Tải bản đầy đủ (.pdf) (232 trang)

Tang ma của người Tày ở Bắc Kạn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.32 MB, 232 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

---------------------

LƢƠNG THỊ HẠNH

TANG MA CỦA NGƢỜI TÀY Ở
TỈNH BẮC KẠN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC VĂN HÓA

Hà Nội, năm 2013


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

----------------------

LƢƠNG THỊ HẠNH

TANG MA CỦA NGƢỜI TÀY Ở
TỈNH BẮC KẠN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NHÂN HỌC
Chuyên ngành: Nhân học văn hóa
Mã số: 62 31 65 01

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS Phạm Quang Hoan


2. PGS.TS Đàm Thị Uyên

Hà Nội, năm 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trong luận án là trung thực, chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác
Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2013
Tác giả luận án

Lương Thị Hạnh


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận án Tiến sĩ Nhân học văn hóa với đề tài: Tang
ma của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn, tôi đã nhận dược sự giúp đỡ quý báu, có hiệu
quả của nhiều cơ quan, tập thể và cá nhân.
Nhân dịp hoàn thành luận án, tôi xin chân thành cảm ơn: Ban lãnh đạo Trường
Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên nơi tôi công tác; Ban Giám đốc Đại học
Thái Nguyên, Ban Lãnh đạo các cơ sở đào tạo: Viện Dân tộc học, Học viện Khoa
học Xã hội; Phòng Quản lý Khoa học và đào tạo Viện Dân tộc học; Khoa Dân tộc
học và Phòng Quản lý đào tạo Học viện Khoa học Xã hội, đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tơi được học tập các chương trình nghiên cứu sinh khóa 2009 - 2012,
cũng như giúp đỡ tơi các thủ tục cần thiết trong quá trình viết và bảo vệ luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo các địa phương: Ban Dân vận Tỉnh ủy
Bắc Kạn, Ủy ban nhân dân tỉnh Bắc Kạn, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tỉnh Bắc
Kạn, Ủy ban nhân dân các huyện, các xã của tỉnh Bắc Kạn, huyện Hòa An, Hà

Quảng, Thạch An (tỉnh Cao Bằng), huyện Định Hóa (tỉnh Thái Nguyên), và đặc biệt
là đồng bào Tày, Nùng, nơi tôi đến nghiên cứu điền dã, đã giúp đỡ nhiệt tình, đồng
thời cung cấp cho tơi những thơng tin, tư liệu q báu để tơi hồn thành luận án.
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu cũng như viết luận án, tôi đã nhận
được nhiều lời động viên, giúp đỡ của người thân trong gia đình và bạn bè, đồng
nghiệp. Nhân đây, cho tơi xin ghi lịng, cảm ơn.
Đặc biệt, luận án của tơi được hồn thành, tơi khơng thể khơng nhắc đến sự
khích lệ, động viên, sự chỉ bảo, hướng dẫn tận tình của Tập thể hai thầy cơ giáo
hướng dẫn khoa học: PGS.TS Phạm Quang Hoan và PGS.TS Đàm Thị Uyên. Nhân
dịp này, cho phép tôi được gửi tới các thầy cơ giáo lịng biết ơn sâu sắc nhất.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 19 tháng 7 năm 2013
Tác giả luận án

Lương Thị Hạnh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT, KÝ HIỆU

BVHTT:

Bộ Văn hoá Thơng tin

CB:

Chủ biên

CNH-HDH:


Cơng nghiệp hố - hiện đại hố

DTH:

Dân tộc học

GS:

Giáo sư

H:

Hà Nội

KHXH:

Khoa học xã hội

NXB:

Nhà xuất bản

PGS:

Phó giáo sư

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


TS:

Tiến sỹ

TR:

Trang

TW:

Trung ương

VHDT:

Văn hóa dân tộc


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết….................................................. ………………… .. ……………..........1
2. Mục đích nghiên cứu……………………………………… ...................................... …2
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu……………………………… .................................. …2
4. Nguồn tư liệu ………………………………………………… ................................ …3
5. Đóng góp của luận án…………………………………………................................. …4
6. Cấu trúc của luận án………………………………………… ................................... …4
Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT
PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu…………………………… ...... …………..………5
1.2. Cơ sở lý thuyết …………………………………… .................... …………………11
1.1.1. Một số khái niệm………………………….................... …………………11
1.1.2. Cơ sở lý thuyết………………………………................... ………………18
1.3. Phương pháp nghiên cứu………………………………........................... …………22
1.4. Khái quát về người Tày ở tỉnh Bắc Kạn.. ..................................................................... 26
Tiểu kết chương 1
Chƣơng 2:

TANG MA TRUYỀN THỐNG

2.1. Một số quan niệm liện quan đến tang ma………………… ................... ……….…..32
2.1.1. Quan niệm về thế giới ba tầng và hệ thống thần linh… ............................... 32
2.1.2. Quan niệm về hồn vía con người (khoăn) và linh hồn người sau khi
chết (phi khoăn) ................................................................................................................….34
2.1.3. Quan niệm về cõi sống và cõi chết…. .......................................................... .36
2.2. Các loại tang ma .............................................................. ............................... .............. 37
2.3. Quy tắc ứng xử khi người thân mới tắt thở............................................................. ......39


2.4. Tang ma truyền thống............................................................... ............................... ......40
2.4.1. Tang ma của người chết bình thường....................... .............................. .......41
2.4.2. Tang ma của thầy Tào............................................................................ .........73
2.4.3. Tang ma của người chết khơng bình thường.......................................... .......78
2.5. Các nghi lễ sau mai táng.................................................... ............................... .............80
2.6. Tục để tang và một số kiêng kỵ......................................... .............................. ..............84
2.7. Vai trò của thầy Tào trong đám tang.............................. ............................. ................. 88
Tiểu kết chương 2

Chƣơng 3:

NHỮNG BIẾN ĐỔI TRONG TANG MA

3.1. Nội dung của sự biến đổi.. ........................................................................................... ..91
3.1.1. Biến đổi trong quan niệm và nhận thức.. ...................................................... .91
3.1.2. Biến đổi trong việc chuẩn bị và hình thức báo tang .................................... .93
3.1.3. Biến đổi của các nghi lễ đám ma................................................................. ...97
3.1.4. Biến đổi của các nghi lễ sau khi chôn cất..... ............................................. ..100
3.1.5. Biến đổi trong việc kiêng kỵ...................................................................... ...101
3.1.6. Biến đổi ở một số lĩnh vực khác liên quan trong tang ma.. ........................ 103
3.2. Nguyên nhân của sự biến đổi...................................................................................... .104
3.2.1. Tác động từ phát triển kinh tế.... ................................................................. ..104
3.2.2. Tác động từ nhận thức của người dân........................................................ ..106
3.2.3. Tác động từ chính sách – luật pháp........................................................... ...107
3.2.4. Tác động từ sự giao thoa văn hóa.. ............................................................. .109
3.3. Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong tang ma của
người Tày .. ......................................................................................................................... .112
3.3.1. Một số giá trị văn hóa trong tập quán tang ma cần gìn giữ.. ................................. .112
3.3.2. Vấn đề bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống trong tang ma .. .... .114
Tiểu kết chương 3
Chƣơng 4 :

KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN

4.1. Kết quả.. ...................................................................................................................... ..119
4.1.1. Tang ma phản ánh văn hóa vật chất của tộc người ............................................... ..119
4.1.1.1. Lễ vật trong tang ma phản ánh văn hóa truyền thống tộc người............ .119



4.1.1.2. Trang phục tang lễ biểu hiện bản sắc văn hóa tộc người........................ .122
4.1.2. Tang ma phản ánh văn hóa tinh thần của tộc người.............................................. ..124
4.1.2.1. Đề cao đạo hiếu, đạo nghĩa của người sống đối với người chết. .......... ..124
4.1.2.2. Tác dụng giáo dục của văn hóa tang ma................................................. ..125
4.1.2.3. Tang ma củng cố ý thức cố kết trong gia đình và cộng đồng . ............. ..126
4.1.2.4. Tang ma phản ảnh tín ngưỡng sơ khai của dân tộc Tày. ....................... ..130
4.1.2.5. Tang ma bảo lưu các loại hình nghệ thuật dân gian tộc người… ........... 133
4.2. Bàn luận… .................................................................................................................... 136
4.2.1. Bàn luận về một số quan điểm trong tang ma.. ...................................................... .136
4.2.2. Ý nghĩa của các nghi lễ trong tang ma…................................................................ .140
4.2.3. Điểm giống và khác giữa tang ma của người Tày Bắc Kạn với người
Tày ở các tỉnh khác………………………………………………………………..142
4.2.4. Những hạn chế, tiêu cực trong tang ma của người Tày ………………………..144
4.2.5. Ảnh hưởng của Tam giáo biểu hiện trong tang ma của người Tày ...................…146
4.2.5.1. Ảnh hưởng của Đạo giáo trong tang ma… .............................................. 146
4.2.5.2. Ảnh hưởng của Phật giáo trong tang ma… .............................................. 147
4.2.5.3. Ảnh hưởng của Nho giáo trong tang ma ..............................................…150
Tiểu kết chương 4
KẾT LUẬN........................................................................................................................152
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ...................................................157
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................................158
DANH MỤC NHÂN CHỨNG CUNG CẤP THÔNG TIN.......................................166
PHỤ LỤC CHỮ VIẾT.....................................................................................................170
PHỤ LỤC ẢNH


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết

Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Tày ở Việt Nam có
dân số 1.626.392 người, là dân tộc có số dân đứng thứ 2 sau dân tộc Kinh
(73,594 triệu người, chiếm 85,7%) và có số dân đơng nhất trong các dân tộc
thiểu số ở nước ta, người Tày có mặt trên tất cả 63 tỉnh, thành phố và cư trú tập
trung nhất tại một số tỉnh vùng Đơng Bắc, trong đó có Bắc Kạn (155.510 người
chiếm 52,9% dân số tồn tỉnh và 9,6% tổng số người Tày ở Việt Nam). Sự đa
dạng về địa bàn cư trú của người Tày đã tạo nên những sắc thái văn hóa địa
phương cũng rất đa dạng và phong phú. Một trong những thành tố văn hóa lý
thú, hấp dẫn đó chính là tang ma của người Tày tỉnh Bắc Kạn.
Tang ma là lễ thức cuối cùng trong chu kỳ cuộc đời của một con người trên
cõi trần gian, để bước sang một thế giới mới mà dân gian Tày thường gọi là Mường
Phạ (Mường trời) – một thế giới siêu thực và huyền bí, nhưng lại có trong tâm thức
và đã ăn sâu vào trong tâm thức của đồng bào, trở thành những tập tục truyền thống,
chi phối đời sống xã hội của đồng bào lâu dài và bền bỉ, thậm chí trở thành những
ràng buộc với cộng đồng tộc người.
Tang ma nằm trong đức tin tâm linh nguyên thủy, có mặt trong hầu hết đời
sống văn hóa của các dân tộc trên thế giới. Theo dòng thời gian hàng chục thế kỷ
đắp bồi, cho đến nay, tang ma vẫn tỏ rõ sức sống bền bỉ, chìm sâu trong tâm thức
của dân tộc, khắc họa trong đó những dấu ấn khơng thể phai mờ với những hệ thống
biểu tượng rất đa dạng và đậm đà bản sắc nhưng khơng dễ gì nhận biết đối với con
người đương đại.
Thông qua các lễ thức của đám tang, chúng ta có thể nhận biết được phần nào
bản sắc văn hóa, q trình lịch sử tộc người; hiểu được thế giới quan, nhân sinh
quan của người Tày, những quan niệm về cõi sống, cõi chết, hệ thống các quy tắc
ứng xử trong gia đình, cộng đồng của người sống dành cho người chết, và giữa
người sống với người sống.


2


Nghi lễ tang ma của người Tày không chỉ mang tính chất tín ngưỡng tơn giáo, hàm
chứa những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, những quy tắc ứng xử của gia đình,
cộng đồng, mà điểm nổi bật vẫn là quan niệm về đạo hiếu, đạo nghĩa, việc đền công, báo
đức. Qua những nghi lễ trong tang ma của người Tày, tinh thần cộng đồng làng bản được
thể hiện khá rõ nét; bởi khi một thành viên của một gia đình chết, cả bản mường có
nhiệm vụ giúp đỡ, lo liệu ma chay cho người quá cố. Đây là nét đẹp trong văn hoá truyền
thống của dân tộc Tày ở Bắc Kạn nói riêng và đồng bào Tày vùng Đơng Bắc nói chung.
Tang ma của người Tày Bắc Kạn vừa thể hiện tính thống nhất, vừa thể
hiện nét khác biệt giữa các nhóm Tày địa phương do những hồn cảnh sống
và điều kiện lịch sử quy định.
Với những lý do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: “Tang ma của người
Tày ở tỉnh Bắc Kạn” làm đề tài luận án của mình. Đồng thời sẽ đóng góp cho việc kế
thừa những mặt tích cực, hạn chế những mặt tiêu cực trong tập quán tang ma của
người Tày Bắc Kạn, phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ mới trong tiến trình xây dựng
làng bản văn hóa mới, đẩy mạnh Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập.
2. Mục đích nghiên cứu
- Bước đầu tập hợp và hệ thống hóa các tài liệu nghiên cứu có liên quan đến vấn
đề tang ma của người Tày nói chung, người Tày ở tỉnh Bắc Kạn nói riêng.
- Khảo tả tương đối đầy đủ về các loại tang ma, các đối tượng tang lễ khác nhau,
trên cơ sở phân tích vai trị của thầy Tào trong tang ma của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn.
- Tìm hiểu những biến đổi về mặt nội dung nghi lễ, thời lượng, hình thức cũng
như những lễ vật cúng tế trong tang ma của người Tày ở Bắc Kạn.
- Bước đầu đưa ra một số khuyến nghị giúp cho những người làm công tác bảo tồn
di sản văn hóa có những cứ liệu mới, từ đó đưa ra chủ trương sưu tầm, nhằm bảo tồn,
phát huy các giá trị văn hóa trong tang ma của người Tày một cách có hiệu quả hơn.
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của Luận án chính là các nghi lễ đưa xác người chết đi
chôn và tiễn hồn người chết về thế giới bên kia.



3

- Phạm vi nghiên cứu: Tỉnh Bắc Kạn hiện nay có 8 đơn vị hành chính bao gồm
thị xã Bắc Kạn và 7 huyện (Bạch Thông, Ba Bể, Chợ Đồn, Chợ Mới, Na Rì, Ngân
Sơn, Pắc Nặm, với 123 xã, 4 phường, 6 thị trấn và 1 thị xã). Chúng tơi hiểu rằng
khơng thể có tham vọng khảo sát, nghiên cứu được tất cả các xã, huyện nói trên của
tỉnh Bắc Kạn. Điều đó hồn tồn khơng thể thực hiện được, nhất là trong một
khoảng thời gian ngắn. Do đó, để xác lập phạm vi nghiên cứu phù hợp với quy mô
của một luận án tiến sĩ và điều kiện thực tế của bản thân, chúng tôi xin giới hạn
phạm vi nghiên cứu như sau:
Phạm vi không gian: Chúng tôi chọn nghiên cứu điền dã các loại tang ma ở 4
huyện: Ba Bể, Chợ Đồn, Bạch Thông và Chợ Mới. Đây là 4 huyện có số lượng
người Tày sinh sống tương đối đông (xem 1.4.2. Đôi nét về lịch sử người Tày) so
với các huyện cịn lại, do vậy, thơng qua tang ma của 4 huyện này cũng có thể giúp
người đọc nhận dạng khá đầy đủ những nét văn hóa đặc sắc trong tang ma của
người Tày ở tỉnh Bắc Kạn.
Ngồi 4 huyện trên, luận án cịn mở rộng phạm vi khảo sát thêm tang ma của
người Tày ở một số xã thuộc tỉnh Thái Nguyên và tỉnh Cao Bằng. Kết quả nghiên cứu
nghi lễ tang ma ở các tỉnh trên sẽ được sử dụng cho mục đích đối chiếu, so sánh.
Phạm vi thời gian: Luận án chủ yếu chú trọng khảo tả các loại tang ma diễn ra
trong đời sống của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn hiện nay. Nhưng bởi lẽ các vấn đề thuộc
lĩnh vực văn hóa ln có tính kế thừa truyền thống, do vậy, trong khi khảo tả các nghi lễ
tang ma, tác giả luận án cố gắng chú ý tới cả hai mặt đồng đại và lịch đại của nó, truyền
thống và biến đổi (biến đổi được tác giả giới hạn từ năm 1986 đến nay).
4. Nguồn tƣ liệu
- Nguồn tư liệu chính của luận án được tác giả dựa trên những tài liệu, tư liệu
điền dã dân tộc học mà tác giả đã trực tiếp thu thập trong nhiều năm, qua nhiều đợt
tại các địa bàn sinh sống của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn, tỉnh Cao Bằng và huyện
Định Hóa của tỉnh Thái Nguyên.



4

- Kế thừa những kết quả nghiên cứu dù trực tiếp hoặc gián tiếp về tang ma của
người Tày, người Nùng nói chung đã được cơng bố của các học giả trong và ngoài
nước để tham khảo, so sánh.
- Các luận văn, luận án có liên quan đến đề tài đã bảo vệ của các học viên, sinh
viên chuyên ngành văn hóa học, văn hóa dân gian, dân tộc học, tài liệu lưu trữ của
Thư viện quốc gia, Viện Dân tộc học. Đây là những tài liệu có mang tính chất lý
thuyết phục vụ đề tài nghiên cứu
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là cơng trình chun khảo nhân học đầu tiên về các loại tang ma của
người Tày ở tỉnh Bắc Kạn.
- Luận án góp phần vào việc nghiên cứu những vấn đề về biến đổi xã hội và
văn hóa tang ma tại tỉnh Bắc Kạn trong tiến trình cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa.
- Luận án chỉ ra những giá trị văn hóa cần phát huy và những nét phi văn hóa tiêu
cực cần hạn chế trong cơng cuộc xây dựng làng bản văn hóa mới hiện nay.
Từ những kết quả nghiên cứu khảo sát, luận án đã cung cấp nguồn tư liệu
phong phú phục vụ nhu cầu nghiên cứu chính sách văn hóa trong việc bảo tồn văn
hóa và xây dựng đời sống văn hóa mới ở vùng người Tày nói riêng và vùng các dân
tộc thiểu số nói chung nhằm đáp ứng yêu cầu gắn kết cộng đồng, giữ gìn bản sắc tộc
người phục vụ phát triển đất nước.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu (4 trang ), kết luận (5 trang), tài liệu tham khảo (8 trang), phụ
lục chữ (23 trang), phụ lục ảnh (24 trang), nội dung chính của luận án gồm 147 trang,
được bố cục thành 4 chương như sau:
Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết, phương pháp và
địa bàn nghiên cứu (27 trang)
Chƣơng 2: Tang ma truyền thống (59 trang)
Chƣơng 3: Những biến đổi trong tang ma (28 trang)

Chƣơng 4: Kết quả và bàn luận (33 trang)


5

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
CƠ SỞ LÝ THUYẾT, PHƢƠNG PHÁP VÀ ĐỊA BÀN NGHIÊN CỨU
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Tang ma là một việc hệ trọng trong chu kỳ đời người trên cõi trần gian, mặc dù
mỗi quốc gia, mỗi tộc người có các cách thức tổ chức nghi lễ khác nhau, nhưng cách
tiếp cận nghiên cứu, cách nhìn nhận, đánh giá về tang ma của các học giả nhìn chung
khá là thống nhất.
Tín ngưỡng dân gian là một thành tố của văn hóa dân gian (Tang ma chính là
những biểu hiện của tín ngưỡng dân gian), xuất hiện từ sớm, rất lâu trước khi người ta
nghiên cứu về nó. Ở Việt Nam, tín ngưỡng dân gian chỉ mới thực sự được nghiên cứu
từ trên 100 năm nay.
Đến đầu thế kỷ XX, tín ngưỡng dân gian thực sự trở thành một đối tượng thu hút
các nhà nghiên cứu, các nhà khoa học quan tâm, tìm hiểu và giải mã. Đội ngũ những
người để tâm đến mảng đề tài này, điển hình như Phan Kế Bính, Đào Duy Anh,… là
những học giả đi tiên phong trong việc tìm hiểu tang ma qua các lễ nghi, phong tục.
Sau cách mạng Tháng Tám đến năm 1975, vấn đề nghiên cứu văn hóa các dân tộc
thuộc nhóm ngơn ngữ Tày – Thái nói chung và tang ma của dân tộc Tày nói riêng đã
được các học giả Việt Nam quan tâm nhiều hơn, nhiều bài viết nghiên cứu về lĩnh vực
này dưới dạng miêu tả phong tục tập quán, lễ nghi đã được cơng bố trên các tạp chí, sách
báo như Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam của Lã Văn Lô và
Đặng Nghiêm Vạn (1968), Bước đầu tìm hiểu về mối quan hệ giữa người Tày và người
Nùng - thông báo dân tộc học tháng 3/1973, Bàn về nếp sống văn hóa ở miền núi của nhà
xuất bản Văn hóa (1974),…
Tình hình nghiên cứu về văn hóa các dân tộc ở Việt Nam tiếp tục được dùy trì

một cách khá đều đặn trong những năm tiếp theo. Phải đến sau năm 1986, khi nước
ta bước vào thời kỳ đổi mới, việc nghiên cứu tang ma mới thực sự khởi sắc và có
bước phát triển rõ rệt, những bí ẩn của đời sống tâm linh được chú ý nhiều hơn. Từ
những biểu hiện cụ thể của nghi lễ, của phong tục tập quán diễn ra hàng ngày, được


6

các nhà khoa học đầu tư nhiều tâm sức tìm hiểu, nghiên cứu và giải mã niềm tin sâu
xa mà con người gửi gắm trong tín ngưỡng thờ cúng.
Là một đề tài khá chuyên biệt và luôn đề cập đến cái chết, nên số lượng các
cơng trình nghiên cứu về nghi lễ tang ma của người Tày nói riêng khơng nhiều so với
các lĩnh vực khác như ẩm thực, nhà cửa, cưới xin,... Tang ma đóng góp tích cực, làm
phong phú đời sống tinh thần của người Tày, nó đã tồn tại rất lâu trong đời sống của
đồng bào, vì vậy, nó khơng phải là một vấn đề mới mẻ đối với các nhà khoa học. Ở
đây, chúng tôi chủ yếu tiếp cận những cơng trình đề cập tới nghi lễ tang ma dù là trực
tiếp hoặc gián tiếp của các cư dân thuộc nhóm ngơn ngữ Tày – Thái ở Việt Nam và
nhất là các tài liệu liên quan đến cư dân Tày vùng Việt Bắc.
Trước hết phải kể đến cuốn sách Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái
ở Việt Nam của Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn [42]. Các tác giả đã nghiên cứu khá
sâu về đời sống văn hóa của hai dân tộc Tày – Nùng, trong đó có trình bày về tơn
giáo, tín ngưỡng, ý niệm về hồn Phi, khoăn và cái chết, về sự tồn tại của thế giới
bên kia, những nghi lễ liên quan đến sản xuất,… nhưng các tác giả cũng khơng có
chun mục riêng về tang ma của dân tộc Tày.
Nghiên cứu của các tác giả Lã Văn Lô, Hà Văn Thư Văn hóa Tày - Nùng [43].
Đây thực sự là một cơng trình nghiên cứu khá đầy đủ về xã hội, con người và văn
hoá của hai dân tộc Tày, Nùng ở Việt Nam nói chung. Các vấn đề trong đời sống xã
hội được đề cập khá đa dạng, điểm đáng chú ý nhất của cơng trình này là nguồn tư
liệu thực địa khá phong phú, trong đó các tác giả đã khảo tả tương đối tỉ mỉ về tang
ma với một tiểu mục riêng biệt, miêu tả về 9 nghi lễ chính và 13 lễ nhỏ rất cơng phu. Tuy

nhiên nhiều đặc trưng văn hoá trong tang ma của từng dân tộc chưa được các tác giả
phân biệt rõ theo từng nhóm địa phương khác nhau.
Năm 1994, Hồng Quyết và Tuấn Dũng đã sưu tầm và biên soạn cuốn
Phong tục tập quán dân tộc Tày ở Việt Bắc [67]. Cơng trình này đã tập trung
nghiên cứu sâu về đời sống văn hoá tinh thần của dân tộc Tày ở khu Việt Bắc,
với những phong tục tập quán về ăn, ở, mặc, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tang
ma, cưới hỏi từ xa xưa của người Tày. Song công trình cũng chỉ đề cập đến vấn
đề một cách chung chung của vùng Việt Bắc, trong khi nghi lễ tang của người
Tày ở mỗi địa phương lại có nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, những nghiên cứu mang tính


7

chất khái quát như Hoàng Quyết và Tuấn Dũng cần thiết phải bổ sung các nguồn tư liệu
thu thập từ điền dã ở từng địa phương cụ thể.
Tiếp đến phải kể đến cuốn sách Các dân tộc Tày – Nùng ở Việt Nam do tác giả
Bế Viết Đẳng chủ biên [22]. Các tác giả đã dành một phần riêng 14 trang (213 – 226)
cho việc trình bày những nghi lễ liên quan đến làm ma ở trong nhà cũng như cách
thức mai táng và hình thức để tang của các dân tộc Tày – Nùng (chủ yếu vùng Việt
Bắc). Trong cơng trình này mặc dù các tác giả đã dành một phần riêng để nghiên cứu,
song chỉ được tiếp cận dưới dạng các thông báo, từ việc điểm qua về người chết, cách
ứng xử với người chết, các lễ thức sau khi chết,… mà chưa có phân tích nghiên cứu
chun sâu theo từng dân tộc cụ thể. Do đó, cơng trình này cũng chỉ mang tính sơ
lược cần được bổ sung.
Cơng trình Hơn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt Nam của
tác giả Đỗ Thúy Bình [8]. Trong cơng trình này tác giả đã giới thiệu các quan niệm
khác nhau về linh hồn của các dân tộc Tày, Nùng, Thái, và đều thống nhất cho rằng
nếu hồn lìa khỏi thân thể vĩnh viễn thì người sẽ chết. Bên cạnh việc đi sâu vào mô
tả, liệt kê sáu nghi lễ chính trong tang ma với nhiều thủ tục từ khi con người tắt thở
đến khi mãn tang 3 năm như: Lễ rửa mặt, lễ khâm liệm, lễ đại siêu, lễ nhập quan, lễ

xiên đàn phá ngục, lễ đưa ma, tác giả đã ít nhiều đi vào phân tích cũng như kiến giải
về ý nghĩa của các nghi lễ có ảnh hưởng đến cuộc sống của con người. Trong khảo
sát của mình tác giả có đề cập đến trường hợp người chết có con thì con gà cúng
vong linh sẽ được mổ bụng. Còn trường hợp người chết chưa có con, con gà cúng sẽ
làm như thế nào thì tác giả chưa đề cập đến. Song trong các nghi lễ tang ma mà tác
giả cung cấp như lễ rửa mặt, lễ khâm liệm, phần lớn tác giả dành những miêu tả cụ
thể cho người Tày ở Cao Bằng và Hoàng Liên Sơn (nay Yên Bái), nhưng tang ma
của người Tày ở tỉnh Bắc Kạn rất ít được đề cập. Từ việc điểm qua các nghi lễ tang
ma của các dân tộc Tày, Nùng, Thái cũng là những luận cứ khoa học có giá trị giúp
chúng tơi tiếp cận vấn đề tang ma ở địa phương Bắc Kạn được hồn thiện hơn.
Cuốn Văn hóa dân gian Tày của các tác giả Hoàng Ngọc La, Hoàng Hoa
Toàn, Vũ Tuấn Anh [39]. Nhiều vấn đề liên quan đến vũ trụ quan và nhân sinh
quan, vấn đề tín ngưỡng tơn giáo và phong tục tập quán, về ngôn ngữ và văn họa
dân gian,… đã được các tác giả phân tích với rất nhiều tư liệu điền dã phong phú,
chẳng hạn trong quan niệm về thế giới ba tầng người Tày gọi theo thứ tự cõi Trên


8

(trời), cõi Giữa (mặt đất) và cõi Dưới (dưới lòng đất). Giữa ba cõi chỉ có một điểm
khác nhau về hình dạng con người. Theo các tác giả, trong mỗi con người chúng ta
có 12 con hồn và 12 con hồn này đậu ở các vị trí khác nhau trong cơ thể. Nếu 12
con hồn ấy đậu ngay ngắn thì con người hồn tồn khỏe mạnh, ngược lại nếu có
một hồn nào đó tạm thời rời thân thể đi chơi khi đó con người sẽ ốm, phải mời thầy
cúng đến làm lễ gọi hồn về. Trong trường hợp hồn rời bỏ thân thể khơng quay về
nữa, khi đó người chết biến thành ma. Nhưng các tác giả cũng chưa giải thích rõ vì
sao khi chết người ta khơng mặc 12 áo, thắt và quấn 12 nút mà thường thấy mặc
quần áo, quấn và thắt 7 đối với nam và 9 đối với nữ. Do đó cần phải có những
nghiên cứu nghiêm túc để làm sáng tỏ vấn đề này. Đặc biệt, trong cơng trình này tác
giả đã đi sâu mơ tả, liệt kê những ảnh hưởng Tam giáo đến đời sống xã hội của

người Tày nói riêng và các dân tộc thiểu số ở Việt Nam nói chung. Tuy nhiên, từng
địa phương, từng ngành ảnh hưởng của Tam giáo có khác nhau, nhưng nhìn chung
khơng trở thành tơn giáo chính thống của một ngành, một tộc người, một địa
phương nào. Đặc biệt về hình ảnh Đạo giáo ở người Tày theo chúng tơi cịn rất ít
được nghiên cứu.
Cuốn sách Bản sắc và truyền thống văn hoá các dân tộc tỉnh Bắc Kạn của các
tác giả Hà Văn Viễn và các đồng sự [96] là một cơng trình nghiên cứu cơng phu và
cũng là cơng trình nghiên cứu đầu tiên có tính chất đầy đủ nhất về các vấn đề kinh
tế, văn hóa - xã hội của các dân tộc trên mảnh đất Bắc Kạn từ ngày tái lập tỉnh
(1997) đến nay. Cơng trình đã giúp người đọc có được cái nhìn khái qt về đời
sống văn hóa cũng như phong tục tập quán của đồng bào nơi đây lâu nay được gói
kỹ bằng các lớp phủ như lễ thức, nghi lễ. Trong cơng trình này, các tác giả đã trình
bày về nghi lễ tang ma với những đặc trưng và quan niệm riêng của từng dân tộc,
từng vùng, với rất nhiều dẫn chứng, minh họa sinh động. Trong đó, chúng tôi đặc
biệt quan tâm đến tang ma của dân tộc Tày, bên cạnh việc mô tả, liệt kê những lễ
nghi, các tác giả ít nhiều đi vào phân tích cũng như kiến giải về ý nghĩa của việc
làm ma của dân tộc Tày. Tuy nhiên, nếu có được một luận giải sâu sắc hơn về các
quan niệm cõi sống cõi chết, các thủ tục cho các loại tang ma như người chết khơng
bình thường, người chết là thầy cúng thì chắc chắn đây sẽ là một cơng trình có giá
trị rất lớn về tín ngưỡng tang ma, nhất là đối một tỉnh miền núi như tỉnh Bắc Kạn.


9

Nhưng cơng trình đã góp phần cung cấp nguồn tư liệu quan trọng để tác giả hồn
thành luận án.
Có thể nói, tình hình nghiên cứu về văn hóa nói chung trong đó có phong tục tang
ma ở Việt Nam trong hơn một thế kỷ qua, có thể khẳng định những đóng góp to lớn về
khối lượng cũng như những giá trị của các cơng trình nghiên cứu này. Các cơng trình
này đã phần nào giải mã được các quan niệm về cõi sống cõi chết ẩn sâu dưới các lớp

vỏ của nghi lễ, phong tục, giúp chúng ta hiểu thêm về tâm thức của dân tộc.
Tuy nhiên, những bài viết nêu trên mới nghiên cứu tang ma theo chiều hướng
tiếp cận nhỏ lẻ mà chưa có một nghiên cứu tổng quan và sâu rộng. Mặc dù vậy, phải
khẳng định rằng, những nghiên cứu này đã cung cấp những tư liệu có giá trị để chúng
tơi có được cái nhìn tồn diện về tang ma của người Tày ở Bắc Kạn nói riêng.
Đặc biệt, trong một cơng trình mới xuất bản gần đây (2009) là Tín ngưỡng dân
gian Tày, Nùng của tác giả Nguyễn Thị n [102] là một cơng trình nghiên cứu khá
cơng phu về tín ngưỡng dân gian Tày – Nùng. Trong cơng trình này tác giả đã phân
tích, tổng hợp, phân loại các hình thức sinh hoạt văn hóa tín ngưỡng Tào, Mo, Then,
Pụt,.. trong sự giao lưu tiếp biến giữa các yếu tố văn hóa du nhập và yếu tố bản địa
trong mối liên hệ giao lưu ảnh hưởng qua lại giữa các địa phương, giữa các ngành,
dòng cúng khác nhau. Đặc biệt, tác giả cũng dành một phần khảo cứu riêng về con
đường vào nghề, quá trình hành nghề và những kiêng kỵ của người làm thầy cúng,
mô tả một số nghi lễ phổ biến như đám ma thầy Tào, lễ cấp sắc, lễ mừng thọ,…
được thực hiện bởi các thầy Tào, Mo, Then, Pụt. Có thể nói, đây là một cơng trình
đặc biệt có giá trị, cung cấp những luận cứ khoa học và những dẫn chứng xác đáng
về tín ngưỡng dân gian Tày – Nùng, giúp chúng tôi đối chiếu với nguồn tư liệu khảo
sát điền dã trong quá trình nghiên cứu.
Nếu như ở các cơng trình nêu trên, tang ma khơng phải đối tượng nghiên
cứu chính mà chỉ là đối tượng gián tiếp được nhắc đến, đàm luận khi nói tới các
tín ngưỡng dân gian của dân tộc như trong cuốn: Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày,
Nùng, Thái ở Việt Nam, Các dân tộc Tày - Nùng ở Việt Nam, Phong tục tập quán dân
tộc Tày ở Việt Bắc,…thì ở một số cơng trình tang ma đã trở thành đối tượng nghiên cứu
chính như trong bài viết Nghi lễ tang ma của người Nùng huyện Bạch Thông tỉnh Bắc


10

Kạn [56] Luận văn Thạc sĩ (2002) trường Đại học Văn hóa Hà Nội, và Tang ma của
người Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên [57] Luận án Tiến sĩ Lịch sử của Nguyễn

Thị Ngân (2011) trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội. Tác giả đã phân
tích khá cặn kẽ các nghi lễ tang ma của từng đối tượng. Tang ma của người chết bình
thường là quá trình thực hành của 34 nghi lễ; tang ma của thầy cúng gồm 42 nghi lễ và
của người chết khơng bình thường có thêm một số nghi lễ để hóa giải sự rủi ro, cùng
những ứng xử của gia đình, dịng họ, cộng đồng trước, trong và sau khi đưa ma đến khi
mãn tang. Dù làm ma cho đối tượng nào cùng đều nhờ thầy Tào cầu cúng, dẫn độ linh
hồn người chết về với tổ tiên ở trên trời. Trên cơ sở những hiểu biết như vậy, tác giả cũng
đã tập trung đánh giá hiện trạng các nghi lễ tang ma trong đời sống tinh thần của người
Nùng, để từ đó đưa ra những kiến nghị đề xuất phát huy những yếu tố tích cực trong giai
đoạn hiện nay. Về cơ bản nghi lễ tang ma của người Nùng cũng gần giống với nghi lễ
tang ma của người Tày, do đó chúng tơi có thể tiếp cận các phương pháp nghiên cứu của
cơng trình này.
Bài viết Việc tang lễ cổ truyền của người Tày của Hoàng Tuấn Nam [54].
Đây thực sự là một cơng trình nghiên cứu chuyên sâu về tang ma và các vấn đề liên
quan đến tang ma của người Tày ở Việt Nam. Các vấn đề trong tang ma được đề
cập khá đa dạng với các tiểu mục Việc thờ cúng tổ tiên, Việc chăm sóc mồ mả, Các
nghi lễ chăm sóc cha mẹ lúc tuổi già, Khi người già ốm, Quan niệm về cái chết, Hội
làng – tổ chức quần chúng phụ trách việc tang, Tiến trình một đám tang,…Có thể
nói đây là cơng trình đầu tiên cung cấp được cái nhìn khá toàn diện về tang ma của
người Tày ở Việt Nam từ lúc cha mẹ già yếu - ốm đau – qua đời – đến các nghi lễ
tiễn đưa cha mẹ về trời với tổ tiên. Cơng trình là tập hợp những tư liệu mà tác giả đã
tích lũy được trong nhiều chuyến nghiên cứu, điều tra điền dã trong các làng bản
của người Tày. Hơn nữa bản thân tác giả cũng là một thành viên quan trọng của
cộng đồng ấy. Do đó, những khảo cứu mà tác giả cung cấp càng khẳng định giá trị
khoa học của cơng trình. Tuy nhiên trong cơng trình này tác giả chỉ giới thiệu một
cách chung chung những nghi lễ tang ma đối với người chết bình thường, cịn tang
ma của các đối tượng như thầy cúng, chết thai sản, chết chém, trẻ con,… nghi thức
tiến hành đám tang như thế nào? có gì khác biệt so với đám tang bình thường
khơng? thì chưa được tác giả quan tâm nghiên cứu. Những đặc trưng trong văn hóa
tang ma của người Tày Bắc Kạn cũng chưa được luận giải. Vì vậy, trong luận án



11

của mình, tác giả sẽ cố gắng bổ sung những thiếu sót mà tác giả Hồng Tuấn Nam
chưa đề cập, hoặc có đề cập nhưng chưa được đầy đủ.
Trên cơ sở kế thừa những kết quả của các cơng trình nghiên cứu về những vấn
đề liên quan đến tang ma ở Việt Nam trước đây, cùng với việc nhận biết những
thiếu sót, hạn chế của các cơng trình này, với khả năng nghiên cứu của mình, chúng
tơi cố gắng tìm một hướng đi mới cho đề tài, đó là: Tập trung tìm hiểu và lý giải các
quan niệm liên quan đến tang ma, tiến trình của một đám ma, và các mối quan hệ
văn hóa ứng xử trong tang ma, để từ đó nêu bật được vai trị của thầy Tào trong quá
trình phát triển tộc người và lịch sử văn hóa tộc người Tày ở Bắc Kạn.
1.2. Cơ sở lý thuyết
1.2.1. Một số khái niệm
Lâu nay, nghiên cứu về tang ma đã được nhiều ngành khoa học quan tâm như
Dân tộc học, Xã hội học, Sử học, Văn hóa học,… để có cơ sở lý luận và định hướng
tiếp cận, nghiên cứu phù hợp với đề tài, chúng tôi bắt đầu bằng việc tìm hiểu các
khái niệm Văn hóa tộc người, văn hóa truyền thống, nghi lễ, phong tục, tập quán,
tang ma, ma chay,... và trình bày tiến trình các loại đám ma, để từ đó nhận thức và
có cái nhìn bao quát, cách luận giải về tang ma của người Tày.
Văn hóa tộc người: Là tổng thể những đặc trưng của văn hóa vật thể và phi vật
thể giúp cho việc phân biệt giữa tộc người này với tộc người khác, giữa các nhóm khác.
Chính văn hóa tộc người là nền tảng nảy sinh và phát triển của ý thức tự giác tộc người.
Văn hóa tộc người là tổng thể những yếu tố văn hóa mang tính đặc trưng và đặc thù tộc
người, nó thể hiện chức năng cố kết tộc người làm cho tộc người này khác với tộc
người khác. Những đặc điểm sinh hoạt tộc người hình thành nên truyền thống tộc
người. Những truyền thống này được hình thành lâu dài trong lịch sử gắn liền với hồn
cảnh kinh tế, xã hội và mơi trường địa lý tự nhiên trong đời sống của từng dân tộc,
nhưng sau khi xuất hiện chúng trở nên bền vững và được duy trì lâu bền, thậm chí ngay

cả khi hồn cảnh sống của tộc người có những đổi thay với thời gian.
Việt Nam là quốc gia đa tộc người, với 54 dân tộc anh em, trong đó có 53 dân
tộc thiểu số. Mỗi dân tộc lại có nguồn gốc lịch sử, ngôn ngữ, hoạt động sinh kế, lối
sống, phong tục tập quán riêng… tạo thành những sắc thái văn hóa của một tộc
người và để phân biệt với các tộc người khác, các nhóm khác.


12

Văn hóa truyền thống: Trong tiếng Việt hiện đại Văn hóa truyền thống là một từ
gốc Hán - Việt, do vậy nó khơng thể khơng chịu ảnh hưởng quan niệm của người Trung
Hoa về khái niệm này. Theo Từ điển Từ Hải, từ truyền thống được định nghĩa “truyền
thống là sức mạnh của tập quán xã hội được lưu truyền lại từ lịch sử. Nó tồn tại ở các lĩnh
vực chế độ (chế độ xã hội), tư tưởng, văn hóa, đạo đức. Truyền thống có tác dụng khống
chế vơ hình đến hành vi xã hội của con người. Truyền thống là biểu hiện tính kế thừa của
lịch sử”. Bách khoa thư Từ điển của Liên Xơ (cũ) giải thích khái niệm truyền thống: “Đó
là những yếu tố của di tồn văn hóa, xã hội truyền thống từ đời nay qua đời khác và được
lưu giữ trong các xã hội, giai cấp và nhóm xã hội trong q trình lâu dài; truyền thống
được thể hiện chế định xã hội, chuẩn mực và hành vi, các giá trị, tư tưởng, phong tục tập
quán và lối sống… Truyền thống tác động đến mọi xã hội và tất cả mọi lĩnh vực trong
đời sống xã hội” [86; tr.20].
Nghi lễ: Theo Từ điển tiếng Việt: nghi lễ “là nghi thức và trình tự tiến hành
của một cuộc lễ” [90, tr.866]. Nghi lễ tôn giáo được thực hành thường gắn liền với
một thực thể siêu linh hay một thế giới vơ hình nào đó liên quan đến niềm tin tôn
giáo hoặc do tôn giáo quy định và thường biểu hiện chức năng tâm lý trong đời
sống của tín đồ. Nghi lễ có thể dùng để giải tỏa những nỗi bất an của con người ở
cuộc sống trần tục, cũng có thể đưa con người đến gần hơn với thế lực siêu nhiên
mà họ tin tưởng [91, tr. 130].
Theo Từ điển Tín ngưỡng – Tơn giáo Thế giới và Việt Nam lại cho rằng: Nghi lễ
là hành vi (hoặc hệ thống hành vi) của cá nhân hoặc của tập thể, tuân theo một quy

tắc nhất định, lặp đi lặp lại thuộc một sơ đồ có sẵn (về sau có thể từng thời gian được
điều chỉnh cho thích hợp hơn với tâm lý lớp người sau), nhằm đạt tới một mục đích
tín ngưỡng tơn thờ một thế lực siêu nhiên nào đó. Nghi thức tơn giáo ngun thủy
thường gắn liền với huyền thoại, mang nhiều dấu ấn về hoạt động sinh hoạt của người
thời xưa như chèo đò, leo cây, săn bắt bằng cung nỏ, hú gọi, đốt lửa,… Nhiều nghi
thức gắn liền với việc thay đổi trạng thái của cá nhân hay tập thể như cưới xin, sinh
đẻ, ma chay, trốn tránh lũ lụt, chuyển chỗ ở,… Sau này, nghi thức tôn giáo ngày càng
sử dụng nhiều hình thức văn hóa nghệ thuật như múa hát, ca nhạc, sắc phục, nhịp
điệu, ánh sáng đèn nến, trang trí nội thất, kiến trúc,… để hỗ trợ hiệu quả hoặc tăng
sức cuốn hút. Nghi thức còn được đổi tên thành nghi lễ, tăng thêm tính huyền bí,


13

cung kính [27, tr. 418 – 419). Mặc dù rất đa dạng và phát triển theo nhiều con đường
khác nhau, nhưng nghi lễ dù dưới dạng thô mộc nguyên thủy hay phức tạp trong các
nền văn hóa hiện đại, đều là một tập hợp các yếu tố cơ bản gồm hành động, lễ nhạc,
cầu khấn, hiến tế, nhịn ăn, định hướng và tẩy uế…, mang tính lặp đi lặp lại từ đời này
qua đời khác, con người thực hành chúng và mang truyền thống về hiện tại. Nghi lễ là
quá trình xun thời gian và khơng gian theo đúng chu trình của nó. Nghi lễ khơng
chỉ là của q khứ, mà còn cả hiện tại và tương lai [49, tr.363].
Theo Từ điển Nhân học của tác giả Barfield Thomas khẳng định: “nghi lễ là
các hành động nghi thức diễn ra trong bối cảnh thờ cúng tơn giáo – ví dụ một đại lễ
Thiên Chúa giáo hay một buổi hiến tế tổ tiên. Theo nghĩa này, vốn được các nhà
Nhân học thích thú, nghi lễ khác với thần học vì thực tiễn là để đến với lý thuyết.
Tuy nhiên, thông thường các nhà Nhân học sử dụng nghi lễ để nói về bất kỳ hoạt
động nào có nhiều nghi thức và với mục đích phi bình qn chủ nghĩa. Cách sử
dụng này hàm ý các hoạt động tôn giáo rõ ràng và các sự kiện như lễ hội, làm quen,
hành quân, trò chơi, thăm hỏi. Theo nghĩa rộng nhất, nghi lễ không chỉ liên quan
đến một loạt sự kiện cụ thể đặc biệt nào và cả khía cạnh thể hiện tồn bộ hoạt động

của con người. Trong chừng mực nó chuyển tải các thơng điệp địa vị văn hóa và xã
hội của các cá nhân, bất kỳ một hành động con người nào đều có khía cạnh nghi lễ.
Theo nghĩa này, ngay cả một hành động trần tục như trồng trọt và chế biến thực
phẩm có chung khía cạnh nghi thức với hiến tế và quần chúng” [89, tr.682].
Gắn liền với sinh hoạt xã hội, nghi lễ ra đời như một hiện tượng tất yếu không thể
thiếu trong hoạt động của con người xã hội. Cùng với chuẩn mực đạo đức, nghi lễ góp
phần điều chỉnh mối quan hệ giữa con người với con người, con người với thiên nhiên
và là yếu tố cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của bất kỳ hình thái xã hội nào.
Nhìn nhận về nghi lễ Victor Turner cho rằng: “nghi lễ là hành vi được quy
định có tính chất nghi thức dành cho những dịp, khơng liên quan đến các cơng việc
có tính kỹ thuật hàng ngày mà có quan hệ với những niềm tin vào đấng tối cao hay
sức mạnh thần bí. Và theo nghĩa hẹp, thuật ngữ này chỉ những hoạt động mang tính
bắt buộc, chính thức diễn ra trong bối cảnh thờ cúng tôn giáo. Các nhà nhân học sử


14

dụng thuật ngữ nghi lễ để bao hàm bất kỳ hoạt động nào có mức độ chính thức cao
và có mục tiêu khơng vụ lợi [32, tr. 241-247).
Như vậy, có thể thấy nghi lễ là một tập hợp các hành vi của con người đã được
mã hóa. Hành vi đó mang tính thiêng, được lặp đi lặp lại nhằm tơn thờ thế lực siêu
nhiên nào đó của từng cộng đồng cụ thể, nó được biểu hiện qua việc thờ cúng và có
nhiều dấu ấn gắn với sinh hoạt trong đời sống của người dân. Nghi lễ hình thành
nên một quy định mà tất cả mọi người phải tuân theo. Nghi lễ biểu hiện mọi khía
cạnh của đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con người, do đó, dù ở bất kỳ hình
thái xã hội nào, nghi lễ cũng có tính tộc người.
Nghi lễ và phong tục, tập qn đơi khi xen lẫn vào nhau rất khó có thể phân định
đâu là nghi lễ, đâu là phong tục tập qn. Chính vì vậy, trong phạm vi nghiên cứu của
luận án chúng tôi cũng muốn đề cập đến khái niệm: Phong tục, tập quán.
Phong tục: là thói quen có từ lâu đời, đã ăn sâu vào đời sống xã hội, được mọi người

công nhận và tuân theo [90, tr. 1216]. Phong tục được sinh ra do nhu cầu của cuộc sống,
phát triển và định hình theo sự định hình của xã hội, tạo nên truyền thống.
Tập quán là thói quen hình thành từ lâu đời và đã trở thành nếp trong đời sống xã
hội của một cộng đồng dân cư, được mọi người công nhận và tuân theo [90, tr. 1393].
Như vậy, phong tục, tập quán là toàn bộ những hoạt động sống của con người
hình thành trong quá trình lịch sử tộc người, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác và ai cũng phải tuân theo ở một địa phương nhất định.
Tập quán của cộng đồng chi phối mỗi thành viên sống trong đó. Tập qn khơng
mang tính bắt buộc, cố định như nghi lễ, nghi thức nhưng cũng không tùy tiện theo
hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững
nhưng cũng vận động và biến đổi theo thời gian.
Thuật ngữ Tang ma hay ma chay được dùng để biểu thị toàn bộ các nghi lễ và
niềm tin có quan hệ với người chết. Chữ tang theo nghĩa Hán – Việt là cây dâu, dân
gian thường nói “cuộc đời dâu bể” là để chỉ sự biến đổi tang thương, tiêu đi, mất đi,
tiêu ma. Tang ma chỉ sự mất đi, biến đổi tang thương của đời người [49, tr.335].
H.R.River (1926) đã nhận xét rằng, nhờ những hoàn cảnh nghi lễ cụ thể, người
chết được giao cho thế giới tổ tiên chứ không phải cho thế giới của những người


15

đang sống và như vậy, họ khơng cịn được ni dưỡng cũng như khơng cịn được
nhắc tới. Trong khi thi thể rơi vào tính trạng thối rữa, linh hồn chuyển sang một
trạng thái tồi tệ, bị cả người sống, người chết chối bỏ, chỉ khi cịn xương khơ, cứng
và khơng thể hư hỏng được nữa, người chết sẵn sàng nhập vào thế giới của tổ tiên
[89, tr.191 – 193].
Theo Durkheim, các nghi lễ và sự thờ cúng trong tang ma không chỉ đơn
thuần là thể hiện sự tiếc thương và chuộc tội của người sống đối với người chết, để
bình an tinh thần cho người chết, mà cịn có ngun nhân xã hội, khơng chỉ trong
phạm vi gia đình mà là của toàn xã hội. Chẳng hạn, trong tang ma của hầu hết các

nền văn hóa khơng chỉ những người thân trong gia đình mà cả những người trong
cộng đồng, thậm chí mới quen biết cũng thường khóc lóc, buồn thảm, thậm chí có
những hành động hành xác như tự đâm và cấu xé bản thân, đập đầu vào quan tài, gây
thương tích cho cơ thể…, để thể hiện một sự đau khổ và tuyệt vọng. Đó là những hành
vi chính thức, do phong tục địi hỏi tất cả các thành viên trong cộng đồng, nhất là họ
hàng và gia đình. Bởi khi có người chết, khơng chỉ gia đình bị suy yếu mà toàn cộng
đồng đã mất đi một thành viên, tức một phần sức mạnh. Vào thời điểm đó, thị tộc/cộng
đồng cần thơng qua sự thờ cúng (nghi lễ tang ma) để tập hợp lại, để hồi sinh và để
khẳng định bản thân mình [49, tr. 335-336].
Các nghi lễ tang ma thường rất đa dạng. Tocarev đã tiếp cận nghiên cứu về tang
ma một cách tổng quan, nêu được đặc trưng của tang ma chính là những lễ nghi tơn
giáo, tín ngưỡng và hành động gắn liền với thi thể người chết. Van Gennep phân tích
nghi lễ tang ma theo ý nghĩa của sự chuyển tiếp, nó thể hiện một vấn đề đặc biệt vì
chủ đề của chúng tạo ra một sự chuyển đổi sang một điều kiện khơng được biết tới.
Trái với cách tiếp cận mang tính phổ quát của Van Gennep, Robert Hertz chú trọng
tới các nghi lễ tang ma liên quan đến việc ứng xử với thi thể cải táng. Ơng đã tìm ra ý
nghĩa của các nghi lễ tang ma trong khuân khổ mối quan hệ qua lại giữa ba nhân vật:
những linh hồn của người chết, của người sống và thi thể. Hai trong số các mối quan
hệ này phụ thuộc vào những đặc điểm xã hội mang tính cơ bản – sự mất đi của con
người xã hội và biểu hiện của trật tự xã hội [20, tr.25-26].


16

Hoàng Phê trong từ điển Tiếng Việt coi tang lễ là các nghi lễ chôn người chết
[64, tr.874]. Tang lễ là những lễ nghi được đặt ra để bày tỏ lịng thương xót và kính thờ
người chết. Tang là sự đau buồn khi có người thân mới chết, là lễ chôn cất người chết
(an táng, mai táng), là dấu hiệu (áo, mũ, khăn...) để tỏ lòng thương tiếc người chết.
Trong Một trăm điều nên biết về phong tục Việt Nam, tác giả Tân Việt cho rằng:
Tang ma chắt lọc được phần tinh hoa của đạo hiếu, suy rộng ra là nghĩa của con cháu đối

với cha mẹ, ông bà tổ tiên. Hiếu là cái gốc của mọi đức tính. Người ta thường quan niệm
việc hiếu là việc đối với người chết, nói tới hiếu là chỉ việc tang lễ [94, tr.40].
Sức mạnh của cái chết đã khơi dậy tình cảm và là nguồn gốc của các nghi lễ tang
ma ở khắp nơi. Tang ma là lĩnh vực quan tâm của Luận án, vì vậy trong khn khổ của
nghiên cứu này, chúng tôi sẽ làm rõ khái niệm tang ma và xem xét các thuật ngữ liên
quan như: tang lễ, ma chay, tang ma và nghi lễ tang ma. Theo tác giả Nguyễn Thị Ngân,
cả bốn thuật ngữ nêu trên đều nói đến các nghi lễ tơn giáo và hành động gắn với thi thể
người chết. Tuy nhiên, xét về mặt ngữ nghĩa, các thuật ngữ này hồn tồn khơng giống
nhau. Chẳng hạn như thuật ngữ Tang lễ là chỉ toàn bộ các nghi lễ được tiến hành trong
một đám tang, bao gồm cả nghi thức, lễ vật và trật tự tiến hành tang lễ. Do đó, khi nói
đến tang lễ, người ta thường nhấn mạnh tới các nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng gắn liền với
thi thể người chết, các hình thức bao hiếu, chịu tang, các quy tắc ứng xử của người sống
với người chết có phần bị coi nhẹ. Ma chay là làm ma và làm chay, bao gồm cả nghi lễ
tín ngưỡng, tơn giáo gắn liền với thi thể người chết và các nghi lễ gắn với linh hồn
sau đám tang. Tuy nhiên, khi nói đến ma chay thì ý nghĩa của việc báo hiếu, để tang
của gia đình, cộng đồng có phần bị coi nhẹ. Nghi lễ tang ma là hệ thống các nghi lễ
được thực hiện trong tiến trình tổ chức đám tang. Tang ma là phức hợp các nghi lễ
tơn giáo, tín ngưỡng gắn liền với người chết và các quy tắc ứng xử của gia đình,
cộng đồng người sống dành cho người chết [57, tr.28].
Theo cuốn Các hình thái tơn giáo sơ khai và sự phát triển của chúng của
X.A.Tocarev cho rằng: “Ma chay là khái niệm mang nghĩa rộng, được dùng để biểu thị
tồn bộ các nghi lễ tơn giáo có quan hệ với người chết và những tín ngưỡng gắn liền với
các lễ nghi đó” [79, tr.56]. Các nhà khoa học Dân tộc học Việt Nam cũng đều nhất trí với
khái niệm này khi nhắc lại nó trong cuốn Dân tộc học đại cương và các tác giả còn cho


17

rằng: Thuật ngữ ma chay là hình thức phổ biến rộng rãi ở tất cả các dân tộc và nói chung
các lễ nghi tín ngưỡng gắn liền với người chết chiếm vị trí khá quan trọng trong tất cả các

tơn giáo, từ những hình thái ngun thủy đến những tơn giáo phức tạp nhất [24, tr.186].
Mặc dù nội dung các thuật ngữ tang ma, tang lễ, ma chay, nghi lễ tang ma, tuy có
sự khác nhau ít nhiều, hoặc nghiêng về nghi lễ, hoặc nghiêng về quan hệ ứng xử, song tất
cả đều thống nhất cách tiếp cận về tang ma dưới hai góc độ: Thứ nhất coi tang ma là tồn
bộ các nghi lễ tơn giáo, tín ngưỡng có quan hệ với người chết. Thứ hai coi tang ma là
biểu hiện tình cảm, đạo hiếu, đạo nghĩa và hành động của người sống đối với người chết.
Như vậy, trên cơ sở phân tích, giải mã các thuật ngữ nêu trên, chúng ta thấy ở
đây khái niệm tang ma bao hàm hầu hết các nội dung có liên quan đến đám ma. Bởi
vì, tang ma là phức hợp các mối quan hệ, các nghi lễ tơn giáo, tín ngưỡng gắn liền
với người chết và những quy tắc ứng xử giữa người sống dành cho người chết, giữa
người sống với người sống, giữa cá nhân với cộng đồng thơn xóm, tạo nên mối giao
ước và những quy tắc không chỉ liên quan tới người chết mà rằng buộc người sống
với nhau. Do đó, khi tiếp cận nghiên cứu, chúng tơi lựa chọn nghiên cứu tang ma.
Vì nghiên cứu tang ma khơng chỉ dừng lại ở nghi lễ làm ma, mà bao hàm hệ thống
các nghi lễ từ khi người thân tắt thở đến khi mãn tang, các lễ thức tiến hành, việc
chọn đất, cách thức mai táng, toàn bộ các quy tắc ứng xử của gia đình, dịng họ,
cộng đồng dành cho người chết,… Tuy nhiên, trong mỗi khái niệm tang lễ, nghi lễ
tang ma, ma chay đều có những chức năng riêng, chẳng hạn khi nghiên cứu tang lễ,
nghi lễ tang ma nội dung chỉ bó hẹp ở phạm vi các nghi lễ trong đám tang, trong khi
nghiên cứu về ma chay thì mang một ý nghĩa rộng hơn gồm cả đám ma và đám
chay. Song trong thực tế không phái đám ma nào cũng phải tiến hành chay. Trường
hợp làm chay chỉ áp dụng với các đối tượng chết nhằm vào ngày, giờ xấu, hoặc
những ngày tiếp theo thầy Tào xem khơng có ngày giờ nào tốt để đưa ma, buộc
người ta phải làm lễ chôn cất thi hài trước, sau đó tiến trình các nghi lễ đám ma vẫn
diễn ra như bình thường. Thậm chí trước đây có những gia đình do q khó khăn về
kinh tế, khơng thể lo tang ma cho cha mẹ được, đành phải mang chơn cất trước, đợi
đến khi có điều kiện mới tổ chức đám chay cho cha mẹ (có thể đợi 1 năm, 5 năm
hay 10 năm phụ thuộc vào điều kiện kinh tế của gia đình). Vì những lý do như vậy,
nên chúng tôi lựa chọn tiếp cận nghiên cứu tang ma.



×