Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Câu hỏi ôn tập triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (164.83 KB, 15 trang )

CH 18G – Đại học Kinh tế Quốc dân
Câu 1. Phân tích mâu thuẫn giữa hệ thống triết học và
phương pháp trong triết học của Hêghen.
HÊGHEN là một trong ba triết gia tiêu biểu nhất của triết học
cổ điển Đức - một giai đoạn lịch sử tương đối ngắn từ thế kỉ XVIII
đến nửa đầu thế kỉ XIX nhưng đã tạo ra những thành quả kỳ diệu
trong lịch sử triết học; sự mâu thuẫn trong triết học của ông giữa
một bên là phương pháp biện chứng khoa học và một bên là hệ
thống triết học duy tâm đã trở thành một trong những nguồn gốc lí
luận của tiết học mácxít.
HÊGHEN là nhà duy tâm khách quan, quan điểm triết học của
ông là hệ thống duy tâm cổ điển cuối cùng, đạt đến trình độ và sự
phát triển nhất của phép biện chứng duy tâm. Ông coi tinh thần
thế giới là cái có trước, khởi nguyên của thế giới không phải là vật
chất mà là “ý niệm tuyết đối” hay “tinh thần thế giới”; vật chất với
tư cách là sự thể hiện, sự biểu hiện cụ thể của “tinh thần thế giới”,
là cái có sau; tính phong phú, đa dạng của thế giới hiện thực là kết
quả của sự vận động và sáng tạo của ý niệm tuyệt đối.
Tinh thần thế giới hay ý niệm tuyệt đối là nguồn gốc, là động
lực của mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội, trong quá trình tự phát
triển của nó diễn ra qua các giai đoạn khác nhau và ngày càng thể
hiện đầy đủ nội dung bên trong của nó, như vậy đây là sự phát
triển biện chứng nhưng không phải là sự phát triển tự thân mà là
sự phát triển dựa vào ý niệm tuyệt đối.
HÊGHEN là nhà biện chứng, ông có công hoàn thiện và phát
triển một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của
phép biện chứng – đây là điều mà phép biện chứng thời cổ đại Hy
Lạp đã chưa thể đạt tới và cả chủ nghĩa duy vật thế kỉ XVII – XVIII
Tây Âu cũng không có khả năng tạo ra. Ông phê phán tư duy siêu
hình, máy móc và người đầu tiên trình bày toàn bộ giới tự nhiên,
lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận


1
CH 18G – Đại học Kinh tế Quốc dân
động, biến đổi và phát triển không ngừng nghĩa là trong mối liên
hệ biện chứng. Trong khuôn khổ hệ thống triết học duy tâm của
mình, HÊGHEN không chỉ trình bày các phạm trù chất, lượng, phủ
định, mâu thuẫn… mà còn đề cập đến vấn đề “lượng đổi dẫn đến
chất đổi và ngược lại; phủ định của phủ định; quy luật mâu
thuẫn…”.
Tuy nhiên, tất cả những phạm trù trên lại là quy luật vận
động và phát triển của bản thân tư duy, của ý niệm tuyệt đối.
Trong quan niệm của HÊGHEN, không phải ý thức, tư tưởng phát
triển trong sự phụ thuộc vào sự phát triển của tự nhiên, xã hội mà
là ngược lại, ý niệm tuyệt đối là tính thứ nhất, giới tự nhiên là tính
thứ hai, do tinh thần thế giới sinh ra và quyết định. Sự phát triển
đó trong điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, trước hết là sự phát
triển trong bản thân nó, sau đó nó thể hiện dưới hình thức thông
qua giới tự nhiên, xã hội. Một sự “tồn tại khác” của tinh thần sau
khi trải qua giai đoạn “tồn tại khác” đó, ý niệm tuyệt đối hay tinh
thần thế giới mới trở lại “bản thân mình” và đó là giai đoạn cao
nhất, giai đoạn tột cùng, được HÊGHEN gọi là tinh thần tuyệt đối.
Có thể nói cái mới trong hệ thống triết học của ông là phương
pháp biện chứng duy tâm; ông xem xét tinh thần thế giới, ý niệm
tuyệt đối là một quá trình phát triển không ngừng, phương pháp
biện chứng về ý niệm tuyệt đối là cơ sở đầu tiên và là nguồn gốc
của mọi tồn tại.
Tuy nhiên, nếu phương pháp biện chứng của ông là hạt nhân
hợp lí, chứa đựng tư tưởng thiên tài về sự phát triển thì hệ thống
triết học duy tâm của ông lại phủ nhận tính chất khác quan của
những nguyên nhân nội tại, vốn có của sự phát triển tự nhiên và xã
hội; như vậy biện chứng ở đây mới chỉ dừng lại ở hình thức biện

chứng duy tâm, biện chứng bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh
thần, giới hiện thực chỉ là sự sao chép ý niệm tuyệt đối, tinh thần
2
CH 18G – Đại học Kinh tế Quốc dân
thế giới. Đó chính là sự mâu thuẫn giữa phép biện chứng và hệ
thống triết học duy tâm của HÊGHEN, đây cũng là tiền đề để triết
học Mác khắc phục, kế thừa và nâng lên trình độ mới của phép
biện chứng duy vật hiện đại.
Câu 2: Trình bày nội dung, cơ sở lí luận của nguyên tắc toàn
diện và vai trò của nguyên tắc đó trong hoạt động nhận
thức / thực tiễn. Ví dụ phân tích.
Nguyên lí về mối liên hệ phổ biến là cơ sở lí luận cuả nguyên
tắc toàn diện. Trong lịch sử triết học, để trả lời cho những nghi vấn
về sự tồn tại của mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng và nếu có
thì nhân tố nào quy định sự liên hệ giữa chúng đã có những quan
điểm khác nhau.
Quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật, hiện tượng tồn tại
một cách biệt lập, tách rời nhau, cái này tồn tại bên cạnh cái kia.
Giữa chúng không có sự phụ thuộc, ràng buộc và quy định lẫn
nhau. Có chăng thì chỉ là những liên hệ bề ngoài, mang tính ngẫu
nhiên.
Chủ nghĩa Duy tâm thì lại thừa nhận có mối liên hệ phổ biến,
nhưng họ lại cho rằng cái quy định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên như
thần linh, thượng đế, là cảm giác hay là ý niệm tuyệt đối, tinh thần
thế giới.
Trái lại, chủ nghĩa Duy vật biện chứng cho rằng, thế giới là
một chỉnh thể thống nhất, các sự vật hiện tượng và các quá trình
cấu thành vừa tồn tại độc lập, tách biệt nhau nhưng vùa lại có sự
liên hệ, quy định, tác động qua lại, thâm nhập và chuyển hóa lẫn

nhau, không có sự vật hiện tượng nào tồn tại biệt lập ngoài mối
liên hệ với sự vật, hiện tượng khác. Chủ nghĩa Duy vật biện chứng
khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở cho mối
3
CH 18G – Đại học Kinh tế Quốc dân
liên hệ giữa các sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó, Chủ nghĩa Duy
vật biện chứng khẳng định, mối liên hệ là phạm trù triết học dùng
để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn nhau
giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa nhiều các yếu tố, các mặt hay
quá trình khác của một sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới chỉ biểu hiện sự tồn tại
của mình thông qua sự vận động, sự tác động qua lại lẫn nahu.
Bản chất, tính quy luật của sự vât, hiện tượng cũng chỉ được bộc lộ
thông qua sự tác động qua lại giữa các mặt của bản thân chúng và
sự tác động của chúng với các sự vật, hiện tượng khác.
Quan điểm của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng về mối liên hệ
phổ biến là quan điểm duy vật, nó coi mọi mối liên hệ của các sự
vật hiện tượng là khách quan, vốn có của mọi sự vật, hiện tượng,
không do ai sắp đặt, sáng tạo ra.
Mối liên hệ còn mang tính phổ biến, thể hiện thứ nhất là bất
cứ sự vật, hiện tượng nào trong cả thế giới tự nhiên và xã hội cũng
tồn tại trong mối liên hệ với các sự vật, hiện tượng khác. Không có
sự vật hiện tượng nằm ngoài mối liên hệ, ví dụ như xu hướng toàn
cầu hóa, khu vực hóa trong mọi hoạt động đời sống xã hội. Mặt
biểu hiện thứ hai đó là mối liên hệ biểu hiện dưới những hình thức
riêng biệt, cụ thể tùy theo điều kiện nhất định. Song, dù dưới hình
thức nào thì cũng chỉ là biểu hiện của mối liên hệ phổ biến nhất,
chung nhất.
Mối liên hệ còn mang tính đa dạng, mỗi lĩnh vực khác nhau
của thế giới và biểu hiện những mối liên hệ khác nhau, rất phong

phú và nhiều vẻ. Mỗi loại mối liên hệ khác nhau có vai trò khác
nhau đối với sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng. có
thể phân chia theo từng cặp như mối liên hệ bên ngoài và mối liên
hệ bên trong; mối liên hệ chủ yếu và thứ yếu; mối liên hệ gián tiếp
và liên hệ trực tiếp. Sự phân chia trên chỉ mang tính tương đối vì
4
CH 18G – Đại học Kinh tế Quốc dân
mỗi cặp mối liên hệ chỉ là một hình thức, một mắt xích, một bộ
phận của mối liên hệ phổ biến; chúng có thể chuyển hóa lẫn nhau
tùy vào phạm vi bao quát của mối liên hệ hoặc do kết quả vận
động và phát triển của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên sự phân chia
này lại rất cần thiết vì qua đó sẽ xác định được vị trí và vai trò
trong sự vận động và phát triển của sự vật.
Từ việc nghiên cứu nguyên lí về mối liên hệ phổ biến của sự
vật hiện tượng, triết học Mác – Lênin đã rút ra quan điểm toàn diện
trong nhận thức; khi nhận thức về sự vật, hiện tượng chúng ta phải
có quan điểm toàn diện, tránh quan điểm phiến diện chỉ xét sự
vật, hiện tượng ở một mối liên hệ mà đã vội vàng đưa ra kết luận
về bản chất hay tính quy luật của chúng.
Các sự vật hiện tượng trong thế giới luôn luôn liên hệ với các
sự vật, hiện tượng khác, do vậy trong nhận thức cũng như trong
hoạt động thực tiễn phải xem xét sự vật trong mối liên hệ hữu cơ
giữa các bộ phận, các yếu tố, các thuộc tính của sự vật, hiện tượng
đó, trong mối liên hệ qua lại với các sự vật khác kể cả trực tiếp lẫn
gián tiếp, phải tính đến mọi mối liên hệ, nghĩa là phải đứng trên
quan điểm toàn diện, chỉ trên cơ sở đó mới có thể nhận thức đúng
về sự vật.
Bên cạnh đó, các sự vật, hiện tượng còn có rất nhiều mối liên
hệ, các mối liên hệ có vai trò, vị trí khác nhau trong sự vận động,
phát triển của sự vật. Do vậy, khi nghiên cứu sự vận động, phát

triển của sự vật cần dựa vào thực tiễn cụ thể để tiến hành phân
loại các mối liên hệ để thấy rõ nội dung, vai trò, vị trí của từng mối
liên hệ và từ đó có cách tác động phù hợp nhằm đưa lại hiệu quả
cao nhất trong hoạt động của cong người, đồng thời tránh được
những quan điểm “cào bằng” coi vị trí các mối liên hệ là như nhau.
Điều này có nghĩa nguyên tắc toàn diện không đồng nghĩa với việc
5
CH 18G – Đại học Kinh tế Quốc dân
xem xét dàn trải, liệt kê các mối liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng
mà đòi hỏi cần làm sáng tỏ cái cơ bản, cái quan trọng nhất.
Ví d ụ phân tích : Vấn đề thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài tại Việt Nam trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) đóng vai trò rất quan trọng vào sự tăng trưởng,
phát triển chung của nền kinh tế các nước đang phát triển, cụ thể
là Việt Nam những năm vừa qua. Nguồn vốn này là đã trở thành
nguồn lực bù đắp sự thiếu hụt tiết kiệm, ngoại tệ, thu nhập và
quản lí đối với các nước tiếp nhận. Đối với Việt Nam, chúng ta đang
thực hiện quá trình CNH, HĐH đất nước, chúng ta chủ trương xây
dựng và phát triển nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần
kinh tế nhằm huy động tối đa những nguồn lực bên trong và bên
ngoài để phục vụ cho công cuộc đổi mới đất nước.
Tác động tích cực và thành quả đã đạt được:
Tính đến cuối năm 2007, cả nước có hơn 9.500 dự án đầu tư
nước ngoài (ĐTNN), vốn ĐTNN đã không ngừng tăng về cả số lượng
mà ngày càng xuất hiện nhiều dự án có quy mô lớn đầu tư vào các
lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Khu vực kinh tế có vốn ĐTNN là khu
vực có tốc độ phát triển năng động nhất, đóng góp của ĐTNN
trong tổng vốn đầu tư xã hội giai đoạn 2001 -2007 chiếm khoảng
16%. Tốc độ tăng trưởng của khối công nghiệp có ĐTNN tăng

trưởng bình quân 42,5% cao hơn mức tăng trưởng chung của cả
nước, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng CNH, HĐH.
ĐTNN đã tạo ra nhiều ngành công nghiệp mới và tăng cường
năng lực của nhiều ngành công nghiệp như dầu khí, công nghệ
thông tin, hóa chất, ô tô…. Bên cạnh đó, ĐTNN đã góp phần hình
6

×