CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THANH TOÁN QUỐC TẾ VÀ PHƯƠNG THỨC TÍN
DỤNG CHỨNG TỪ.
1.1. SỰ CẦN THIẾT VÀ VAI TRÒ THANH TOÁN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG
XUẤT NHẬP KHẨU.
1.1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG XUẤT NHẬP KHẨU ĐẾN QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
KINH TẾ.
Trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế sâu sắc như hiện nay không thể có
một quốc gia nào tồn tại và phát triển đóng cửa tự cấp, tự túc, không giao lưu kinh
tế với nước ngoài.
Đối với nước ta, để có thể thực hiện mục tiêu, nhanh chóng đưa đất nước ra
khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế xã hội vượt qua tình trạng nước nghèo
và kém phát triển, việc mở rộng và đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại trên
quan điểm “mở cửa” là một yếu tố khách quan và là một yêu cầu cấp bách. “Mở
cửa” nền kinh tế ra thế giới bên ngoài nhằm khắc phục tính chất tự cấp, tự túc của
nền kinh tế, mở rộng giao lưu kinh tế và khoa học kỹ thuật với nước ngoài, gắn thị
trường trong nước với thị trường thế giới, từng bước hoà nhập nền kinh tế quốc gia
với nền kinh tế thế giới là biện pháp không thể thiếu được thực hiện các mục tiêu
đã đề ra trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội.
Đa dạng hoá trong kinh tế đối ngoại là quá trình hình thành và phát triển nhiều
hình thức quan hệ khác nhau giữa các nước mà nổi bật hơn cả đó là quan hệ xuất
nhập khẩu hàng hóa.
Trong hoạt động ngoại thương, xuất khẩu và nhập khẩu luôn đi liền với nhau,
hỗ trợ nhau cùng phát triển. Nếu ta coi ngoại thương là một tổng thể thì xuất nhập
khẩu chính là nhân tố cốt lõi của tổng thể đó. Xuất khẩu được thừa nhận là hoạt
động cơ bản, đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế, thể hiện ở
việc tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển, giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống
nhân dân và là cơ sở để mở rộng, thúc đẩy các mối quan hệ kinh tế đối ngoại khác.
Hoạt động xuất khẩu đưa Việt Nam hội nhập nhanh vào xu thế phát triển ngoại
thương nói riêng và kinh tế nói chung trong khu vực và trên thế giới. Tăng cường
hợp tác kinh tế giữa các nước, nâng cao địa vị và vai trò của Việt Nam trên thị
trường quốc tế, thiết lập mối quan hệ buôn bán, đầu tư giữa Việt Nam và các nước.
Thông qua xuất khẩu chúng ta đã thanh toán dần các khoản nợ nước ngoài và được
xét cho vay thêm các món nợ mới tạo nguồn cho đầu tư phát triển.
Đối với Việt Nam chúng ta, nhu cầu nhập khẩu là rất lớn nhằm phục vụ cho
công cuộc xây dựng và đầu tư, vì trong nước chưa sản xuất được mà nhu cầu lại rất
lớn. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp quyết định đến sản xuất và đời sống
trong nước, nhập khẩu để bổ sung các hàng hoá mà trong nước không sản xuất
được, hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu. Nhập khẩu còn là để thay thế,
nghĩa là nhập khẩu về những mặt hàng mà sản xuất trong nước không có lợi bằng
nhập khẩu. Hai mặt nhập khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện
tốt sẽ tác động tích cực đến sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân, trong đó,
cân đối trực tiếp ba yếu tố của sản xuất : công cụ lao động, đối tượng lao động và
lao động đóng vai trò quan trọng nhất. Cũng như xuất khẩu, nhập khẩu có vai trò
trực tiếp trong việc đổi mới trang thiết bị, máy móc, kỹ thuật, công nghệ khi nhập
chúng, đồng thời gián tiếp tạo ra cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại thúc đẩy
sự vươn lên của sản xuất trong nước , tăng năng xuất lao động, nâng cao chất
lượng sản phẩm. Qua đó chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền
kinh tế. Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân, thể
hiện ở việc vừa thoả mãn nhu cầu trực tiếp của nhân dân về hàng tiêu dùng vừa
đảm bảo đầu vào cho sản xuất, tạo việc làm ổn định cho người lao động.
Thông qua hoạt động xuất nhập khẩu, một nước có thể tham gia vào nền
thương mại quốc tế. Vì hoạt động này phần nào giải quyết được mâu thuẫn giữa
quy mô sản xuất với ranh giới có hạn của thị trường nội địa, giữa tốc độ phát triển
của khoa học kỹ thuật với khả năng có hạn về sức lao động có trình độ, tài chính
vật tư... được sử dụng nghiên cứu và ứng dụng vào sản xuất của mỗi nước. Hay nói
cách khác xuất nhập khẩu góp phần mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước,
cho phép nước đó tiêu dùng tất cả các mặt hàng với số lượng nhiều hơn mức có
thể tiêu dùng với ranh giới của khả năng sản xuất trong nước nếu thực hiện chế độ
tự cung, tự cấp không buôn bán.
Trong hoàn cảnh hiện nay khi công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đang
là mục tiêu quan trọng thì xuất nhập khẩu càng khẳng định được vai trò to lớn của
mình đến nền kinh tế đất nước nói chung và đời sống của mỗi người dân nói riêng.
1.1.2. VAI TRÒ CỦA THANH TOÁN QUỐC TẾ ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG NGOẠI THƯƠNG.
Hoạt động kinh tế quốc tế nói chung, hoạt động ngoại thương nói riêng ngày
càng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển nền kinh tế đất nước. Chỉ thông
qua hoạt động kinh tế quốc tế, chúng ta mới có thể phát huy được tiềm năng thế
mạnh của đất nước, đồng thời tận dụng được vốn và công nghệ hiện đại của các
nước công nghiệp phát triển, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
rút ngắn khoảng cách tụt hậu và đưa nền kinh tế nước ta hoà nhập với nền kinh tế
các nước trong khu vực và trên thế giới. Kinh tế quốc tế mở rộng dẫn đến sự phát
triển của thanh toán quốc tế vừa về chất, vừa về lượng là một yếu tố khách quan để
đáp ứng nhu cầu thương mại quốc tế nhanh như thanh toán xuất nhập khẩu, các
giao dịch trên thị trường vốn quốc tế ...
Thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ chi trả về tiền tệ phát sinh từ
các quan hệ kinh tế, thương mại, tài chính, tín dụng giữa các tổ chức kinh tế quốc
tế, giữa các hãng, các cá nhân của các nước khác nhau để kết thúc một chu trình
hoạt động trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại. Thanh toán quốc tế đã ra đời như một
tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới.
Như một mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động, thanh toán
quốc tế là khâu kết thúc của giao dịch mua bán hàng hoá hay dịch vụ, là chiếc cầu
nối giữa người sản xuất với người tiêu thụ thông qua việc chi trả lẫn nhau trong
trao đổi quốc tế. Qua thanh toán quốc tế, giá trị hàng hoá xuất nhập khẩu được thực
hiện liên tục, có thể nói thanh toán quốc tế đã góp phần chủ yếu giải quyết mối
quan hệ hàng hoá - tiền tệ, tạo nên sự liên tục của quá trình tái sản xuất và đẩy
nhanh quá trình lưu thông hàng hoá. Thanh toán quốc tế đã giúp cho ngoại thương
thực hiện tốt chức năng của mình là mở rộng lưu thông hàng hóa ra nước ngoài và
đem ngoại tệ về cho đất nước.
Sự phát triển của hoạt động ngoại thương dẫn đến nhu cầu về tiền tệ, thanh
toán quốc tế cũng không ngừng tăng lên. Qua thanh toán, các doanh nghiệp xuất
nhập khẩu sẽ nắm bắt được thông tin về thị trường trong và ngoài nước, hiểu rõ
thêm về đối tác của mình. Hiệu quả kinh tế của bất kì giao dịch nào phần lớn phụ
thuộc vào khâu kết thúc này.
Qua thực tế của hoạt động thanh toán quốc tế, nhà nước có cơ sở điều chỉnh
những điểm bất hợp lý trong hệ thống luật pháp và chính sách liên quan đến ngoại
thương, đến thanh toán cho phù hợp với tình hình mới, tạo điều kiện thúc đẩy
ngoại thương. Đối với một số mặt hàng xuất nhập khâủ nhất định, nhà nước có thể
qui định các phương thức thanh toán đảm bảo sự bình đẳng đối với nước ngoài
nhưng không trái với thông lệ quốc tế và luật pháp của mỗi nước.
Trong bất kỳ giao dịch nào, dù trong hay ngoài nước đều có hai bên cơ bản
tham gia đó là người mua và người bán. Người bán cung cấp hàng hoá và dịch vụ
cho người mua còn người mua thì trả tiền hàng hoá, dịch vụ nhận được theo các
điều khoản hợp đồng ký kết giữa hai bên. Trên lý thuyết, quá trình trao đổi này có
vẻ đơn giản nhưng trên thực tế đặc biệt trong buôn bán ngoại thương khi người bán
và người mua ở những quốc gia khác nhau thì lại rất phức tạp. Để có thể đạt được
những vấn đề có liên quan đến lợi ích chung song lại là đối kháng giữa hai bên, cả
người mua và người bán đều phải nhờ đến các dịch vụ của ngân hàng. Các bên
thường chọn một bên thứ ba độc lập làm trung gian thanh toán, người có thể đảm
bảo quyền lợi cho họ đồng thời tạo điều kiện cho quá trình trao đổi thanh toán
được thuận tiện. Bên thứ ba này thường là các tổ chức tài chính trung gian, trong
đó ngân hàng là một tổ chức tài chính chuyên nghiệp. Ngân hàng giúp cho quá
trình thanh toán theo yêu cầu khách hàng được tiến hành an toàn, nhanh chóng,
tiện lợi và giảm bớt chi phí thay vì thanh toán bằng tiền mặt. Ngân hàng bảo vệ
quyền lợi của khách hàng trong giao dịch thanh toán, đồng thời tư vấn cho khách
hàng, hướng dẫn về kỹ thuật thanh toán quốc tế nhằm giảm rủi ro, tạo sự an tâm tin
tưởng cho khách hàng trong quan hệ giao dịch mua bán với nước ngoài. Mặt khác
trong quá trình thực hiện thanh toán quốc tế, khách hàng không đủ khả năng tài
chính cần đến sự tài trợ của ngân hàng, ngân hàng cho vay để thanh toán hàng
nhập khẩu, bảo lãnh thanh toán mở L/C, chiết khấu chứng từ xuất khẩu... đáp ứng
nhu cầu về vốn cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Tóm lại, thanh toán quốc tế đóng vai trò rất quan trọng trong việc phát triển
ngoại thương và chúng ta đều hiểu rằng ngoại thương là một công cụ thúc đẩy quá
trình liên kết kinh tế trong nước và giữa trong nước với nước ngoài. Khi các nước
có mối quan hệ kinh tế tốt đẹp thì họ sẽ có tiếng nói chung trên các lĩnh vực chính
trị, ngoại giao... Bản thân mối quan hệ đối ngoại tốt đẹp lại thúc đẩy liên kết kinh
tế. Ở một khía cạnh khác, việc phát triển mối quan hệ giao lưu giữa các nước
không chỉ đơn giản là gắn liền kinh tế trong nước với nền kinh tế thế giới để tranh
thủ những lợi thế do ngoại thương mang lại mà còn dùng ngoại thương để thúc đẩy
các quá trình phát triển trong nội bộ nền kinh tế.
1.2. CÁC PHƯƠNG THỨC THANH TOÁN CHỦ YẾU TRONG THANH TOÁN QUỐC
TẾ.
Thời đại chúng ta là thời đại kinh tế phát triển vượt bậc, thời đại của sự hoà
nhập, giao lưu kinh tế hàng hoá giữa các quốc gia trên phạm vi toàn thế giới. Quan
hệ trao đổi hàng hoá và dịch vụ quốc tế không ngừng được mở rộng và phát triển.
Hoạt động thanh toán dù ở bất kỳ ở qui mô nào cũng phải đảm bảo được quyền lợi
cho các bên tham gia . Trong thương mại quốc tế, quyền lợi của người bán là phải
thu được tiền đầy đủ, nhanh chóng, với chi phí thấp nhất. Quyền lợi của người
mua là phải nhận được hàng hoá đúng số lượng, đảm bảo chất lượng và thời gian.
Còn quyền lợi của ngân hàng- trung gian thanh toán- là các khoản tiền hoa hồng và
sự an toàn trong kinh doanh.
Bởi vậy, mỗi phương thức thanh toán phải tập hợp đầy đủ các điều kiện thanh
toán như: tiền tệ, địa điểm, thời gian thanh toán, cách thức trả tiền gắn với các điều
kiện giao hàng ...
Hiện nay, có 3 phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu được thống nhất áp
dụng trong các hoạt động thương mại quốc tế. Đó là phương thức chuyển tiền,
phương thức nhờ thu và phổ biến nhất là phương thức tín dụng chứng từ.
1.2.1. PHƯƠNG THỨC CHUYỂN TIỀN ( REMITTANCE ) .
Phương thức chuyển tiền là phương thức trong đó khách hàng( người trả tiền )
yêu cầu ngân hàng của mình chuyển một số tiền nhất định cho một người khác
( người hưởng lợi ) ở một địa điểm nhất định bằng phương tiện chuyển tiền do
khách hàng yêu cầu.
Trong phương thức chuyển tiền có sự tham gia của 4 chủ thể chính. Đó là :
- Người trả tiền : có thể là người mua, người mắc nợ hoặc người chuyền tiền
( nhà đầu tư, kiều bào chuyển tiền về nước, chuyển kinh phí ra nước ngoài ...) là
người yêu cầu ngân hàng chuyển tiền ra nước ngoài .
- Người hưởng lợi : có thể là người bán, chủ nợ, người tiếp nhận vốn đầu tư
hoặc người nào đó do người chuyển tiền chỉ định.
- Ngân hàng chuyển tiền : là ngân hàng thực hiện lệnh chuyển tiền, thường là
ngân hàng ở nước người chuyển tiền .
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền : là ngân hàng ở nước người
hưởng lợi, chuyển tiền đến tay người hưởng .
Qui trình nghiệp vụ:
( 3 )
( 2 ) ( 4 )
( 1 )
1. Trên cơ sở hợp đồng mua bán ngoại thương. Nhà xuất khẩu và nhập khẩu tiến
hành các giao dịch thương mại .
2. Nhà nhập khẩu viết đơn yêu cầu chuyển tiền tới ngân hàng của mình cùng với
các giấy tờ có liên quan tới giao dịch theo yêu cầu của ngân hàng .
3. Ngân hàng chuyển tiền thực hiện lệnh chuyển tiền ra nước ngoài thông qua
ngân hàng đại lý.
4. Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho nhà xuất khẩu .
Qui trình hạch toán chuyển tiền
Chuyển tiền đi nước ngoài.
Khi nhận được yêu cầu chuyển tiền của người chuyển tiền. Ngân hàng kiểm tra
nếu đủ điều kiện, lập lịch chuyển tiền bằng thư hoặc bằng điện tuỳ theo yêu cầu
của người chuyển tiền và hạch toán :
Nợ TK đơn vị chuyển tiền ( số tiền chuyển + phí kể cả thuế GTGT )
Có TK TG ngoại tệ ở NH nước ngoài ( số tiền chuyển )
Ngân h ngà
đại lý
Ngân h ngà
chuyển tiền
Người
hưởng lợi
Người
chuyển tiền
Có TK Thu nhập của NH ( Thu phí chuyển tiền chưa có thuế )
Có TK Thuế GTGT đầu ra ( Thuế GTGT )
Chuyển tiền từ nước ngoài đến.
Khi nhận được lệnh chuyển tiền bằng thư hoặc điện từ nước ngoài gửi đến cho
người hưởng là cá nhân trong nước không có tài khoản tại NH, kế toán kiểm tra
( khoá, mã điện ) nếu đủ điều kiện thì xử lý :
- Lập giấy báo gửi cho người nhận tiền.
- Lập chứng từ để hạch toán.
Nếu ngân hàng trực tiếp trả cho khách hàng, ghi :
Nợ TK TG tại NH nước ngoài ( ngoại tệ )
Có TK Chuyển tiền phải trả ( ngoại tệ )
Khi người nhận tiền đến nhận tiền thì ngân hàng kiểm tra : giấy báo nhận tiền,
chứng minh thư của người nhận tiền, nếu đủ điều kiện thì xử lý :
Nợ TK: Chuyển tiền phải trả ( chuyển tiền đến )
Có TK: Ngoại tệ tiền mặt( chuyển tiền đến - thủ tục phí - Thuế GTGT )
Có TK : Thu nhập ( thủ tục phí )
Có TK : Thuế GTGT đầu ra ( Thuế GTGT )
Nếu người nhận yêu cầu lấy VND thì thông qua tài khoản mua bán ngoại tệ để
trả tiền VND .
Trong thanh toán quốc tế, phương thức chuyển tiền là phương thức đơn giản
nhất, dễ thực hiện, nhưng lại có tính rủi ro cao. Người bán thường bị người mua
chiếm dụng vốn mà không có cách gì kiểm soát được. Do vậy, nó chỉ được sử dụng
trong trường hợp người mua và người bán hoàn toàn tín nhiệm nhau, trong lĩnh
vực phi mậu dịch và các chi phí liên quan tới xuất nhập khẩu hàng hoá hay chuyển
tiền đầu tư, kiều hối...
1.2.2. PHƯƠNG THỨC NHỜ THU ( COLLECTION ).
Phương thức nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi
hoàn thành giao hàng hoá theo hợp đồng cho bên mua sẽ ký phát hối phiếu đòi tiền
người mua, nộp hối phiếu vào ngân hàng phục vụ mình nhờ thu hộ số tiền ghi trên
tờ hối phiếu đó.
Thông thường có 4 bên tham gia phương thức nhờ thu :
- Người hưởng lợi : là người bán, nhà xuất khẩu, là người ký phát hối phiếu.
- Ngân hàng bên bán : là ngân hàng nhận uỷ thác của người bán.
- Ngân hàng đại lý của ngân hàng bên bán : là ngân hàng ở nước người mua,
đòi tiền từ người mua .
- Người trả tiền : là người mua, người nhập khẩu, người bị hối phiếu ký phát .
Có 2 loại nhờ thu : nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ .
1.2.2.1. Nhờ thu phiếu trơn ( Clean Collection ).
Nhờ thu phiếu trơn là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng
thu hộ tiền ở người mua căn cứ vào hối phiếu do mình lập ra, còn chứng từ hàng
hoá thì gửi thẳng tới người mua không qua ngân hàng.
Quy trình nghiệp vụ :
( 2 )
( 4 )
( 1 ) ( 4 ) ( 4 ) ( 3 )
Gửi hàng và chứng từ
Ngân h ngà
đại lý
Ngân h ngà
phục vụ
bên bán
Người
mua
Người
bán