Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI CÔNG TY CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 134

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (196.38 KB, 21 trang )

PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN HẠCH TOÁN NGUYÊN VẬT LIỆU TẠI CÔNG TY
CÔNG TRÌNH GIAO THÔNG 134
I. Nhận xét đánh giá ưu, nhược điểm về tình hình quản lý , sử dụng
và hạch toán nguyên vật liệu tại công tycông trình giao thông 134
Nguyên vật liệu có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình sản xuất, công ty
công trình giao thông 134 đã nhận thức rõ về vấn đề này nên đã tổ chức khá tốt
công tác quản lý, sử dụng và hạch toán kế toán nguyên vật liệu . Qua thời gian thực
tập, nghiên cứu thực tế công tác kế toán nguyên vật liệu tại Công ty CTGT 134 em
rút ra một số nhận xét sau:
Những ưu điểm:
Việc tổ chức công tác kế toán nguyên vật liệu ở Công ty tương đối hoàn chỉnh.
Tổ chức hạch toán nguyên vật liệu nói riêng và tổ chức kế toán hàng tồn kho nói
chung phần nào đảm bảo tuân thủ theo chế độ kế toán do Bộ tài chính quy định.
Công ty đã thay đổi phương pháp hạch toán hàng tồn kho theo thông tư số 89
TT/2002 hướng dẫn 4 chuẩn mực kế toán.
Công ty áp dụng và sử dụng hệ thống sổ sách hợp lý, phù hợp với loại hình ghi
sổ kế toán “ Nhật ký- chứng từ” mà Công ty đã áp dụng. Hệ thống sổ cung hệ
thống tài khoản kế toán được sử dụng theo đúng chế độ kế toán đảm bảo cho việc
lập báo cáo quyết toán chính xác.
Tuy các công trình, tổ đội sản xuất ở rải rác nhiều nơi nhưng việc tập hợp chi
phí nhiều loại vào cuối tháng vẫn đầy đủ, hợp lý, chính xác.
Công tác quản lý, sử dụng và hạch toán được thực hiện bởi những nhân viên kế
toán, thủ kho có trình độ, năng lực cao và có nhiều kinh nghiệm. Công ty luôn có
sự đối chiếu, kiểm tra giữa phòng vật tư, kế toán vật tư và thủ kho trong quá trình
sử dụng, hạch oán nguyên vật liệu , giải quyết nhanh chóng những trường hợp các
chứng từ không khớp nhau. Các chứng từ ban đầu được xem xét, ghi chép chính
xác và được quản lý chặt chẽ nên tổ chức kế toán chi tiết và kế toán tổng hợp rất
khoa học và hiệu quả.
Công ty đã tổ chức khá tốt công tác quản lý, hạch toán kế toán nguyên vật liệu
từ khâu nhập, xuất nguyên vật liệu đến khâu ghi sổ kế toán, đáp ứng được yêu cầu
quản lý nguyên vật liệu , có như vậy là do Công ty đã tổ chức được hệ thống kho


hợp lý. Với những doanh nghiệp xây lắp như Công ty CTGT 134 việc tổ chức kho
bãi, quản lý vật liệu là vấn đề phức tạp, nhưng thực tế tại Công ty thì số dư tài
khoản 138 và 338 ( phải thu , phải trả hàng tồn kho bị thừa, thiếu, hao hụt mất mát)
rất ít hoặc không có., chứng tỏ chuyện mất mát, hao hụt vật tư ít hoặc không có. Hệ
thống kho Công ty và kho công trường được tổ chức, bảo vệ và giám sát chặt chẽ
nên việc hạch toán thừa, thiếu nguyên vật liệu ít xảy ra nên sẽ giảm công việc hạch
toán kế toán.
Hiện nay, Công ty đang áp dụng phương pháp tính giá hàng tồn kho là giá thực
tế đích danh. Phương pháp này rất phù hợp với đơn vị có vật tư đa dạng về chủng
loại, quá trình nhập xuất thường xuyên với mức độ nhiều. Công ty áp dụng
phương pháp sổ số dư giúp việc ghi chép, đối chiếu, kiểm tra được tiến hành
thường xuyên và tiết kiệm sổ sách.
Công ty hạch toán vật liệu qua kho vừa giảm được chi phí vận chuyển vật tư,
công sức đi lại từ công trường đến Công ty hoặc ngược lại vừa đảm bạơ quản lý
chặt chẽ của công ty. Việc lập các bảng kê nhập, xuất vật tư, bảng phân bổ vật liệu,
bảng tổng hợp nhập, xuất vật tư do kế toán đội (nhân viên thống kê) lập tạo điều
kiện thuận lợi cho kế toán Công ty ghi sổ kế toán được nhanh chóng, dễ dàng.
Trong công tác kế toán NVL, do Công ty áp dụng phương pháp kê khai thường
xuyên nên tại bất kỳ một thời điểm nào cũng có thể biết được giá trị vật liệu nhập
xuất, tăng giảm và hiện có, vì vậy có điều kiện quản lý tốt việc nhập xuất NVL.
Hệ thống định mức NVL được xây dựng rất chi tiết, cụ thể cho từng loại vật tư,
từ loại sản phẩm (công trình) do đó tiết kiệm được vật tư, mang lại hiệu quả kinh tế
cao.
Tồn tại :
Bên cạnh những ưu điểm trên, công tác tổ chức hạch toán kế toán nguyên vật
liệu tại Công ty CTGT 134 còn tồn tại một số điểm chưa hợp lý cần phải hoàn
thiện để nâng cao hiệu quả quản lý chi phí nói chung và công tác hạch toán chi phí
nguyên vật liệu nói riêng:
Thứ nhất, về tài khoản sử dụng: Công ty không chi tiết tài khoản 152 thành các
khoản mục mà mọi nguyên vật liệu đều được ghi trên tài khoản 152 nên sẽ khó biết

được chi tiết đối tượng sử dụng và khó theo dõi.
Thứ hai, về lập bảng phân bổ: Với việc không phân loại tài khoản “ 152”chi
tiết ra thì không biết rõ chi phí cho từng đối tượng sử dụng.
Thứ ba, về xây dựng hệ thống danh điểm vật tư: Công ty chưa xây dựng được
hệ thống danh điểm cho từng loại vật tư như vậy sẽ không thuận lợi cho việc chi
chép từng khoản mục vật tư, sẽ gây lộn xộn không đúng loại vật tư.
Thứ tư, về tình hình quản lý, sử dụng nguyên vật liệu: Thường thì vật liệu tồn
kho tại Công ty là số dư vật tư còn lại ở công trường đem nhập lại kho công trường
hoặc kho Công ty. Mà giá vật liệu luôn thay đổi, nên việc xác định giá vật liệu trên
sổ số dư chỉ là tương đối, không chính xác. Do Công ty thực hiện khoán gọn công
trình, hạng mục công trình, giao khoán một phần chi phí sản xuất nên hầu hết mọi
nghiệp vụ nhập, xuất được ghi chép, tập hợp vào cuối tháng chỉ là hình thức. Tại
đa số các công trình, vật tư mua về( viết phiếu nhập) và đem ra công trường (viết
phiếu xuất) cùng ngày nên hầu hết các vật tư còn tồn lại trong kho vẫn giữ nguyên.
Chính điều này sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn lưu động vì lượng tồn vật
tư không thay đổi, số vật tư cũ để lâu trong kho sẽ dẽ bị hao hụt, mất giá trị.
II. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện hạch toán nguyên vật liệu
1. Ý kiến đề xuất với chế độ kế toán
Những điểm đạt được của chế độ:
* Về công tác hạch toán nguyên vật liệu
- Về phương pháp tính giá nguyên vật liệu:
+ NVL nhập kho được tính theo giá thực tế mua vào, phản ánh đúng số tiền
mà doanh nghiệp bỏ ra. Cách tính này hoàn toàn phù hợp với Chuẩn mực kế toán
quốc tế (IAS 2- Cách đánh giá và trình bày hàng tồn kho theo hệ thống giá phí
nguyên thuỷ), phù hợp với Chuẩn mực kế toán Việt Nam (Chuẩn mực số 2: Hàng
tồn kho) và phù hợp với nguyên tắc kế toán chung được thừa nhận (nguyên tắc giá
phí).
+ Phương pháp tính giá NVL xuất kho: Có nhiều phương pháp tính giá NVL
xuất kho để doanh nghiệp lựa chọn để phù hợp với đặc điểm, tình hình hoạt động
của đơn vị mình mặc dù trong chuẩn mực kế toán quốc tế và chuẩn mực kế toán

Việt Nam chỉ quy định có 4 phương pháp tính (Phương pháp tính theo giá đích
danh; Phương pháp bình quân gia quyền; Phương pháp nhập trước, xuất trước;
Phương pháp nhập sau, xuất trước). Đặc biệt là phương pháp giá hạch toán, một
phương pháp có rất nhiều ưu điểm nếu doanh nghiệp xác định được một giá hạch
toán phù hợp, vì phương pháp này giúp cho người làm kế toán đơn giản và giảm
thiểu được công việc, thuận lợi cho việc phản ánh trong sổ sách kế toán, báo cáo
tài chính chứ nếu luôn theo giá thị trường thì tuy rất chính xác, cập nhật nhưng rất
phức tạp vì sự biến động liên tục của nó.
- Về tài khoản sử dụng: Hệ thống tài khoản cấp 1 và cấp 2 khá đầy đủ cho việc
hạch toán các nghiệp vụ về NVL phát sinh trong kỳ.
- Về phương pháp hạch toán NVL: Doanh nghiệp xây lắp áp dụng phương
pháp kê khai thường xuyên là phương pháp theo dõi phản ánh một cách thường
xuyên liên tục có hệ thống tình hình biến động tăng giảm, hiện có của từng loại
hàng tồn kho nói chung và từng loại NVL nói riêng vào các tài khoản tương ứng
bởi vậy tại bất kỳ thời điểm nào cũng có thể biết được giá trị vật liệu nhập xuất
tăng giảm và hiện có. Đây là một ưu điểm của chế độ kế toán doanh nghiệp xây lắp
rút ra từ 2 phương pháp hạch toán hàng tồn kho trong QĐ 1141/TC-QĐ-CĐKT
ngày 01/11/1995 là phương pháp kê khai thường xuyên và kiểm kê định kỳ. Đây
cũng là một ưu điểm khi so sánh với phương pháp hạch toán hàng tồn kho của Chế
độ kế toán Pháp (sử dụng phương pháp kiểm kê định kỳ) vì phương pháp kiểm kê
định kỳ chỉ theo dõi số tồn trên các tài khoản tồn kho, không theo dõi thường
xuyên liên tục tình hình nhập xuất tồn kho trên sổ kế toán nên có nhiều hạn chế
trong theo dõi tình hình biến động và quản lý chung đối với nguyên vật liệu nhập,
xuất, tồn kho.
- Về hạch toán tổng hợp NVL: những sửa đổi mới nhất trong chế độ kế toán
được quy định tại Thông tư số 89/2002/TT-BTC nhằm hướng dẫn kế toán thực
hiện 4 chuẩn mực kế toán Việt Nam đầu tiên đã khắc phục được một số tồn tại cơ
bản trong chế độ kế toán doanh nghiệp nói chung và chế độ kế toán doanh nghiệp
xây lắp nói riêng, phù hợp với điều kiện mới của nền kinh tế như:
+ Kế toán các khoản hao hụt, mất mát hàng tồn kho:

Trước đây, các khoản hao hụt mất mát hàng tồn kho sau khi trừ phần bồi
thường của tổ chức cá nhân gây ra, được phản ánh vào các TK tuỳ thuộc theo
quyết định xử lý (hoàn toàn do quyết định chủ quan của nhà quản lý chứ không
phản ánh được bản chất của khoản thiếu hụt đó):
Nợ TK 111, 334, ... : Phần tổ chức, cá nhân phải bồi thường
Nợ TK 411: ghi giảm nguồn vốn kinh doanh
Nợ TK 821: ghi tăng chi phí bất thường
....
Có TK 138 (1381) - Tài sản thiếu chờ xử lý
Nay, những khoản thiếu hụt đó được đưa về TK 632 - Giá vốn hàng bán NVL
mua về phục vụ sản xuất. Nếu NVL mất mát thiếu hụt mà DN phải chịu sẽ làm
tăng chi phí sản xuất của DN. Do vậy làm tăng tổng giá thành sản phẩm, hoạch
toán tăng giá vốn hàng bán là hoàn toàn hợp lý.
+ Kế toán chiết khấu thanh toán:
Thông tư đã bổ sung TK515 - Doanh thu hoạt động tài chính, xoá bỏ TK711 -
Thu nhập hoạt động tài chính đã làm cho nghiệp vụ phản ánh số tiền chiết khấu
thanh toán được hưởng do thanh toán tiền mua NVL trước thời hạn được người
bán chấp thuận thay đổi từ:
Nợ TK 331- Phải trả người bán
Có TK 711- Thu nhập hoạt động tài chính
thành:
Nợ TK 331- Phải trả người bán
Có TK 515- Doanh thu hoạt động tài chính
Thay đổi này một ưu điểm của chế độ làm thay đổi cơ bản quan niệm về hoạt
động tài chính của DN. Những khoản thu từ hoạt động tài chính được coi là khoản
thu từ hoạt động kinh doanh và của TK loại 5 doanh thu chứ không phải là một
khoản thu nhập.
+ Kế toán dự phòng giảm giá hàng tồn kho:
Số chênh lệch của khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho phải lập ở cuối kỳ kế
toán năm trước và năm nay trước được phản ánh vào TK642- Chi phí quản lý

doanh nghiệp và sau khi thông tư ra đời, khoản chênh lệch này được phản ánh vào
TK632- Giá vốn hàng bán. Điều này là hoàn toàn phù hợp, vì nếu phản ánh vào
TK642 thì không phản ánh được bản chất của những khoản dự phòng này.
Những bất cập còn tồn tại:
* Về công tác hạch toán nguyên vật liệu
- Phương pháp tính giá nguyên vật liệu:
Ta thấy rằng phương pháp tính giá NVL xuất kho theo phương pháp giá hạch
toán là một phương pháp có rất nhiều ưu điểm, mang lại thuận lợi cho người làm
kế toán. Thế nhưng, khi chuẩn mực kế toán Việt Nam số 02 về hàng tồn kho ra đời
quy định cụ thể về phương pháp tính giá NVL xuất kho nhưng không quy định đây
là một phương pháp được sử dụng trong DN thì liệu rằng phương pháp đó có còn
được sử dụng.
Thêm nữa, một vấn đề đặt ra là: Trong chế độ kế toán Pháp, để xác định giá trị
NVL xuất kho, chỉ sử dụng 3 phương pháp: phương pháp bình quân (bình quân cả
kỳ dự trữ và bình quân sau mỗi lần nhập) và phương pháp nhập trước-xuất trước,
còn trong chuẩn mực kế toán quốc tế về hàng tồn kho (IAS 2) cũng chỉ có 4
phương pháp, mà trong chế độ của Việt Nam phân ra quá nhiều phương pháp, liệu
rằng điều đó có quá phức tạp, gây cản trở, ảnh hưởng đến công tác tính giá và quản
lý NVL xuất kho.
- Về tài khoản sử dụng:
Trong các tài khoản chi tiết của TK152- nguyên vật liệu chưa có tài khoản chi
tiết cho phế liệu nhập kho chờ xử lý, mà phế liệu là một khoản mục khá lớn ở các
đơn vị XDCB trong quá trình thi công và sau khi quyết toán công trình, HMCT.
Nếu hạch toán phế liệu đó vào TK 1528 “Vật liệu khác” là không phù hợp vì
những phế liệu này chỉ có thể chờ để thanh lý chứ không tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh nữa.
Một vấn đề khác, đó là những khoản mua về phục vụ nhu cầu khác ngoài hoạt
động sản xuất như thuốc men, văn phòng phẩm... không phải là những yếu tố đầu
vào, không tham gia vào chu kỳ sản xuất kinh doanh và cấu thành sản phẩm của
doanh nghiệp. Do đó, không thể coi đó là một loại NVL như cát ,sỏi, xi măng,

thép... nhưng vẫn phải nhập kho và khi xuất sử dụng đều phải viết phiếu xuất kho.
Vậy, những khoản này sẽ được hạch toán vào đâu, vì nếu không quy định cụ thể,
các doanh nghiệp rất dễ hạch toán vào TK1528- Vật liệu khác, mà điều đó thì hoàn
toàn không hợp lý.
- Về quản lý nguyên vật liệu: Đối với vật tư do đội tự mua, phòng cung ứng vẫn
tiến hành lập phiếu nhập kho, và khi xuất cũng viết phiếu xuất kho như đối với
trường hợp qua kho. Đây là một cách quản lý vật tư chặt chẽ của đơn vị xây lắp
theo mô hình khoán tập trung, tuy nhiên nó lại gây ra nhiều phiền hà trong việc
nhập xuất. Thứ nhất là do đặc điểm vật liệu của đơn vị xây lắp thường không dự
trữ lâu dài đối với những vật tư có khối lượng lớn vận chuyển khó khăn như cát,
sỏi, đất đá.. thì việc nhập xuất kho chỉ là hình thức, thứ hai là do các công trình ở
xa đơn vị nên các chứng từ nhập xuất không được cập nhật một cách thường xuyên
do các đội không có điều kiện hễ khi nào nhập xuất vật tư là lại lên cơ quan làm
thủ tục nhập xuất vật liệu sử dụng cho các công trình.
- Về tình hình luân chuyển chứng từ : Do nhiều lý do khách quan và chủ quan
mà việc tập hợp chứng từ lên phòng kế toán được thực hiện chậm, dẫn đến thiếu
chứng từ để hạch toán kịp thời, chính xác. Ví dụ khi kế toán tạm ứng cho tổ, đội thi
công đi mua vật liệu, có khi vật liệu đã đưa vào sử dụng nhưng chứng từ lại chưa
được chuyển lên phòng kế toán để thanh toán tạm ứng và ghi sổ chi tiết. Điều này
làm nảy sinh thực trạng là đến cuối kỳ hạch toán, khối lượng công việc hoàn thành
xác định bằng kiểm kê luôn lớn hơn so với chi phí nguyên vật liệu stập hợp trên sổ
sách. Ngoài ra, chứng từ ở các đội, xí nghiệp được chuyển lên phòng kế toán dễ tập
trung vào cuối tháng (hạn cuối để nộp chứng từ) nên vào thời điểm này, khối lượng
công việc thường rất lớn khiến việc tập hợp chi phí và phân bổ đôi khi gặp khó
khăn.
Kiến nghị về công tác kế toán nguyên vật liệu
* Về tính giá nguyên vật liệu:
- Đối với NVL nhập kho, ngoài hình thức cung ứng vật liệu tại kho, doanh
nghiệp cần khai thác triệt để nguồn vật liệu mua ngoài giao thẳng cho công trình.

×