KIẾN TRÚC ĐÌNH LÀNG
"Đình làng rêu kín tường vơi
Ngói nghiêng mãi giữ góc trời sớm trưa
Đình làng che nắng che mưa
Giữ tâm thơn xóm vọng chùa từng cao"
* Ý nghĩa văn hóa và xã hội của ngơi đình làng:
- Đình làng được ra đời trong thời kỳ xã hội rối ren, giai đoạn thế kỷ 16 và 17. Là nơi chứng kiến những cảnh sinh hoạt, những thay đổi trong đời sống của làng quê Việt Nam. Nơi
đây có 3 chức năng được thực hiện: Hành chánh, tôn giáo và văn hóa.
+ Về chức năng hành chánh: Là chỗ để họp các công “việc làng”, để xử kiện phạt vạ... theo quy ước của làng.
+ Về chức năng tôn giáo: Là nơi thờ thần Thành hoàng làng, nơi thờ những người có cơng với làng xã, các anh hùng dân tộc.
+ Về chức năng văn hóa: Là nơi diễn ra các kịch hát, các lễ hội, các trò chơi.
Thực ra, các chức năng trên khơng tách bạch, mà cịn đan xen hịa quyện vào nhau.
- Có thể coi Đình là 1 tịa thị chính, 1 nhà văn hóa cộng lại của làng xã VN. Ngơi đình làng là biểu tượng cho cơng đồng, là 1 yếu tố hữu hình cho làng xã VN.
- Thế kỷ 16, thời Mạc đã gây dựng được nhiều Đình lớn.
- Từ thế kỷ 17, kiến trúc đình làng phát triển rầm rộ khắp các làng xã với sự đóng góp của quần chúng nhân dân và sáng tác tập thể.
- Thế kỷ 18, việc xây dựng đình làng có giảm sút do hồn cảnh xã hội nhưng vẫn xuất hiện những đình quy mơ, trang trí tnh xảo.
- Thế kỷ 19, dưới thời vua Gia Long, cũng xây dựng 1 số đình lớn nhưng về kiến trúc và điêu khắc đã giảm sút đi nhiều. Dưới thời vua Minh mạng thì chuyển sang kết cấu xây vơi gạch, ít
dùng gỗ, chỉ có ở miền núi dùng gỗ chủ yếu.
* Bố cục: Phát triển qua nhiều thời kỳ. Thời sơ khai ban đầu chỉ có Đại đình hình chữ nhật và hồ bán nguyệt, sau đó phát triển quy mơ
hơn có nhiều thành phần hơn. Những Đình lớn quy mơ đầy đủ gồm: Đại đình, hậu cung, Tiền tế, Tả vu hữu vu, ngồi ra có thể thêm
các nhà phụ trợ.
Mơ hình phát triển đình dạng sơ khai
Mơ hình phát triển đình quy mơ đầy đủ
- Đại Đình: Là nơi hành lễ sinh hoạt cơng cộng, hành chính nên cần khơng gian và diện tích lớn, trang trọng, bề thế.
- Hậu cung: Là nơi thờ thần, giữ các vật thiêng, khơng gian khơng lớn lắm nhưng kín đáo, trang nghiêm thường được đóng khơng cho
mọi người vào.
- Phương đình (Tiền Tế): Thường có kích thước và quy mơ nhỏ hơn Đại đình, MB chữ nhật hay hình vng và đa số khơng có cửa
vách bao quanh. Phải đến cuối thế kỷ 17 mới xuất hiện nhà Tiền tế và xuất hiện nhiều vào thế kỷ 19.
- Tả vu, hữu vu : Là khơng gian có mái che, khơng có tường bao xung quanh, nếu có cũng khơng cũng chỉ bao xung quanh, mặt chính
để hở.
* Đặc điểm kiến trúc:
- Đình làng là thể loại kiến trúc còn bảo tồn được khá trọn vẹn những nét nghệ thuật đậm đà tính dân tộc và sắc thái dân gian. Vừa là cơng trình tơn gióa, vừa là kiến trúc công cộng. Địa
điểm xây dựng gắn liền khu dân cư, đất cần có tầm nhìn thống, tạo cảm giác thiêng liêng, có sân rộng, hồ nước, cây xanh cổ thụ. Tổng thể kiến trúc được nhấn mạnh tính trang nghiêm theo
lối bố cục trung tâm kết hợp bố cục chiều sâu đối xứng qua trục chính.
- Hệ thống kết cấu gỗ: Cột xà, kẻ hoặc bẩy liên kết chủ yếu bằn mộng nên rất vững chắc. Hệ kết cấu đứng trên đá chân cột bằng sức nặng của mái và ngơi nhà mà khơng cần móng. Mái
chiếm 2/3 chiều cao với 4 góc xịe rộng và uốn cong theo kiểu “tàu đao, lá mái”. Bên trong đình, trên các kết cấu và bao che thường được chạm khắc các chủ đề tứ linh, cảnh sinh hoạt nông
thôn…
- Khoảng cách các cột xác định theo số lượng khoảng hoành. Kiểu Thượng tam - hạ tứ (trên 3 dưới 4 ), Thượng tứ - hạ ngũ, Thượng ngũ - hạ ngũ.
Một số cơng trình têu biểu:
Một số chi
tết chạm
khắc têu
biểu
ĐÌNH BẢNG
Đình làng Đình Bảng - tuyệt tác kiến trúc cổ xứ Kinh Bắc,
được xây dựng năm 1700 thời Hậu Lê đến năm 1736 mới
hoàn thành. Vẻ độc đáo của ngơi đình thể hiện ở khơng gian mái
đình tỏa rộng. Đây được xem là ngơi đình cổ đẹp nhất VN.
Nghệ thuật điêu khắc thể hiện xu hướng của thời điểm cuối thế
kỷ 17, đầu thế kỷ 18, những đường nét được chạm khắc tinh xảo
đến từng chi tiết nhỏ.
Mái đình lợp ngói mũi hài và có các đầu đao vút cong
Nóc đình cao tới 8m
Chính điện
ĐÌNH THỔ TANG
Đình thuộc thị trấn Thổ Tang, huyện Vĩnh Tường, được tạo dựng từ thế kỷ XVII, trải qua thời gian, đến nay còn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn kiểu thức kiến trúc
thời Hậu Lê. Đình thờ danh tướng Lân Hổ, có cơng đánh giặc Ngun Mơng ở thế kỷ XIII. Đình Thổ Tang được xây dựng với quy mơ đồ sộ, gồm hai tồ kiến trúc bố cục
theo hình chữ "đinh“, Đình Thổ Tang là một trong những ngơi đình đạt đến đỉnh cao về mỹ thuật điêu khắc gỗ cổ dân gian thời Hậu Lê.
KIẾN TRÚC TƠN GIÁO, TÍN NGƯỠNG
* Tơn giáo: Những cơng trình tơn giáo ở Việt Nam có giá trị nghệ thuật truyền thống, mang nhiều đặc trưng dân tộc.
- Phật giáo chiếm 80% dân số, tuy nhiên không được công nhận là Quốc giáo. Phật giáo phất triển đầu CN, góp phần dành độc lập.
- Nho giáo đến trước Phật giáo nhưng đến TK14 mới chiếm ưu thế.
- Đạo giáo xuất phát từ tư tưởng Lão Trang, du nhập từ TQ vào VN.
- Ấn giáo truyền vào miền Trung, vùng đất Champa xưa, thờ thần Siva.
- Thiên chúa giáo bắt đầu vào TK16.
* Tín ngưỡng: Thờ tổ tiên, người có cơng với cộng động, anh hùng dân tộc; thờ thần, thờ thánh, thờ Mẫu…
PHẬT
GIÁO
KTPGVN nói lên: Tinh thần Phật giáo,
tinh thần dân tộc. Là cơ sở của nền văn
minh dân tộc, là thước đo tnh thần tự chủ
của dân tộc, sự hòa hợp giữa Đạo và
Đời.
Ngôi chùa Việt bắt đầu vào
ĐCN, du nhập vào Việt
Nam. Chịu ảnh hưởng mạnh
của Trung Hoa và Ấn Độ.
Trải qua nhiều thời kỳ:
KT chùa thường đặt gần
Lý-Trần, Ngô-Đinh-Tiền
sông, nơi có phong cảnh đẹp,
Lê, Mạc-Hậu Lê.
yên tỉnh, gắn bó thiên nhiên.
CÁC DẠNG BỐ CỤC
- Chữ Đinh ( 丁 ): có nhà Chính điện(Thượng điện) được nối thẳng góc với nhà
tền đường ở phía trước.
- Chữ Cơng ( 丁 ) (hay nội cơng ngoại quốc, cũng có nội đinh ngoại quốc ): có nhà
Thượng điện và nhà Tiền đường song song với nhau được nối với nhau bằng một
ngôi nhà gọi là nhà Thiêu hương.
- Chữ Tam ( 丁 ): có ba nếp nhà song song với nhau.
MB chùa Bút Tháp – Bắc Ninh
+ Thời Lý: Bố cục tổng thể hướng
tâm.
+ Thời Trần, Mạc-Hậu Lê: Bố cục
tổng thể đối xứng.
MẶT BẰNG, KẾT CẤU
* Mặt bằng(trong tổng thể ngôi chùa từ ngồi vào):
- Cổng tam quan.
- Gác chng.
- Sân rộng.
- Dãy hành lang bao quanh 3 mặt.
- Điện thờ(tòa Tam bảo): có 3 ngơi nhà nằm kế nhau
+ Tịa Tiền đường: Nơi dân hương hành.
+ Tòa Thiêu hương: Nới đốt hương, gõ mõ, tụng kinh.
+ Tòa Thượng điện: Nơi đặt tượng Phật trên bệ(toà Tam bảo, tượng trưng cho sự tu
hành đắc đạo của đức Phật).
- Trong khu vực chùa cịn có Tháp.
* Kết cấu: Kết cấu ngơi thượng điện mang giá trị truyền thống KT cổ VN. Đặc trưng của
KT khung gỗ VN khác với khung gỗ chịu lực TQ và các nước Đông Á là CỘT-XÀ-KẺ.
ĐIÊU KHẮC TRANG TRÍ
Các bộ phận bằng gỗ đều được chạm khắc tinh vi. Các Tháp được
trang trí với các đề tài tôn giáo như tứ linh hay rồng mây hoa lá,
cảnh sông nước bằng đất nung. Màu sắc chủ đạo trong chùa là
màu vàng – màu của lý tưởng và cao quý.
Thời Ngô - Đinh Tiền Lê:
Kiến trúc Phật giáo phát triển. Chùa và tháp có
giá trị về cảnh quan cũng như điêu khắc, mở
đường cho giai đoạn cực thịnh của PG dưới
thời nhà Lý -Trần sau này.
-Chùa Bà Ngô
-Chùa Tháp
Thời Lý:
Thời Trần:
Phát triển mạnh, chùa tháp được xây dựng với quy mô
Sự hưng thịnh của PG, nhiều ngôi chùa và bảo
lớn. Các chùa thường nằm trên đỉnh núi cao, cấu trúc và
tháp được xây dựng khắp nơi, bổ sung và tếp
bố cục đơn giản. Trang trí chịu ảnh hưởng của nghệ
nối những cơng trình PG có từ thời Lý.
thuật Chăm, với các hình chim thần, nữ thần đầu người
-Chùa và Tháp Phổ Minh
mình chim.
-Chùa Dâu
- Chùa Báo Ân
-Chùa Bối Khê
-Chùa Phật Tích
-Chùa Kim Ngân
-Chùa Long Đọi Sơn
Thời Hậu Lê:
- Chùa thời Hậu Lê có sự kết hợp hài với cảnh quan như là bức tranh sơn thủy
Thời Mạc:
hữu tình.
- Điêu khắc cầu kỳ và tnh tế hơn hẳn các triều đại trước, nội dung phong phú,
màu sắc phổ biến là vàng, đen, nâu xám, đỏ, mang phong vị dân gian.
+Chùa Thầy
+Chùa Bút Tháp
+Chùa Keo
Điêu khắc trong kiến trúc chùa có những đóng góp mới so
với thời Hậu Lê, chẳng hạn: Hoa sen hay rồng - đa dạng,
khơng nặng tính vương quyền mà trông dân dã, gần gũi.
CHÙA DÂU
- Chùa Dâu, cịn có tên là Diên Ứng(Pháp Vân hay Cổ Châu), ở Bắc Ninh. Đây là trung tâm cổ xưa nhất của Phật giáo Việt Nam.
-
Chùa được khởi cơng xây dựng năm 187 và hồn thành năm 226, là ngơi chùa lâu đời nhất và gắn liền với lịch sử văn hóa VN.
Chùa được xây dựng lại vào năm 1313 và trùng tu nhiều lần qua các thế kỷ tếp theo. Vua Trần Anh Tông đã sai Mạc Đĩnh Chi về kiến thiết lại chùa Dâu thành chùa
trăm gian, tháp chín tầng, cầu chín nhịp. Hiện nay, ở tịa thượng điện, chỉ cịn sót lại vài mảng chạm khắc thời nhà Trần và nhà Lê.
-
Chùa Dâu được xây dựng theo kiểu "nội công ngoại quốc". Bốn dãy nhà liên thơng hình chữ nhật bao quanh ba ngơi nhà chính: tền đường, thiêu hương và thượng
điện.
-
Một trong những ấn tượng khó có thể quên được ở nơi đây là những pho tượng thờ. Ở gian giữa chùa có tượng Bà Dâu(nữ thần Pháp Vân), uy nghi, trầm mặc, màu
đồng hun, cao gần 2m được bày ở gian giữa.
-
Công trình hình tứ giác, giữa sân chùa là cây tháp Hòa Phong. Tháp xây bằng loại gạch cỡ lớn ngày xưa. Thời gian đã lấy đi sáu tầng trên của tháp, nay chỉ còn ba tầng
dưới, cao khoảng 17 m nhưng vẫn uy nghi, vững chãi. Mặt trước tầng 2 có gắn bảng đá khắc chữ "Hịa Phong tháp". Chân tháp vng, mỗi cạnh gần 7m. Tầng dưới có 4
cửa vịm. Trong tháp, treo một quả chng đồng và một chiếc khánh đúc. Có 4 tượng Thiên Vương cao 1,6 m ở bốn góc. Trước tháp, bên phải có tấm bia vng, bên
trái có tượng 1 con cừu đá dài 1,33 m, cao 0,8 m. Tượng này là dấu vết duy nhất cịn sót lại từ thời nhà Hán.
CHÙA TÂY PHƯƠNG
- Chùa Tây Phương(Sùng Phức Tự) - Hà Nội, được xây dựng từ lâu đời và đã được trùng tu nhiều lần vào các thế kỷ 16, 17, 18. Năm 1554, chùa được xây lại trên nền cũ. Năm
1632, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Năm 1660, Tây Đô Vương Trịnh Tạc cho xây lại chùa mới. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn,
chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là "Tây Phương Cổ Tự" và hình dáng kiến trúc cịn để lại như ngày nay. Chùa được đặt trên đỉnh núi cao hơn 100m. Để lên đến cổng
chùa phải vượt qua 239 bậc lát đá ong. Kiến trúc chùa được xây dựng theo kiểu chữ Tam, gồm ba ngôi chùa song song với nhau dọc theo sườn núi, mỗi chùa cách nhau 1,6m:
chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng.
- Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, mái được lợp 2 lớp ngói, tường xây bằng gạch Bát Tràng nung đỏ; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen.
Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen.
- Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long... đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng,
phượng, hổ phù.
- Trong chùa có 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng.
- Chùa Tây Phương đã là một cơng trình kiến trúc tơn giáo đặc sắc têu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).
CHÙA MỘT CỘT
- Chùa Một Cột (Nhất Trụ Tháp), nằm giữa lịng thủ đơ Hà Nội. Đây là ngơi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam. Được khởi cơng xây dựng năm 1049. Chùa chỉ có một gian nằm
trên một cột đá ở giữa Hồ Linh Chiểu nhỏ có trồng hoa sen.
- Đến năm 1105 , vua Lý Nhân Tông cho sửa ngôi chùa và dựng trước sân hai tháp lợp sứ trắng.
- Đến thời nhà Trần, chùa đã không phải là ngôi chùa nhà Lý.
- Chùa đã qua nhiều đợt tu sửa. Đợt tu sửa lớn vào năm 1249, gần như phải làm lại toàn bộ. Thời Lê, được thu nhỏ kích thước đài sen và cột đá. Năm 1838, sửa chữa điện đường,
hành lang tả hữu, gác chuông và cửa tam quan. Năm 1852, xin đúc chng mới. Năm 1864, trùng tu làm sàn gỗ hình bát giác để đỡ tịa sen, chạm trổ thêm cơng phu tráng lệ. Năm
1954, quân Pháp trước khi rút khỏi Hà Nội đã cho đặt mìn để phá chùa. Sau khi tếp quản thủ đơ, Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã tến hành trùng tu lớn chùa Một Cột, xây
dựng lại theo kiến trúc cũ, được sửa chữa lại năm 1955.
- Cạnh chùa Một Cột cịn có một ngơi chùa có cổng tam quan, với ba chữ “Diên Hựu Tự “, được xây dựng phụ vào với chùa Một Cột, xây khoảng đầu TK18.
- Ngơi chùa có kết cấu bằng gỗ, trong chùa đặt tượng Phật bà Quan Âm để thờ. Về sau, quy mô chùa Một Cột chỉ cịn lại ngơi chùa nhỏ trên cột đá. Chùa Một Cột bao gồm đài Liên Hoa
hình vng, chiều dài mỗi cạnh 3m, mái cong, dựng trên cột cao 4m (khơng kể phần chìm dưới đất), đường kính 1,2 m có cột đá là 2 khúc chồng lên nhau thành một khối. Tầng trên
của cột là hệ thống những đòn gỗ làm giá đỡ cho ngôi đài ở trên. Đài Liên Hoa có mái ngói, bốn góc uốn cong, trên có Lưỡng long chầu nguyệt. Ngày nay khơng có những cánh sen trên
cột đá như trong thời nhà Lý, nhưng ngôi chùa dựng trên cột vươn lên khỏi mặt nước vẫn gợi hình tượng một bơng sen vươn thẳng lên khỏi ao. Ao được bao bọc bởi hàng lan can
làm bằng những viên gạch sành tráng men xanh.
KIẾN TRÚC ĐỀN THÁP CHAMPA
- Dọc miền Trung nước ta có đến trên 50 tịa đền tháp Champa, những ngơi tháp “trẻ” nhất cũng có tuổi đời 5
đến 6 trăm năm, có ngơi tháp tới cả nghìn năm tuổi.
- Đây là sản phẩm kiến trúc tơn giáo tín ngưỡng của dân tộc Chăm, mang đặc trưng của kiến trúc Ấn Độ giáo.
- Tháp Chăm được làm bằng gạch nung màu đỏ sẫm lấy từ đất địa phương, trên mặt tường ngồi có chạm khắc,
đẽo gọt hình hoa lá, chim mng, vũ nữ, thần thánh một cách tỷ mỉ.
- Mặt bằng tháp đa số hình vng. Vì diện tích tịa tháp nhỏ nên không gian bên trong mỗi ngôi khá chật hẹp,
thường có cửa duy nhất mở về hướng Đơng - hướng mặt trời mọc.
- Về bố cục tổng thể, được bố cục theo 1 đường trục chạy giữa với hướng chính các cơng trình.
- Về đại thể, chia thành hai dạng:
+ Loại bố cục có 1 tháp trung tâm (1 Kalan): Tháp trung tâm là nơi thờ thần chủ Siva. Tiêu biểu cho loại bố cục
này là một loạt nhóm đền tháp trong khu thánh địa Mỹ Sơn (Quảng Nam), Po Nagar (Khánh Hoà), Poklong Garai
(Ninh Thuận),…
+ Loại bố cục bộ 3 song hành (3 Kalan): Có phần kiến trúc chủ thể gồm 3 ngôi đền tháp đứng song hành theo
trục Bắc – Nam, cùng quay mặt về hướng Đông. Mỗi một ngôi đền tháp lại tương ứng với ba vị thần được thờ là:
Brahma, Siva và Visnu. Tháp thờ Siva thường có kích thước lớn hơn. Tiêu biểu: Tháp Khương Mỹ, Chiên Đàn
(Quảng Nam), Dương Long (Bình Định), Hồ Lai (Ninh Thuận…).