Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.19 KB, 27 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CƠ BẢN VỀ KẾ TOÁN CHI PHÍ SẢN XUẤT VÀ TÍNH GIÁ
THÀNH SẢN PHẨM TRONG DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT
1.1. Sự cần thiết của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm
trong doanh nghiệp sản xuất
Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người gắn liền với quá trình sản xuất. Nền
sản xuất xã hội của bất kì phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu
hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Nói cách khác, quá trình sản xuất hàng
hoá là quá trình kết hợp ba yếu tố: Tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động.
Quá trình sản xuất hàng hoá cũng chính là quá trình tiêu hao của chính bản thân các yếu tố
trên. Như vậy, để tiến hành sản xuất hàng hoá, người sản xuất phải bỏ chi phí về thù lao
lao động, về tư liệu lao động, đối tượng lao động. Vì thế, sự hình thành nên các chi phí sản
xuất để tạo ra giá trị sản phẩm sản xuất là tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của người sản xuất.
1.1.1. Chi phí sản xuất
1.1.1.1. Khái niệm chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất - kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp bỏ ra liên quan đến hoạt động sản xuất -
kinh doanh trong một thời kì nhất định (tháng, quý, năm).
Thực chất, chi phí là sự dịch chuyển vốn - chuyển dịch giá trị của các yếu tố sản
xuất vào các đối tượng tính giá (sản phẩm, lao vụ, dịch vụ), là biểu hiện bằng tiền của toàn
bộ hao phí mà doanh nghiệp phải tiêu dùng trong một kì để thực hiện quá trình sản xuất và
tiêu thụ sản phẩm. Để hiểu rõ hơn về chi phí cần phân biệt chi phí và chi tiêu:
Chi phí là sự biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động
vật hoá cần thiết cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp phải chi ra
trong một kì kinh doanh. Như vậy, chỉ được tính là chi phí của một kì hạch toán những hao
phí về tài sản liên quan đến khối lượng sản phẩm sản xuất trong kì chứ không phải mọi
khoản chi ra trong kì hạch toán.
Chi tiêu là sự giảm đi đơn thuần các loại vật tư, tài sản, tiền vốn của doanh nghiệp,
bất kể nó được dùng vào mục đích gì. Tổng số chi tiêu trong kì của doanh nghiệp bao gồm
chi tiêu cho quá trình cung cấp (mua sắm vật tư, hàng hoá…), chi tiêu cho quá trình sản
xuất kinh doanh (chi cho sản xuất, chế tạo sản phẩm…) và chi cho quá trình tiêu thụ (chi


vận chuyển, bốc dỡ, quảng cáo).
Như vậy chi tiêu là cơ sở phát sinh của chi phí, không có chi tiêu thì không có chi
phí. Tổng số chi phí phát sinh trong kì của doanh nghiệp bao gồm toàn bộ giá trị tài sản
hao phí hoặc tiêu dùng hết cho quá trình sản xuất kinh doanh tính vào kì này. Chi phí và
chi tiêu còn khác nhau về thời gian, có những khoản chi tiêu kì này nhưng chưa được tính
vào chi phí (chi mua nguyên vật liệu về nhập kho nhưng chưa được sử dụng…) và có
những khoản tính vào chi phí kì này nhưng thực tế chưa chi tiêu (chi phí trích trước). Sở dĩ
có sự khác biệt giữa chi tiêu và chi phí như vậy là do đặc điểm, tính chất vận động và
phương thức dịch chuyển giá trị của từng loại tài sản vào quá trình sản xuất và yêu cầu kĩ
thuật hạch toán chúng.
Khác với khái niệm chi phí sản xuất của kế toán Việt Nam, đối với kế toán Mỹ, chi
phí sản xuất được hiểu là khoản hao phí bỏ ra để thu được một số của cải vật chất hay dịch
vụ. Khoản hao phí này có thể là tiền mặt chi ra, tài sản chuyển nhượng hay dịch vụ hoàn
thành…được đánh giá trên căn cứ tiền mặt. Còn theo quan điểm của kế toán Pháp, chi phí
sản xuất là toàn bộ số tiền mà doanh nghiệp bỏ ra để phục vụ cho quá trình sản xuất. Chi
phí bao gồm: chi phí mua nguyên vật liệu, hàng hoá và các khoản dự trữ khác.
1.1.1.2. Phân loại chi phí sản xuất
Chi phí sản xuất kinh doanh có rất nhiều loại, nhiều khoản khác nhau cả về nội
dung, tính chất, công dụng, vai trò, vị trí…đối với quá trình kinh doanh. Để thuận lợi cho
công tác quản lí và hạch toán, cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Hiện nay Công
ty Việt Hà đang áp dụng cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản
phẩm.
Căn cứ vào ý nghĩa của chi phí trong giá thành sản phẩm và để thuận tiện cho việc
tính giá thành toàn bộ, chi phí được phân chia theo khoản mục. Theo quy định hiện hành,
giá thành sản phẩm ở Việt Nam bao gồm 5 khoản mục chi phí:
- Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp: phản ánh toàn bộ chi phí nguyên vật liệu chính,
phụ, nhiên liệu… tham gia trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện lao
vụ, dịch vụ.
- Chi phí nhân công trực tiếp: gồm tiền lương, phụ cấp lương và các khoản trích cho
các quỹ BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỉ lệ với tiền lương phát sinh.

- Chi phí sản xuất chung: là những chi phí phát sinh trong phạm vi phân xưởng sản
xuất (trừ chi phí vật liệu và chi phí nhân công trực tiếp).
- Chi phí bán hàng: bao gồm toàn bộ những chi phí phát sinh liên quan đến tiêu thụ
sản phẩm, hàng hoá, lao vụ.
- Chi phí quản lí doanh nghiệp: bao gồm những chi phí phát sinh liên quan đến quản
trị kinh doanh và quản lí hành chính trong doanh nghiệp.
Theo Thông tư 89/2002/TT-BTC ngày 9/10/2002 hướng dẫn kế toán thực hiện 04
chuẩn mực kế toán ban hành theo Quyết định số 149/2001/QĐ-BTC, ngày 31/12/2001 của
Bộ trưởng Bộ Tài chính, chi phí sản xuất chung được phân loại theo mối quan hệ với sản
lượng sản phẩm sản xuất ra. Cụ thể như sau:
- Chi phí sản xuất chung cố định: là chi phí sản xuất gián tiếp không thay đổi theo
sản lượng sản phẩm sản xuất ra như chi phí khấu hao TSCĐ và chi phí bảo dưỡng máy
móc thiết bị, chi phí hành chính trong phân xưởng.
- Chi phí sản xuất chung biến đổi: là chi phí sản xuất gián tiếp thay đổi trực tiếp hoặc
gần như trực tiếp theo số lượng sản phẩm dở dang. Ví dụ như: Chi phí ngyên vật liệu trực
tiếp, Chi phí nhân công trực tiếp, chi phí dịch vụ mua ngoài.
Ngoài cách phân loại chi phí theo khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm. Chi
phí còn có thể được phân loại theo những cách sau:
- Phân loại theo yếu tố chi phí.
- Phân loại theo quan hệ giữa chi phí sản xuất và khối lượng công việc sản phẩm hoàn
thành.
- Phân loại theo lĩnh vực hoạt động kinh doanh.
1.1.2. Giá thành sản phẩm
1.1.2.1. Khái niệm giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản hao phí về lao
động sống và lao động vật hoá có liên quan đến khối lượng công tác, sản phẩm lao vụ đã
hoàn thành.
Chỉ tiêu giá thành phải gắn liền với từng loại sản phẩm, được tính đối với số lượng
sản phẩm đã hoàn thành khi kết thúc toàn bộ quy trình sản xuất, hay một giai đoạn sản xuất
(bán thành phẩm) chứ không tính cho thành phẩm còn nằm trên dây chuyền sản xuất.

Giá thành sản phẩm là một phạm trù của sản xuất hàng hoá, phản ánh lượng giá trị
của những hao phí lao động sống và lao động vật hoá đã thực sự chi ra cho sản xuất và tiêu
thụ sản phẩm. Trong giá thành sản phẩm chỉ bao gồm những chi phí tham gia trực tiếp
hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất, tiêu thụ phải được bồi hoàn để tái sản xuất ở doanh
nghiệp mà không bao gồm những chi phí phát sinh trong kì kinh doanh của doanh nghiệp.
Những chi phí đưa vào giá thành sản phẩm phải phản ánh được giá trị thực của các tư liệu
sản xuất tiêu dùng cho sản xuất, tiêu thụ và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù
đắp giản đơn hao phí lao động sống. Mọi cách tính toán chủ quan, không phản ánh đúng
các yếu tố giá trị trong giá thành đều có thể dẫn đến việc phá vỡ các quan hệ hàng - tiền tệ,
không xác định được hiệu quả kinh doanh và không thực hiện được tái sản xuất giản đơn
và tái sản xuất mở rộng.
1.1.2.2. Phân loại giá thành sản phẩm
Để đáp ứng yêu cầu của quản lí, hạch toán và kế hoạch hoá giá thành cũng như yêu
cầu xây dựng giá cả hàng hoá, giá thành được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều phạm vi
tính toán khác nhau. Theo phạm vi phát sinh chi phí, giá thành được phân loại như sau:
- Giá thành sản xuất (còn gọi là giá thành công xưởng) là chỉ tiêu phản ánh tất cả
những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân
xưởng sản xuất.
- Giá thành tiêu thụ (còn gọi là giá thành toàn bộ hay giá thành đầy đủ) là chỉ tiêu
phản ánh toàn bộ chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá
thành tiêu thụ được tính theo công thức:
Giá thành toàn bộ
của sản phẩm
=
Giá thành sản xuất
của sản phẩm
+
Chi phí quản lí
doanh nghiệp
+

Chi phí
bán hàng
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lí biết được kết quả kinh doanh
(lãi, lỗ) của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Ngoài ra, giá
thành còn có thể được phân loại theo thời điểm tính và nguồn số liệu để tính.
1.1.3. Mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm
Quá trình sản xuất là một quá trình thống nhất bao gồm hai mặt: Mặt hao phí sản
xuất và mặt kết quả sản xuất. Tất cả những khoản chi phí (phát sinh trong kì, kì trước
chuyển sang) và các chi phí trích trước liên quan đến khối lượng sản phẩm, lao vụ, dịch vụ,
đã hoàn thành trong kì sẽ tạo nên chỉ tiêu giá thành sản phẩm. Nói cách khác, giá thành sản
phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ các khoản chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra bất kì ở
kì nào nhưng có liên quan đến khối lượng công việc, sản phẩm đã hoàn thành trong kì.
Có thể phản ánh mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm thông qua
sơ đồ sau:
Chi phí sản xuất dở dang
đầu kì
CHI PHÍ SẢN XUẤT PHÁT SINH TRONG KÌ
TỔNG GIÁ THÀNH SẢN PHẨM, DỊCH VỤ HOÀN
THÀNH
Chi phí sản xuất dở dang
cuối kì

Qua sơ đồ ta thấy: AC = AB + BD – CD
Tổng giá thành = Chi phí sản + Chi phí sản - Chi phí sản
A C
C C
B D
sản phẩm hoàn
thành
xuất dở dang

đầu kì
xuất phát sinh
trong kì
xuất dở dang
cuối kì
Khi giá trị sản phẩm dở dang (chi phí sản xuất dở dang) đầu kì và cuối kì bằng
nhau, hoặc các ngành sản xuất không có sản phẩm dở dang thì tổng giá thành sản phẩm
bằng tổng chi phí phát sinh trong kì. Trong mối quan hệ chặt chẽ đó, chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm cũng có những điểm khác nhau cơ bản sau:
Về thời gian: giá thành sản phẩm chỉ gắn với một thời kì nhất định còn chi phí sản
xuất thì liên quan đến nhiều kì như chi phí kì trước chuyển sang, chi phí kì này phát sinh
không bao gồm các chi phí chuyển sang kì sau.
Về sản phẩm: chi phí sản xuất không gắn trực tiếp với số lượng sản phẩm hoàn
thành trong kì, còn giá thành được tính trên số lượng bán thành phẩm hay sản phẩm hoàn
thành.
Về giá trị: Tổng giá thành sản phẩm không bao gồm những chi phí sản xuất đã chi
ra trong kì (chi phí chờ phân bổ ở kì sau) song giá thành sản phẩm lại tính cả chi phí đã chi
ở kì trước được phân bổ cho kì này. Tổng chi phí sản xuất phát sinh trong kì khác với tổng
giá thành sản phẩm của các sản phẩm hoàn thành trong kì.
1.1.4. Ý nghĩa và nhiệm vụ của kế toán chi phí và tính giá thành sản phẩm trong
doanh nghiệp
Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai chỉ tiêu kinh tế cơ bản phản ánh chất
lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lí tốt chi phí sản xuất và giá
thành sản phẩm là yêu cầu quan trọng đối với các doanh nghiệp trong môi trường kinh tế
cạnh tranh hiện nay. Việc tính đúng, đủ giá thành giúp cho phản ánh đúng tình hình thực
hiện và kết quả thực hiện giá thành của doanh nghiệp, xác định đúng đắn kết quả kinh
doanh trong kì.
Trong một phạm vi nhất định giá thành vừa mang tính khách quan vừa mang tính
chủ quan. Cần phải xem xét giá thành trên nhiều góc độ khác nhau để sử dụng chỉ tiêu giá
thành một cách hiệu quả nhất.Tính khách quan của giá thành chính là tính tất yếu của sự di

chuyển và kết tinh giá trị tư liệu sản xuất và sức lao động trong sản phẩm. Nhưng giá thành
lại là một đại lượng được tính toán trên cơ sở chi phí sản xuất chi ra trong kì nên nó mang
những yếu tố chủ quan nhất định. Từ đó cho thấy, giá thành sản phẩm là chỉ tiêu chất
lượng tổng hợp phản ánh những tiêu hao trong quá trình sản xuất sản phẩm nhưng cũng
đồng thời là thước đo năng lực và trình độ quản lí kinh tế của doanh nghiệp.
Từ những ý nghĩa đó, nhiệm vụ của kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản
phẩm là phải ghi chép và phản ánh một cách đầy đủ, trung thực về mặt lượng chi phí sản
xuất đồng thời phải tính toán chi phí theo đúng nguyên tắc, xác định đúng đối tượng tập
hợp chi phí, phản ánh chi phí theo đúng thời điểm, địa điểm phát sinh. Để tính đúng và tính
đủ giá thành, kế toán phải dựa trên cơ sở của việc tính chính xác chi phí sản xuất và tính đủ
mọi hao phí bỏ ra theo đúng chế độ quy định. Tính đủ giá thành cũng đồng nghĩa với việc
loại bỏ những chi phí không liên quan đến giá thành sản phẩm.
1.2. Kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong doanh nghiệp
sản xuất
1.2.1. Kế toán chi phí sản xuất
1.2.1.1. Đối tượng và phương pháp tập hợp chi phí sản xuất
Tổ chức hạch toán quá trình sản xuất bao gồm hai giai đoạn kế tiếp nhau. Đó là giai
đoạn hạch toán chi tiết chi phí sản xuất phát sinh theo từng sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn
đặt hàng, giai đoạn công nghệ, phân xưởng… và giai đoạn tính giá thành sản phẩm, chi tiết
sản phẩm, sản phẩm theo đơn đặt hàng đã hoàn thành…theo đơn vị tính giá thành quy
định. Việc phân chia này xuất phát từ yêu cầu quản lí, kiểm tra và phân tích chi phí, yêu
cầu hạch toán kinh doanh nội bộ, theo đặc điểm quy trình công nghệ của từng doanh
nghiệp và yêu cầu tính giá thành sản phẩm theo đơn vị tính giá thành quy định. Có thể nói,
việc phân chia quá trình hạch toán thành hai giai đoạn là do sự khác nhau cơ bản về giới
hạn tập hợp chi phí trong hạch toán chi phí sản xuất - tức là đối tượng hạch toán chi phí sản
xuất - và sản phẩm hoàn thành cần phải tính giá thành một đơn vị - tức là đối tượng tính
giá thành. Như vậy, xác định đối tượng hạch toán chi phí sản xuất chính là việc xác định
giới hạn tập hợp chi phí mà thực chất là xác định nơi phát sinh chi phí và nơi chịu chi phí.
Phương pháp hạch toán chi phí sản xuất là một phương pháp hay hệ thống các
phương pháp được sử dụng để tập hợp và phân loại các chi phí sản xuất trong phạm vi giới

hạn của đối tượng hạch toán chi phí. Về cơ bản, phương pháp hạch toán chi phí bao gồm
các phương pháp hạch toán chi phí theo sản phẩm, theo đơn đặt hàng, theo giai đoạn công
nghệ, theo phân xưởng, theo nhóm sản phẩm v.v.. Nội dung chủ yếu là kế toán mở thẻ
(hoặc sổ) chi tiết hạch toán chi phí sản xuất theo từng đối tượng đã xác định, phản ánh các
đối tượng liên quan đến từng đối tượng, hàng tháng tổng hợp chi phí theo từng đối tượng.
Tuỳ theo phương pháp hạch toán hàng tồn kho áp dụng trong doanh nghiệp mà công
tác hạch toán chi phí sản xuất được thực hiện theo một trong hai phương pháp sau: Hạch
toán chi phí sản xuất theo phương pháp kê khai thường xuyên (KKTX) và hạch toán chi
phí sản xuất theo phương pháp kiểm kê định kì (KKĐK).
1.2.1.2. Chứng từ kế toán
Các loại chứng từ sử dụng để kế toán chi phí sản xuất bao gồm:
- Chứng từ phản ánh chi phí lao động: Bảng phân bổ tiền lương và các khoản trích
theo lương: BHYT, BHXH, KPCĐ.
- Chứng từ phản ánh chi phí vật tư: Bảng phân bổ vật liệu, công cụ, dụng cụ. Bảng
kê, hoá đơn chứng từ mua vật liệu công cụ, dụng cụ không nhập kho mà sử dụng ngay cho
kinh doanh.
- Chứng từ phản ánh chi phí khấu hao TSCĐ: Bảng tính và phân bổ khấu hao TSCĐ.
- Chứng từ phản ánh dịch vụ mua ngoài như hoá đơn mua hàng, chứng từ chi tiền
mặt.
- Chứng từ phản ánh thuế, phí và lệ phí doanh nghiệp phải nộp, đã nộp.
- Chứng từ phản ánh các khoản chi bằng tiền khác.
Việc tập hợp chi phí sản xuất phải được tiến hành theo một trình tự hợp lí, khoa học
thì mới có thể tính giá thành sản phẩm một cách chính xác, kịp thời. Trình tự này phụ
thuộc vào đặc điểm sản xuất của từng ngành, từng doanh nghiệp, mối quan hệ của hoạt
động sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp và trình độ công tác quản lí. Thông thường
trình tự hạch toán chi phí sản xuất như sau:
Bước 1: Tập hợp các chi phí cơ bản liên quan đến đối tượng sử dụng.
Bước 2: Tính toán và phân bổ chi phí cho từng đối tượng sử dụng.
Bước 3: Xác định chi phí sản xuất dở dang cuối kì.
Bước 4: Tính tổng giá thành và giá thành đơn vị sản phẩm hoàn thành.

1.2.1.3. Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
Chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp bao gồm giá trị nguyên vật liệu chính, vật liệu
phụ, nhiên liệu…được xuất dùng trực tiếp cho việc chế tạo sản phẩm.
Đối với những vật liệu khi xuất dùng có liên quan đến từng đối tượng tập hợp chi
phí riêng biệt (phân xưởng, bộ phận sản xuất, hoặc sản phẩm, loại sản phẩm, lao vụ…) thì
hạch toán trực tiếp cho đối tượng đó. Trường hợp vật liệu xuất dùng có liên quan đến
nhiều đối tượng tập hợp chi phí, không thể tổ chức hạch toán riêng được thì phải áp dụng
gián tiếp để phân bổ chi phí cho các đối tượng có liên quan. Tiêu thức phân bổ thường
được sử dụng là phân bổ theo định mức tiêu hao, theo hệ số, theo trọng lượng, số lượng
sản phẩm…
Để theo dõi các khoản chi phí nguyên vật liệu trực tiếp theo phương pháp kê khai
thường xuyên, kế toán sử dụng TK 621 “Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp”. Tài khoản này
được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí (phân xưởng, bộ phận sản xuất) với
kết cấu như sau:
Bên Nợ: Tập hợp chi phí nguyên vật liệu xuất dùng trực tiếp cho chế tạo sản phẩm
hay thực hiện các lao vụ, dịch vụ.
Bên Có:
- Giá trị vật liệu xuất dùng không hết.
- Kết chuyển chi phí vật liệu trực tiếp.
Tài khoản 621 cuối kì không có số dư.
TK 151,152, 331, 111, 112..
TK 621
Vật liệu xuất dùng trực tiếp chế tạo sản phẩm, tiến hành lao vụ, dịch vụ
Kết chuyển chi phí nguyên, vật liệu trực tiếp
Vật liệu dùng khônghết nhập lại kho
TK 152
TK 154
Sơ đồ 1: Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp
1.2.1.4. Kế toán chi phí nhân công trực tiếp
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho nhân công trực tiếp

sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ, dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ
và các khoản phụ cấp có tính chất lương (phụ cấp khu vực, độc hại, phụ cấp làm đêm,
thêm giờ…). Ngoài ra, chi phí nhân công trực tiếp còn bao gồm các khoản đóng góp cho
các quỹ Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y tế, Kinh phí công đoàn do doanh nghiệp chịu và
được tính vào chi phí kinh doanh theo một tỉ lệ nhất định với số tiền lương phát sinh của
công nhân trực tiếp sản xuất.
Để theo dõi chi phí nhân công trực tiếp, kế toán sử dụng TK 622 “Chi phí nhân
công trực tiếp”. Tài khoản này được mở chi tiết theo từng đối tượng tập hợp chi phí giống
như TK 621.
Bên Nợ: Tập hợp chi phí nhân công trực tiếp sản xuất sản phẩm thực hiện lao vụ,
dịch vụ.
Bên Có: Kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp vào tài khoản tính giá thành.

×