý tưởng nhân đạo
có nhiều biểu hiện khác nhau và phát triển, biến đổi dần cho phù hợp với thời đại.

2.1. Từ văn học dân gian đến văn học giai đoạn 1945
Trong văn học dân gian, nhân đạo thể hiện ở tư tưởng “ở hiền gặp lành”, người
tốt gặp Tiên, Phật, Bụt giúp đỡ như Tấm trong “Tấm Cám”, người em trong “Cây
khế” hay trong “Hà rầm hà rạc”.
Đến giai đoạn văn học trung đại thì nhân đạo chủ yếu là ca ngợi cảnh đẹp q
hương đất nước như

Bát ngát sóng kình mn dặm,
Thướt tha đuôi trĩ một màu.
Nước trời: một sắc, phong cảnh: ba thu.
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu)
Ca ngợi những con người anh hùng với những chiến công vang dội
Đánh một trận, sạch khơng kình ngạc,
Đánh hai trận, tan tác chim muông.
……………
Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật
Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay
(Bạch Đằng giang phú – Trương Hán Siêu)
và phê phán những thế lực xâm lược tàn bạo để khẳng định phẩm chất tốt đẹp của
con người. Rõ hơn có lẽ khơng đâu bằng lời lên án trong “hùng văn thiên cổ” (Bình
ngơ đại cáo)
Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn
Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai hoạ.
Đọc câu văn mà nghe đau xót vơ hạn như chính da thịt của người cầm bút bị
nướng, bị vùi.
Tiêu biểu nhất cho thời kì này là tác gia Nguyễn Trãi. Ông là người đầu tiên
đề xướng một khái niệm nhân đạo mới. Nhân đạo theo ông đúng với cái nghĩa của
nó khơng chỉ là thương người mà cịn tin tưởng, tôn trọng ngợi ca, bảo vệ, phát
huy, phát triển con người chống mọi đều ngược lại. Ông đề cao sức mạnh của dân,
nhận thức họ ở tầm cao hơn, trân trọng, đề cao đúng tầm con người. Chính vì thế
mà Nguyễn Trãi khơng ngại mà cứ nêu, cũng trong bài Cáo, họ là manh lệ bốn
phương, họ là số đông trong nghĩa quân, vô hạn trung thành và anh dũng, ở lại
dưới cờ khi “qn khơng cịn một lữ” tại Chí Linh là họ, diệt địch “sạch khơng
kình ngạc, tan tác chim muôn” là dưới lưỡi gươm họ tại Chi Lăng, Xương Giang
thắng lợi quyết định của cuộc kháng chiến. Nêu mạnh dạn như thế, đánh giá họ cao
như thế cho thấy ông rất quý trọng con người. Và cuối cùng tha cho giặc để khỏi


Văn Thị Hồng Hoa

11


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

đánh nhau là để họ được nghỉ ngơi. Đưa họ trở về đời sống yên lành cũng là nghĩ
tới đời sống con người của họ. Cũng nhìn họ ở tầm cao, nên đối với họ, những con
người có phẩm chất và giá trị lớn đó, ơng chủ trương “ăn lộc” nước, tức cơm áo,
của cải do họ làm ra là phải đền ơn và vua quan đều phải lấy việc chăm lo cho hạng
người đó làm tiêu chuẩn đánh giá đạo đức của mình. Tinh thần nhân đạo ấy của
Nguyễn Trãi, trước chưa có.
Đến giai đoạn sau, tất cả những nội dung ấy mà cơ bản bắt nguồn từ tư tưởng
nhân văn, nhân đạo dân tộc vốn đã tiếp bước được tiếp tục. Biểu hiện của khuynh
hướng tư tưởng nhân văn trong văn học sẽ là sự lên án, tố cáo hiện thực cuộc sống
đương thời chà đạp lên quyền sống con người; đấu tranh đòi cuộc sống ấm no; địi
phát triển cá nhân; giải phóng tình cảm, bản năng; là thái độ ca ngợi những phẩm
chất tốt đẹp của con người; là thái độ đồng tình, xót thương, cảm thơng của các tác
giả đối với các nạn nhân của xã hội. Đặc biệt trong giai đoạn này, đại thi hào
Nguyễn Du đã bằng tấm lòng yêu thương và thông cảm sâu sắc đối với những kiếp
người đau khổ, bất hạnh trong xã hội đã thông qua cuộc đời của nhân vật chính,
Thuý Kiều, trong “Truyện Kiều”, để tố cáo những thế lực tàn bạo của xã hội phong
kiến chà đạp lên quyền sống của con người. Bên cạnh đó, tác giả cịn nói đến
những phụ nữ tài sắc bị vùi dập như người con gái trong bài “Điếu La Thành Ca
Giả”
Phấn son lúc sống không rồi nợ
Trăng gió đời sau tiếng để danh
Hay như nàng Tiểu Thanh trong “Độc Tiểu Thanh Ký”
Son phấn có thần chơn vẫn hận

Văn chương khơng mệnh đốt cịn vương
Đối với những kiếp người khổ đau vì miếng cơm, manh áo nhà thơ có cả một
chùm thơ nói về nỗi đau khổ của quần chúng lao động ở khía cạnh đói cơm rách áo.
Hai bài thơ đặc sắc nhất là “Thái Bình mại ca giả” và “Sở kiến hành”.
Thời kì 30-45, chủ nghĩa nhân đạo thấm nhuần trong các xu hướng văn học ở
cả bộ phận văn học công khai và khơng cơng khai nhưng nó lại có những biểu hiện
khác nhau. Nhìn chung các nhà văn đều hướng tới những con người bình thường,
hướng tới những người lao động, những số phận đau khổ trong xã hội bằng một
tấm lòng cảm thông, một trái tim nhân hậu. Nhưng nếu các nhà văn lãng mạn, đặc
biệt là các tác giả của nhóm Tự lực văn đồn quan tâm đến việc lên án lễ giáo
phong kiến hủ bại, đấu tranh của tình yêu tự do, cho hạnh phúc cá nhân của con
người qua cuộc đời nhân vật Mai trong “Nửa chừng xuân”, An trong “Gia đình”
của Khái Hưng hay Loan trong “Đoạn tuyệt” của Nhất Linh… Thì các nhà văn
hiện thực lại đi sâu vào nỗi khổ cùng cực của con người, đặc biệt là người nông
dân, dân nghèo thành thị, người trí thức nghèo…, phát hiện và tỏ ra yêu thương,
quý trọng những phẩm chất tốt đẹp của họ, đồng thời thể hiện nỗi xót xa, đau đớn
trước tình trạng những kiếp người ấy phải sống mịn mỏi, vơ nghĩa, quẩn quanh, bế

Văn Thị Hồng Hoa

12


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

tắc trong một xã hội đói nghèo, tối tăm như Thứ trong “Sống mòn”, Hộ trong “Đời
thừa” (Nam Cao) mang bi kịch tinh thần của người trí thức bị “nợ áo cơm ghì sát
đất”.
Có thể nói, đến Nam Cao thì khái niệm nhân đạo đạt được sự hồn chỉnh nhất.
Trước hết, ơng quan niệm văn chương có một sứ mệnh hết sức quan trọng, nó vừa

đề cập đến những nỗi đau của con người bằng niềm thơng cảm, u thương đồng
thời nó cũng góp phần thêm sức mạnh nó giúp con người có thể vươn tới một cuộc
sống tốt đẹp hơn, một cuộc sống đầy lòng nhân ái, cơng bình “Chao ơi! Nghệ thuật
khơng cần là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối; nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than”. Đọc Nam Cao người đọc
nhận ra biết bao thảm cảnh đau thương của người nơng dân với những cảnh đời cơ
cực, xót xa. Mỗi nhân vật của Nam Cao là một cảnh ngộ riêng. Hầu như những gia
đình nơng dân khơng mấy khi được tồn vẹn. Cuộc sống đói nghèo và nạn cường
hào địa chủ đã bắt vợ chồng, anh em, cha con… phải ly tán, người thì đi phu,
người đăng lính, người lên rừng kiếm ăn, kẻ tha phương cầu thực, kẻ tìm lấy cái
chết… (Lang Rận, Chí Phèo, tư cách mõ…). Nam Cao cũng viết về cái nghèo, về
cái đói và cái miếng ăn của người nông dân (Một bữa no, Mị sâm banh…). Hầu
như chưa có nhà văn nào đi vào vấn đề số phận con người sâu sắc và đầy day dứt
như Nam Cao. Những điều đó thể hiện rõ nhất qua tác phẩm “Chí Phèo”. Nam Cao
đã miêu tả với một sức mạnh lạ lùng, bằng một ngòi bút hiện thực nghiêm nhặt q
trình lưu manh hố của một bộ phận người nơng dân trong tình cảnh bị đè nén, áp
bức bóc lột đến cùng cực. Nhà văn bị ám ảnh bởi một hồn cảnh khắc nghiệt, bất
cơng, vơ lý, những con người bị biến chất, tha hố, bị cuộc đời tàn phá từ nhân
hình đến nhân tính như Binh Tư, Chí Phèo… Nam Cao đã tạo ra một mẫu hình mới
về người nơng dân bị biến chất, bị tha hoá do bị xã hội thực dân phong kiến xơ đẩy
đến bước đường cùng. Cuộc đời Chí Phèo là một con số khơng to tướng. Chỉ có
điều dù sống trong tình trạng cơ độc nhưng hắn đã khơng ý thức được điều đó, hắn
càng khơng nghĩ rằng cái xã hội lạnh lùng kia đã cự tuyệt hắn. Thêm vào đó một
thế lực vơ hình ln muốn thủ tiêu cái khát vọng chân chính của con người, đó là
những định kiến của xã hội. Đó chính là điều làm nhà văn day dứt khôn nguôi.

2.2. Văn học giai đoạn 1945-1975
Sau 1945, tinh thần nhân đạo được thể hiện trong khát vọng giải phóng con
người, trong lịng nhân ái và tình nghĩa thuỷ chung. Chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học giai đoạn này hướng về người lao động, phát huy tình cảm giai cấp và những

phẩm chất tốt đẹp của quần chúng nhân dân, khẳng định con đường giải phóng và sự
trưởng thành của quần chúng trong cách mạng.
Tình cảm gắn bó sâu sắc, máu thịt, niềm tự hào của con người Việt Nam với
Đảng, với Bác Hồ vĩ đại được các nhà thơ khẳng định, ngợi ca trong nhiều bài thơ
như “Tổ quốc bao giờ đẹp như thế này chăng?”, “Sao chiến thắng” của Chế Lan
Viên, “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm, “Việt Nam máu và hoa” của
Tố Hữu, “Quê Hương” của Giang Nam, “Vàm Cỏ Đông” của Hồi Vũ… Đó là sự

Văn Thị Hồng Hoa

13


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

khám phá về hình tượng tổ quốc cũng có nghĩa là khám phá dân tộc Việt Nam, con
người Việt Nam với những phẩm chất cao đẹp và bền vững.
Văn học Việt Nam giai đoạn này hầu như đều viết về đời sống chiến trường,
phản ánh được tính chất ác liệt, dữ dội, những hi sinh gian khổ của con người Việt
Nam trong chiến tranh. Họ đã phải sống trong những cảnh
Khơng có kính khơng phải vì khơng có kính
Bom giật, bom rung, kính vỡ mất rồi
(Bài ca về tiểu đội xe khơng kính – Phạm Tiến Duật)
Tơi với anh biết từng cơn nóng lạnh
Rét run người vầng trán đẫm mồ hôi
……………..
Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá, chân khơng giầy
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay
(Đồng chí – Chính Hữu)

Cố gắng ngợi ca vẻ đẹp của quê hương đất nước và vẻ đẹp con người Việt Nam
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mơng biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cị bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều
Quê hương biết mấy thân yêu
Bao nhiêu đời đã chịu nhiều đắng cay
Mặt người vất vả in sâu
Gái trai cũng một áo nâu nhuộm bùn”
(Quê hương Việt Nam – Nguyễn Đình Thi)
“Hoan hơ anh giải phóng qn
Kính chào anh con người đẹp nhất
Lịch sử hôn anh chàng trai chân đất
Sống hiên ngang bất khuất ở trên đời
Như Thạch Sanh của thế kỉ hai mươi”
(Hoan hơ Giải phóng qn - Tố Hữu)

Văn Thị Hồng Hoa

14


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

Làm sống lại hình ảnh của cuộc kháng chiến trường kì anh dũng của tồn dân ở
nhiều địa phương trên nhiều mặt trận, trong nhiều hoàn cảnh khó khăn, những thử
thách nghiệt ngã
Cha ơng xưa có bao giờ bố trí các binh đồn
Trên vạn đỉnh Trường Sơn, dọc bờ Đơng Hải
Trên Tổ quốc vang ngồi bờ cõi,

Ta đội triệu tấn bom mà hái mặt trời hồng
Ta mọc dậy trước mắt nhìn nhân loại
Hai tiếng Việt Nam đồng nghĩa với anh hùng
(Thời sự hè 72, bình luận – Chế Lan Viên)
Cả những chiến công to lớn và cả sự hi sinh nhiều khi thầm lặng.
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
(Dáng đứng Việt Nam – Lê Anh Xuân)
Chuyện kể rằng em cô gái mở đường
Để cứu con đường đêm ấy khỏi bị thương
Cho đồn xe kịp giờ ra trận
Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa
Đánh lạc hướng thù hứng lấy làn bom”
(Khoảng trời, hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ)
Hướng về đời sống hiện tại, phản ánh những đổi thay của đất nước và con
người trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới, với những cuộc xung đột và cuộc
đấu tranh để xây dựng chủ nghĩa xã hội và thống nhất đất nước là đề tài thu hút
nhiều cây bút văn xuôi. Ở mảng đề tài này ta thấy Nguyễn Khải có cả tập truyện
ngắn “Mùa lạc” hay “Tầm nhìn xa”….

2.3. Giai đoạn sau 1975
Sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên cơ sở tinh thần nhân bản là nền tảng tư tưởng
và cảm hứng chủ đạo bao trùm của nền văn học từ sau 1975. Từ sau 1975, cuộc
sống dần trở lại với những quy luật bình thường của nó, con người trở về với muôn
mặt đời thường, phải đối mặt với bao nhiêu vấn đề trong một giai đoạn có nhiều
biến động, đổi thay của xã hội. Bối cảnh đó đã thúc đẩy sự thức tỉnh ý thức cá nhân,

Văn Thị Hồng Hoa


15


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

đòi hỏi sự quan tâm đến mỗi người và từng số phận. Văn học ngày càng đi tới một
quan niệm toàn vẹn và sâu sắc hơn về con người mà nền tảng triết học và hạt phân
cơ bản của quan niệm ấy là tư tưởng nhân bản. Văn xi có nhiều đổi mới về nghệ
thuật tự sự, từ sự thay đổi điểm nhìn trần thuật đến xây dựng nhân vật, độc thoại nội
tâm và dòng ý thức, tính đa thanh và đa giọng điệu… Và những năm đầu của thời kì
đổi mới đã phát triển sơi nổi một khuynh hướng trong văn xi, có thể gọi là
khuynh hướng nhận thức lại. Để đáp ứng yêu cầu nhìn thẳng sự thật, nhiều cây bút
đã nhìn lại hiện thực của thời kì vừa qua. Vì vậy, bên cạnh ca ngợi nhân cách, lẽ
sống, niềm tin, khát vọng của con người, các tác giả còn mạnh dạn vạch trần những
hiện tượng tha hoá về đạo đức và suy thoái về nhân cách trong đời sống chiến đấu,
cũng như những phơi bày những mặt trái còn bị che khuất, những hiện tượng tiêu
cực, những mặt lạc hậu, trì trệ trong cuộc sống, lên án những lực lượng, những tư
tưởng của thói quen đã lỗi thời, trở thành vật cản trên bước đường phát triển của xã
hội. Chiến tranh cũng được nhận thức lại từ sự tác động ghê gớm của nó đến tính
cách và số phận con người, với bao nhiêu nỗi éo le, bi kịch, xót xa với nỗi buồn dai
dẳng. Nếu khơng có tiểu thuyết “Nỗi buồn chiến tranh” của Bảo Ninh làm sao ta có
thể hình dung được mặt trái của chiến tranh khắc nghiệt đến thế. Khơng ai có thể
ngờ, trong lúc bom rơi đạn lạc, cái sống cái chết cách nhau trong gang tấc vậy mà vì
bản năng họ có thể chà đạp lên một con người. Phương khơng chết vì chiến tranh lại
chết đi một nửa linh hồn trong nỗi đau khổ vì những kẻ lợi dụng chiến tranh làm
những hành động phi nhân tính. Chiến tranh qua đi, nhưng hậu quả để lại quá nặng
nề, mà dường như người phụ nữ là người chịu vết thương lớn nhất, đau đớn nhất.
Trong xu hướng dân chủ hố của xã hội, văn học cịn là một phương
tiện cần thiết để tự thể hiện, bao gồm cả việc phát biểu tư tưởng, quan niệm, chính

kiến của mọi nghệ sĩ về xã hội và con người. Hiện thực không chỉ là hiện thực cách
mạng, các biến cố lịch sử và đời sống cộng đồng mà nó cịn là hiện thực của đời
sống hằng ngày đối với các quan hệ thế sự vốn dĩ đa đoan đa sự, phức tạp chằng
chịt, đan dệt nên những mạch nổi, mạch ngầm của đời sống. Nó cịn là đời sống cá
nhân của mỗi con người với những vấn đề riêng tư, số phận, nhân cách, với khát
vọng mọi mặt, cả hạnh phúc, cả bi kịch. Tiểu thuyết “Thời xa vắng” của Lê Lựu đã
phản ánh một hiện thực cuộc sống phức tạp bởi sự chi phối của hủ tục lạc hậu, “nạn
tảo hơn”, nó đã khiến cho Giang Minh Sài trở thành con người sống phân thân thành
hai con người: một con người vui vẻ chấp nhận cuộc sống hiện tại vào ban ngày và
một con người đau đớn về tinh thần khi đêm về. Mà điều đáng nói ở đây là hai con
người ấy hình thành từ lúc Sài mới mười bốn tuổi. Mặc dù Sài thành công trên con
đường chính trị, nhưng anh khơng được miêu tả như một con người anh hùng mà là
một con người đau khổ vì chưa thốt khỏi sự trói buộc của ý thức hệ tư tưởng gia
trưởng, một ý thức hệ lâu nay bàng bạc trong đời sống tinh thần của xã hội nhưng
chưa được nhận dạng, một hệ tư tưởng hết sức phức tạp, có lúc nghiệt ngã đến tàn
bạo. Đến nay, với yêu cầu đổi mới của đất nước, Lê Lựu đã vạch trần mặt tiêu cực
của ý thức hệ này và thăng thắn đả kích thơng qua sự thất bại trong đời sống tinh
thần của Sài, Sài đã thất bại trong đời sống riêng, phải chấp nhận sống cô đơn với
Văn Thị Hồng Hoa

16


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

tình yêu của mình. Cuộc sống đầy bi kịch tinh thần, khơng có hạnh phúc của Sài là
hồi chng báo động tình trạng xuống cấp và khơng cịn phù hợp với thời kì đổi mới
này.
Gắn liền với sự thức tỉnh ý thức cá nhân là cảm hứng khám phá, nghiền ngẫm
hiện thực và cố bày tỏ tư tưởng riêng trong việc đổi mới tư duy của nhà văn trong

sáng tạo nghệ thuật. Bởi thế trong văn học xuất hiện nhiều đề tài, chủ đề mới với sự
nhìn nhận, khám phá con người ở nhiều vị thế, nhiều bình diện và tầng bậc khác
nhau trên nền tảng của tư tưởng chủ nghĩa nhân bản như một loạt tác phẩm “Nỗi
buồn chiến tranh” của Bảo Ninh, “Mảnh đất lắm người nhiều ma” của Nguyễn Khắc
Trường, “Bến không chồng” của Dương Hướng…”. Ta thấy, qua những nhân vật
trong “Bến không chồng” của Dương Hướng, là những con người luôn sống trong
sự phản tỉnh. Đó là Nguyễn Vạn với lần lầm lạc ở gần cuối cuộc đời, là Hạnh phút
giây sa ngã vì khát khao cuộc sống hạnh phúc, là Thuỷ vì thương chồng chấp nhận
qua đêm với người đàn ông khác để có con, Nghĩa và Hạnh phải chấp nhận xa nhau
vì lời nguyền của hai dịng họ,…từng con người lầm lạc trong chính suy nghĩ của họ
chỉ vì một điều duy nhất, họ muốn được sống hạnh phúc. Nhưng trải qua cuộc sống
gian khổ đấu tranh vì độc lập tự do, họ là người chịu hậu quả trực tiếp vì chiến
tranh. Những Nghĩa, những Thuỷ đã bị chiến tranh cướp đi khả năng làm cha làm
mẹ của họ, đó là điều nghiệt ngã nhất. Những Nhân, mẹ Hạnh, những mụ Hớn,
những Thắm, những Cúc, những Dâu…đều khao khát cuộc sống gia đình, vậy mà
chiến tranh đã cướp đi người chồng, người yêu của họ, để giờ đây bến này là “bến
khơng chồng”. Nhất là hình ảnh cuối tác phẩm, đám tang Nguyễn Vạn, chị Nhân đã
phải xót xa vì chị đã bốn lần đưa tang thì đã ba lần đưa những chiếc quan tài trống,
khơng người, chỉ có duy nhất lần này là có người. Dù ba người trước là những người
thân yêu nhất là chồng và hai con mình.
Chiến tranh khắc nghiệt thế đấy, nhưng trước đây, ta tồn thấy những thắng lợi,
chiến cơng, cịn những bức tranh hiện thực với nhiều mảng tối trước đây thường bị
khuất lấp, thì nay mới hiện ra với bao điều xót xa và cả sự nhức nhói mà các tác giả
muốn thức tỉnh trong mỗi người đọc cũng như toàn xã hội. Đây cũng là một trong
những nguyên nhân tạo nên sự đa dạng về kiểu, loại nhân vật, mà đáng lưu tâm là sự
xuất hiện kiểu nhân vật tự thú, tự vấn như người họa sĩ trong “Bức tranh” của
Nguyễn Minh Châu. Kiểu nhân vật này đòi hỏi nhà văn phải đi sâu khám phá chiều
sâu tâm lý, khai thác dòng độc thoại nội tâm của nhân vật, đòi hỏi nhà văn phải đổi
mới quan niệm về con người, phải chiêm nghiệm sâu sắc hơn từ tình yêu cuộc sống
và tình thương, sự cảm thơng đối với con người và nhất là phải làm gì để giúp họ

vượt qua những khó khăn, thử thách trong cuộc đời. Có thể nói người đi tiên phong
trong cơng cuộc đổi mới văn học, người “mở đường tinh anh và tài năng” đã đi
được xa nhất ở chặng đầu này là Nguyễn Minh Châu với những truyện ngắn hướng
vào các vấn đề thế sự - đạo đức trong đời sống hằng ngày của con người (Bức tranh,
Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Mùa trái cóc ở miền Nam, Cỏ lau, Cơn
giơng…). Nguyễn Minh Châu với trách nhiệm phản ánh sự thật ở đời đã tìm hiểu

Văn Thị Hồng Hoa

17


Cảm hứng nhân đạo trong một số sáng tác của Nguyễn Minh Châu sau 1975

mặt trái của chiến tranh. Nhìn lại đằng sau những chiến cơng, những thành tích của
những anh hùng trong kháng chiến để nhận ra những giây phút yếu lòng dẫn đến sự
sai lầm của những người lính một thời anh hùng. Song song đó, ơng cũng lên án,
vạch trần những hành động giả trá, phi nhân tính của những con người khơng đủ
kiên định để vượt qua cám dỗ vật chất tầm thường đã đánh mất tính lương thiện
trong mình. Nhưng điều đó khơng có nghĩa là ông phủ định mà nhằm khẳng định
phẩm chất của họ, nhằm chỉ ra họ cũng là những con người bình thường và những
chiến cơng của họ là những chiến cơng của người bình thường chứ khơng là của
“thánh nhân”. Và vì thế trên những trang viết càng nâng cao giá trị của họ, cho thấy
họ đã vượt lên những cái bình thường của con người để đấu tranh giành độc lập và
thấy họ càng cao cả hơn. Họ trở thành thánh nhân trong chính hành động của họ.

Văn Thị Hồng Hoa

18



×