Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH TỔNG HỢP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.07 KB, 22 trang )

LÝ LUẬN CHUNG VỀ HẠCH TOÁN TIÊU THỤ SẢN PHẨM TRONG
CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT VÀ KINH DOANH TỔNG HỢP
I. Đặc điểm của nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá và vai trò của kế toán nghiệp vụ
tiêu thụ hàng hoá và thành phẩm.
1. Đặc điểm của nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá.
Tiêu thụ là giai đoạn cuối cùng của sản xuất kinh doanh, là yếu tổ quyết định
sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp.
Tiêu thụ sản phẩm thực hiện mục đích của sản xuất và tiêu dùng, đưa sản
phẩm từ nơi sản xuất đến nới tiêu dùng. Nó là khâu lưu thông hàng hoá, là cầu nối
trung giangiẵ một bên là sản xuất và phân phối, một bên là tiêu dùng. Với mỗi cơ
chế quản lý khác nhau, công tác tiêu thụ sản phẩm được thực hiện bằng nhiều hình
thức khác nhau. Cụ thể là:
Trong cơ chế quản lý tập trung bao cấp, Nhà nước quản lý kinh tế chủ yếu
bằng mệnh lệnh, các cơ quan hành chính quản lý rất sâu vào công việc sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng lại không trịu trách nhiệm về công việc của
mình. Hoạt động tiêu thụ sản phẩm trong thời kỳ này, chủ yếu là giao nộp sản
phẩm cho các đơn vị theo địa chỉ và giá cả do Nhà nước quy định sẵn.
Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp phải tự mình giải quyết mọi
vấn đề liên quan đến quá trình sản xuất, kinh doanh của mình nên việc tiêu thụ
được thực hiện dưới nhiều phương thức, hình thức khác nhau. Nhằm tăng doanh
thu và lợi nhuận để tồn tại và phát triển.
Tiêu thụ trong các doanh nghiệp, chủ yếu là tiêu thụ các sản phẩm, hàng hoá
do doanh nghiệp sản xuất ra từ quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của mình
hoặc các sản phẩm do liên doanh liên kết, do nhận đại lý, ký gửi, v.v...
Tại các doanh nghiệp quá trình tiêu thụ sản phẩm được bắt đầu từ khi doanh
nghiệp chuyển giao sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, lao vụ cho khách hàng đồng thời
khách hàng phải trả cho doanh nghiệp một khoản tiền tương ứng với giá bán của
sản phẩm hàng hoá, lao vụ, dịch vụ, do hai bên thoả thuận.
Quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá được coi là chấm dứt khi quá trình
thanh toán giữa người mua và người bán diến ra quyền sở hữu hàng hoá được
chuyển tư người bán sang người mua.


Quá trình này là khâu cuối cùng, là cơ sở để thanh toán và xác định lỗ lãi.
Từ đó xác định thu nhấp và phân phối thu nhập.
Hàng hoá có thể luân chuyển trong nội bộ doanh nghiệp giữa các đơn vị
thành viên hoặc luân chuyển ra ngoài để tiêu thụ. Việc xác định đúng đắn hàng hoá
được coi là hàng bán có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý tiêu thụ hàng
hoá. Hàng được coi là bán phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Hàng hoá phải được tiêu thụ thông qua phương thức mua, bán và thanh
toán tiền hành theo một thể thức nhất định.
- Phải có sự chuyển giao quyền sở hữu về hàng hoá.
- Hàng bán ra phải là hàng đã được hạch toán, hàng mua trước đó hoặc hàng
sản xuất ra để bán.
Bên cạnh đó một số trường hợp được coi là hàng hoá như:
- Hàng hoá xuất dùng để trả lương, trả thưởng cho công nhân trong doanh
nghiệp.
- Hàng hoá bị hao hụt trong hay ngoài định mức. Theo hợp đồng bên mua
chịu.
Ngoài các trường hợp trên thì hàng hoá không được coi là hàng bán.
1.1. Các phương thức tiêu thụ hàng hoá.
Do sự đa dạng của nền kinh tế thị trường, quá trình tiêu thụ cũng rất đa
dạng. Nó tuỳ thuộc vào hình thái thực hiện giá trị của hàng hoá từ nơi sản xuất đến
nơi tiêu dùng.
Các phương thức bán như: bán buôn, bán lẻ, đại lý...
1.1.1. Bán buôn.
Bán buôn là phương thức bán hàng cho các tổ chức kinh tế, các đơn vị
thương mại, các đơn vị sản xuất để họ tiếp tục chuyển bản cho người tiêu dùng hay
tiếp tục gia công chế biến.
Đặc điểm chủ yếu của phương thức bán buôn là khối lượng hàng hoá giao
dịch lớn, bán theo từng lô nhưng mặt hàng không phong phú, đa dạng như trong
bán lẻ. Bán buôn được thực hiện qua 2 phương thức:
a. Bán buôn qua kho:

Là phương thức bán hàng mà hàng bán được xuất ra từkho bản quản của
doanh nghiệp. Trong phương thức này có 2 hình thức:
- Bán buôn qua kho theo hình thức chuyển hành: Theo hình thức này, định
kỳ doanh nghiệp xuất kho hàng hoá để gửi cho người mua băng phương tiện vận
chuyển của doanh nghiệp hay thuê ngoài, chuyển đến giao cho bên mua theo thoả
thuận trong hợp đồng đã được ký kết, chi phí vận chuyển do bên bán hoặc bên mua
dựa theo thoả thuận trước. Hàng hoá sau khi chuyển bán vẫn thuộc quyền sở hữu
của doanh nghiệp. Số hàng này được xác định là tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận
được tiền do bên mua thanh toán hoặc nhận được giáy báo chấp nhận thanh toán
của bên mua.
- Bán buôn qua kho theo hình thức giao hàng trực tiếp. Theo hình thức này,
bên mua cử đại diện đến kho của doanh nghiệp để nhận hàng của doanh nghiệp
xuất kho hàng bán giao trực tiếp cho đại diện bên mua. Sau khi nhận đủ hàng bên
mua thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ. Thì hàng hoá được xác định là đã tiêu thụ.
b. Bán buôn chuyển thẳng.
Các doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng không đưa
nhập về kho của mình mà chuyển thẳng cho bên mua. Phương thức này được thực
hiện qua hai hình thức:
- Bán buôn chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng: theo hình thức này
doanh nghiệp thương mại sau khi mua hàng, nhận hàng bằng phương tiện vận
chuyển của mình hay thuê ngoài cghuyển hàng đến giao cho bên mua ở một địa
điểm đã thoả thuận. Trong trường hợp này, hàng hoá vẫn thuộc quyền sở hữu của
doanh nghiệp. Hàng chỉ được xác định là tiêu thụ khi doanh nghiệp nhận được tiền
thanh toán hoặc chấp nhận thanh toán của bên mua.
- Bán giao tay ba là phương thức của doanh nghiệp thương mại và bên mua
đều đến nhận hàng tại kho của nhà cung cấp.
1.1.2. Bán lẻ
Là phương thức bán hàng hoá được cung cấp trực tiếp cho người tiêu dùng.
- Đặc điểm của bán lẻ là khối lượng hàng bán nhỏ, nhưng chủng loại mẫu
mã phong phú, đa dạng. Hàng hoá khi đã được bán thì tách khỏi lưu thông và đi

vào tiêu dùng, vì vậy giá trị hàng hoá đã được thực hiện hoàn toàn.
Thời điểm xác định là hàng hoá được tiêu thụ là khi nhận được báo cáo bán
hàng của mậu dịch viên.
- Các phương thức bán lẻ :
+ Bán lẻ trực tiếp: là hình thức bán truyền thống. Trong đó mậu dịch viên tại
quầy vừa chịu trách nhiệm vật chất về hàng hoá vừa thu tiền bán hàng, vì vậy để
đảm bảo an toàn cho hàng và tiền khi cuối ca hay cuối ngày bán hàng mậu dịch
viên phải nộp toàn bộ số tiền thu được cho thủ quỹ. Theo bảng kê giấy nộp tiền.
Sau đó kiểm kê số hàng còn tồn tại quầy, xác định số lượng hàng xuất bán, làm cơ
sở cấp báo cáo bán hàng (phản ánh số đã được thực hiện) trên cơ sở đó xác định
tiền thừa, thiếu khi bán hàng.
- Hình thức bán tự phục vụ: Khách hàng tự chọn hàng hoá, trước khi mang
hàng hoá ra khỏi cửa hàng thì mang đến bộ phận thu tiền để thanh toán, nhân viên
thu tiền cấp hoá đơn bán hàng, thu tiền của khách hàng hết ca hoặc hết ngày nộp
tiền cho thủ quỹ và lập báo bán hàng.
- Hình thức bán trả góp: Khi bán hàng doanh nghiệp chỉ thu được một phần
tiền nhất định ban đầu. Số còn lại người mua trả dần, nhưng người mua phải chịu
lãi trả góp. Giá bán trả góp bao giờ cũng lớn hơn giá bán thông thường phần chênh
lệch chính là lãi trả góp phải thu.
1.1.3. Phương thức gửi hàng đại lý - ký gửi
- Theo phương thức này đơn vị có hàng gửi, chuyển hàng cho đơn vị nhận
bán đại lý, ký gửi bán hộ và thanh toán tiền hoa hồng cho bên nhận bán. Thông báo
đã bán được hàng hay trả tiền về hàng nhận bán thì hàng được xác định là đã tiêu
thụ. Chứng từ bán hàng là bảng thanh toán hàng đại lý.
1.2. Các phương pháp xác định giá mua của hàng bán.
- Giá bán hàng đóng vai trò quyết định trong quá trình tiêu thụ hàng hoá. Nó
giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường: Vì vậy ,
mỗi doanh nghiệp cần xác định cho mình những chính sách giá phù hợp để thu hút
được khách hàng và sản xuất kinh doanh được có lãi. Bên cạnh việc xác định giá
bán cho phù hợp thì việc xác định giá mua của hàng bán.

- Việc tính giá mua của hàng bán sẽ rất đơn giản khi tất cả các đơn vị hàng
hoá được nhập cùng một đơn giá ổn định từ kỳ này sang kỳ khác. Tuy nhiên khi
các loại hàng hoá giống nhau được nhập với những đơn giá khác nhau thì phát sinh
vấn đề là sử dụng đơn giá nào để tính giá mua của hàng hoá tuỳ thuộc vào yếu cầu
của công tác quản lý và cách đánh giá hàng hoá, phản ánh trang tài khoản và trang
sổ kế toán mà doanh nghiệp vận dụng cách tính giá mua của hàng hoá xuất bán.
- Có 4 phương pháp thường được sử dụng:
+ Phương pháp gía thực tế đích danh.
+ Phương pháp bình quân gia quyền.
+ Phương pháp nhập trước xuất trước.
+ Phương pháp nhập sau xuất trước.
a) Phương pháp giá thực tế đích danh.
Theo phương pháp này, các doanh nghiệp này phải sớm nắm bắt được các
đơn vị hàng hoá tồn kho và các đơn vị hàng hoá xuất bán. Thuộc những lần mua
nào và dùng đơn giá của những lần mua đó để xác định giá vốn của hàng hoá tồn
kho cuối và trị giá mua của hàng hoá xuất bán.
Đây là phương pháp hợp lý nhất trong các phương pháp vì nó phản ánh giá
trị thực chất nhất. Tuy nhiên phương pháp này chỉ thích hợp với các doanh nghiệp
kinh doanh ít mặt hàng, ít chủng loại và hàng có giá trị cao.
b) Phương pháp bình quân gia quyền
Phương pháp này được áp dụng trong trường hợp hàng tồn kho và hàng xuất
bán không xác định được là mua lần nào. Vì vậy phải phân tích đơn giá bình quân
của từng loại hàng hoá.
c) Phương pháp nhập trước xuất trước.
Theo phương pháp này, giả định các đơn vị hàng hoá tồn kho đầu kỳ sẽ được
xuất bán trước tiên. Số hàng bán tiếp theo, giả định chúng được mua theo thứ tự.
Như vậy hàng tồn kho cuối kỳ bao gồm những đơn vị hàng hoá mua vào sau cùng.
Tuy nhiên trong thực tế sự vận động của hàng hoá không theo thứ tự nhập trước
xuất trước.
d) Phương pháp nhập sau xuất trước

Phương pháp nhập sau xuất trước được giả định hàng hoá xuất bán là những
hàng hoá được mua sau cùng và cứ như vậy hàng hoá tồn kho cuối kỳ, là những
hàng hoá được mua laau nhất, cũ nhất. Trị giá vốn của hàng hoá mua vào sau cũng
được tính cho trị giá vốn của hàng bán. Trên thực tế hàng hoá không xác định theo
thứ tự nhập sau xuất trước.
Bốn phương pháp định giá trên đều được thừa nhận. Trong điều kiện giá cả
ổn định không thay đổi từ kỳ này sang kỳ khác thì cả bốn phương pháp sẽ cho
cùng một kết quả. Tuy nhiên trong điều kiện thị trường không ổn định giá cả lên
xuống thất thường thì mỗi phương pháp sẽ cho mỗi kết quả khác nhau và như vậy
mỗi phương pháp đều có ảnh hưởng nhất định đến báo cáo tài chính của doanh
nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp lựa chọn phương pháp nào đều phải công khai trong
bảng thuyết minh báo cáo tài chính của doanh nghiệp và phải nhất quán giữa các
kỳ kế toán, giúp cho việc kiểm tra, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh được
chính xác.
1.3. Thời điểm ghi chép hàng bán
Trong các doanh nghiệp thương mại thời điểm ghi chép vào sổ sách kế toán
về hàng hoá là thời điểm hàng hoá được xác định là bán, thời điểm đó được quy
định theo từng phương thức, hình thức bán hàng sau:
- Bán buôn qua kho, bán vận chuyển thẳng theo theo hình thức giao hàng
trực tiếp: Thời điểm ghi bán hàng là khi đại diện been mua ký nhận đủ hàng và
thanh toán tiền hoặc chấp nhận nợ.
- Bán buốn qua kho và bán buôn chuyển thẳng theo hình thức chuyển hàng:
Thời điểm ghi chép hàng bán là khi nhận đủ tiền của bên mua hoặc bên mua xác
nhận là đã nhận đủ hàng và chấp nhận thanh toán.
- Bán lẻ hàng hoá: Thời điểm ghi chép hàng bán là thời điểm nhận được báo
cáo bán hàng của mậu dịch viên.
- Phượng thức gửi đại lý: Thời điểm ghi chép hàng bán là thời điểm nhận
ddược tiền do bên nhận đại lý thanh toán hoặc chấp nhận nợ.
2. Nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá.
- Kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá có ý nghĩa rất quan trọng trong quá

trình phản ánh thu thập và xử lý, cung cấp thông tin cho chủ doanh nghiệp, giúp
doanh nghiệp lựa chọn phương án kinh doanh phù hợp để mang lại hiệu quả cao.
Vì vậy, nhiệm vụ của kế toán nghiệp vụ tiêu thụ hàng hoá sản phẩm gồm:
+ Ghi chép phản ánh đầy đủ tình hình bán hàng của doanh nghiệp. Ngoài kế
toán tổng hợp ghi trên các tài khoản của kế toán, kế toán tiêu thụ cần phải theo dõi
chi tiết. Việc ghi chép theo số lượng, chủng loại, theo từng đơn vị trực thuộc, giám
sát hàng ở mọi trạng thái: Hàng đang đi đường, hàng đang ở trong kho, hàng ở
quấy.
+ Xác định chính xác thời điểm hàng được coi là tiêu thụ, phản ánh doanh
thu.
+ Xác định đúng và tập hợp đầy đủ giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng phát
sinh trong quá trình tiêu thụ cũng như chi phí quản lý doanh nghiệp. Phân bổ chi
phí hợp lý và giúp xác định kết quả kinh doanh và xác định các khoản phải nộp
ngân sách.
+ Kiểm tra tình hình tiêu thụ bán hàng và quản lý tiền bán hàng. Đối với
hàng hoá bán chịu cần phải mở sổ sách chi tiết theo từng khách hàng, từng lô hàng,
số tiền nợ và thời hạn phải trả.
+ Tổ chức tốt công tác quản lý chứng từ ban đầu và trình tự luân chuyển
chứng từ, đảm bảo việc kiểm tra và ghi sổ kế toán được thuận tiện, tránh trùng lặp,
bỏ sót.
+ Phản ánh tình hình thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch tiêu thụ; mức bán ra,
doanh thu bán. Các chỉ tiêu kế toán phải phù hợp với các chỉ tiêu kế hoạch để đảm
bảo tính chất có thể so sánh được khi xem xét.
Đảm bảo thực hiện tốt các nhiệm vụ trên giúp cho các nhà quản lý nắm bắt
kịp thời, nhanh chóng các quá trình vận động của hàng hoá, tiền tệ nhằm đưa ra

×