Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tải Tiểu sử các anh hùng nhỏ tuổi - Tìm hiểu về các anh hùng nhỏ tuổi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.83 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Tiểu sử các anh hùng nhỏ tuổi</b>


<b>Tiểu sử Anh Kim Đồng</b>


Kim Đồng tên thật là Nông Văn Dền, người dân tộc Nùng, quê ở thôn Nà Mạ, xã
Xuân Hòa (nay là Trường Hà), Hà Quảng, Cao Bằng


Anh là một trong 5 đội viên đầu tiên của Đội nhi đồng Cứu quốc thôn Nà Mạ và cũng
là tổ chức Đội đầu tiên của Đội ta được thành lập khi mặt trận Việt Minh ra đời
(1941).


Trong buổi thành lập Đội, Kim Đồng được bầu làm tổ trưởng.


Kim Đồng là con trai út của một gia đình nơng dân nghèo. Bố mất sớm. Anh trai tham
gia cách mạng và hy sinh khi còn trẻ.


Từ năm 1940, ở quê Dền đã có phong trào cách mạng. Dền được anh trai và anh cán
bộ như anh Đức Thanh giác ngộ cách mạng. Dền đã theo các anh làm các công việc:
canh gác, chuyển thư từ, nghe nói chuyện về tội ác của quân giặc… nhờ đó Dền đã
sớm giác ngộ cách mạng và trở thành một liên lạc viên tin cậy của tổ chức Đảng. Dền
đã mau chóng làm quen với cách thức làm cơng tác bí mật, nhiều lần đưa, chuyển thư
từ, đưa đường cho cán bộ lọt qua sự bao vây, canh gác của địch.


Năm 1941, Bác Hồ về Pắc Pó, Kim Đồng từng được gặp Bác ở căn cứ cách mạng.
Bước sang năm 1943, bọn địch khủng bố, đánh phá dữ dội vùng Pắc Pó. Trong một
lần đi liên lạc về, giữa đường gặp lính địch phục kích gần nơi có cán bộ của ta, Kim
Đồng đã nhanh trí nhử cho bọn địch nổ súng về phía mình. Nhờ tiếng súng báo động
ấy, các đồng chí cán bộ ở gần đó tránh thốt lên rừng. Song, Kim Đồng đã bị trúng
đạn và anh dũng hy sinh tại chỗ, ngay bờ suối Lê-nin.


Hôm ấy là ngày 11 tháng giêng Âm lịch năm 1943, Anh vừa tròn 14 tuổi.



Ngày nay, mộ của Kim Đồng đã được đội viên cả nước góp phần xây dựng tại nơi anh
ngã xuống. Ngày 15-5-1986, nhân kỷ niệm lần thứ 45 ngày thành lập Đội, mộ của
Anh và tượng người đội viên liệt sĩ anh hùng Kim Đồng đang tung con chim sáo bay
lên đã được khánh thành. Từ đó đến nay nơi đây đã trở thành khu di tích Kim Đồng
chào đón các thế hệ thiếu nhi Việt Nam đến nơi thành lập Đội TNTP, với người đội
trưởng đầu tiên của mình, đến với quê hương cách mạng có suối Lê-nin, có núi Các
Mác và hang Pắc Pó mãi mãi khắc sâu trong tâm trí của thiếu nhi Việt Nam.


<b>Tiểu sử Anh Lê Văn Tám</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Lê Văn Tám thường lân la tới những nơi có quân Pháp đóng để bán hàng, đánh giầy.
Tám tỏ ra hiền lành, nhút nhát nên đã được bọn lính Pháp để cho đi qua, đi lại và dần
dần quen mặt em. Tại Thị Nghè, có một kho xăng, đạn lớn của địch. Hình ảnh những
hịm đạn, những trái bom hiện ra trong trí nhớ của Tám cùng những cảnh tàn phá, giết
chóc dã man của địch đối với đồng bào ta đã thơi thúc em tính đến một việc làm táo
bạo. Tám nảy ra ý định sẽ phá kho xăng đạn này.


Sau mấy hơm dị la quan sát địch. Tám giấu dầu xăng trong người, thản nhiên khốc
hịm lạc rang đến bán cho lính gác như thường lệ. Lợi dụng lúc bọn địch không để ý
Tám chạy nhưng bay vào chỗ để xăng và xèo diêm. Dầu xăng trong người Tám bốc
cháy và bén luôn vào thùng xăng gần nhất. Thế là cả kho xăng bốc cháy đùng đùng
rồi lan tới chỗ để bom đạn. Tiếng nổ ầm trời, khói lửa mịt mù cả thành phố.


Lê Văn Tám đã anh dũng hy sinh và để lại trong trí nhớ nhân dân Thành đồng Tổ
quốc hình ảnh: Em bé đuốc sống của thành phố mang tên Bác của dân tộc Việt Nam


<b>Tiểu sử Anh Vừ A Dính</b>


Anh hùng Lực lượng vũ trang Vừ A Dính, dân tộc Mơng, sinh ngày 12-9-1934 tại bản
Đề Chia, xã Pú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu (nay là tỉnh Điện Biên).


Vừ A Dính là con thứ ba của ơng Vừ Chống Lầu (sinh năm 1899) và bà Sùng Thị
Plây (sinh năm 1901).


Gia đình Vừ A Dính là cơ sở cách mạng của huyện Tuần Giáo.


Bố Vừ A Dính là cán bộ Việt Minh của địa phương đã bị thực dân Pháp bắt và giam
cầm tại nhà tù Sơn La. Ông đã bị thực dân Pháp thủ tiêu tại nhà tù Sơn La năm 1949.
Ông Vừ Chống Lầu được Đảng và Nhà nước truy tặng là liệt sĩ ngày 5-9-1964.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

nước truy tặng Liệt sĩ ngày 14-10-1964. Mẹ của Vừ A Dính đã được Chủ tịch Nước
truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng đợt đầu tiên (năm 1994) vì có chồng,
con và bản thân là liệt sĩ.


Vừ A Dính sinh ra và lớn lên trong một gia đình người Mơng có truyền thống u
nước và cách mạng. Ngay từ nhỏ, Dính là một cậu bé thơng minh, gan dạ và nhanh
nhẹn. Được cha mẹ giáo dục, Vừ A Dính đã sớm giác ngộ cách mạng và căm thù giặc
Pháp xâm lược. Pú Nhung ln bị giặc đột kích vào cướp bóc, đốt nhà, bắt người. Vì
thế dân làng phải cử người canh gác để phát hiện giặc. Chưa đầy 13 tuổi nhưng Vừ A
Dính đã xung phong được đi canh gác như các anh chị lớn. Lần ấy, giặc Pháp khơng
đi từ Tuần Giáo lên mà chúng bí mật xuyên rừng Bản Chăn lên cướp phá. Khi phát
hiện ra giặc Vừ A Dính vội lao về bản, vừa đi vừa hơ to “Có thằng Tây ! Có thằng
Tây !”. Dân bản vội chạy vào rừng. A Dính chạy vội về nhà xem mẹ và các em đã vào
rừng hay chưa thì gặp một tốn lính xồ tới. Bọn này đi bắt phu khuân của cướp bóc
được về đồn cho chúng. Thế là chúng bắt ln A Dính đi theo để khiêng lợn cho
chúng. A Dính cắn răng gắng sức cõng một cái rọ nhốt con lợn to. Đến một con dốc
cạnh bờ suối, A Dính dự định lợi dụng địa hình này để chạy trốn. Cậu giả cách trượt
chân lăn theo cả rọ lợn xuống dốc. Chẳng may cho A Dính, lăn tới cuối dốc cậu bị
một cây gỗ chặn ngang người. Cái rọ lợn bung ra, con lợn chạy biến vào rừng. Bọn
giặc chạy ào xuống vừa đánh vừa lơi Dính về giam tại đồn Bản Chăn. Tên đồn trưởng
người Pháp ra lệnh cho thuộc hạ: “Nó làm mất con lợn, nó phải thế mạng”. Khi biết


sáng sớm mai sẽ bị giết, đêm ấy Vừ A Dính đã rủ ông già Vừ Sa ở bản Phiêng Pi cùng
bị bắt giam với mình dỡ mái trại giam, bị qua nhiều bốt canh để trốn thốt ra ngồi.
13 tuổi Vừ A Dính đã thốt ly gia đình trở thành đội viên liên lạc của đội vũ trang
huyện Tuần Giáo. Đội vũ trang của Vừ A Dính hoạt động trên một địa bàn rất rộng, từ
châu Điện Biên ra châu Tuần Giáo rồi ngược lên châu Tủa Chùa. Dấu chân của Dính
và đội vũ trang in khắp núi rừng và các thôn bản trong huyện. Đội vũ trang thoắt ẩn,
thoắt hiện tại nhiều bản làng để vận động, giúp đỡ bà con các dân tộc ổn định cuộc
sống, xây dựng các tổ chức đồn thể cách mạng, bí mật tổ chức kháng chiến, đánh
Pháp xâm lược.


Cuộc sống kháng chiến gian khổ nhưng Vừ A Dính rất lạc quan yêu đời. Dính rất ham
học và học khá. Lúc nào trong ngực áo của Dính cũng nhét cuốn sách để tranh thủ
học. Dính đã học đọc và viết chữ thơng thạo. Khn mặt trịn, đơi mắt tinh nhanh,
chân tay thoăn thoắt là hình ảnh chiến sĩ nhỏ Vừ A Dính hằn sâu trong mắt các chiến
sĩ của đội vũ trang Tuần Giáo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

đảm để đơn vị có đủ nước dùng. Nhiệm vụ chính của Dính là làm giao thơng liên lạc.
Lần nào nhận nhiệm vụ đi liên lạc Dính cũng mưu trí, bảo đảm an tồn và về trước
thời gian qui định. Các anh trong đơn vị hỏi tại sao Dính luồn rừng và đi giỏi thế,
Dính cười hồn nhiên bảo: “Từ nhỏ em trèo núi, đi nhanh đã quen chân rồi”. Dính cịn
nhiều lần được đơn vị giao nhiệm vụ bí mật xuống bản móc nối liên lạc với cơ sở để
nhận muối, mực viết, kim chỉ, giấy viết, vải mặc và thuốc men mà đồng bào xuống
chợ mua hộ. Mẹ của Dính cũng là một cơ sở bí mật tin cậy, nhiều lần tiếp tế cho đội
vũ trang như thế.


Được tin mẹ và cả nhà bị địch bắt giam tại đồn Bản Chăn, Dính buồn và thương mẹ
lắm. Biết tin đơn vị chuẩn bị đánh đồn Bản Chăn, Dính đã đề nghị được xuống núi
điều tra nắm tình hình địch và nhân tiện tìm hiểu tin tức về mẹ và cả nhà. Đã từng bị
bắt giam ở đồn Bản Chăn nên đường đi, lối lại Dính khá thuộc. Vì thế, anh Kiên chỉ
huy đơn vị đã đồng ý để Dính xuống núi. Anh dặn kỹ Dính những việc phải điều tra.


Dính như con sóc lao xuống núi. Được du kích Bản Chăn bí mật dẫn ra mỏm núi gần
đồn để quan sát. Mai phục suốt hai ngày đêm liền Dính vẫn khơng thấy những người
bị giam ra khỏi trại. Đoán định thể nào địch cũng phải cho người ra lấy nước nên sáng
sớm hơm thứ ba, Dính đã bí mật làm ống bương đựng nước rồi bí mật nấp sau một
tảng đá sát bên mép suối. Khi đám người bị bắt giam được lính đồn dẫn ra suối lấy
nước, Dính đã nhanh chóng trà trộn vào mà địch khơng hề phát hiện ra. Đêm ấy Dính
đã được nằm cạnh mẹ và các em. Mẹ đã cung cấp nhiều tin tức quan trọng cho Dính
về đồn Bản Chăn. Dính còn động viên và căn dặn mẹ và các em đừng khai báo chỗ ở
của cơ sở cách mạng. Sáng hơm sau Dính từ biệt mẹ, chị và các em, hẹn sẽ gặp lại.
Trở về đơn vị, Dính đã báo cáo tỉ mỉ và vẽ lại sơ đồ từng vị trí bố phịng của địch...
Các anh chỉ huy đơn vị thấy nguy hiểm đã khơng cho Dính vào trong đồn địch nữa
mà chỉ tìm cách liên lạc với mẹ ở bên ngồi.


Và lần gặp sau đó của mẹ và Dính bên bờ suối là lần gặp cuối cùng. Mẹ Sùng Thị
Plây của Dính đã bị giặc bắn ngay sau buổi gặp báo tin cho Dính trở về trại giam cùng
với 22 người khác.


Trung tuần tháng 6 năm 1949, giặc Pháp huy động tổng lực quân lính từ các đồn trong
khu vực để vây ráp hòng tiêu diệt đội vũ trang Tuần Giáo của Vừ A Dính. Gần một
nghìn qn đổ về khu căn cứ Pú Nhung từ nhiều ngả đường. Một tốp giặc của đồn
Bản Chăn dưới sự chỉ huy của một đội Tây đã bí mật phục kích ngay tại đầu một bản
bỏ hoang gần Pú Nhung.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

trả lời: “Không biết !” Tên đội Tây gầm lên: “Cái bao đạn này mày mang về cho ông
tỉnh bắn chúng tao mà mày khơng biết à ? Nói đi khơng tao bắn vỡ đầu mày bây giờ”.
Dính vẫn trả lời: “Khơng biết!” Tên đội Tây khơng giữ được bình tĩnh, nó xơng vào
đánh Dính túi bụi.


Lũ giặc thay nhau đánh đập dã man Vừ A Dính đến tận trưa. Đánh chán địch lại hỏi,
Dính vẫn chỉ trả lời hai từ “khơng biết!”. Một tên lính ác ơn đã cầm báng súng đánh


gãy một bên ống chân của Dính. Mặt tím bầm, mơi sưng vù, chân bị gãy vơ cùng đau
đớn nhưng Dính cắn răng, nước mắt giàn giụa, miệng khơng hé một lời nào nữa. Đêm
ấy, giặc trói Dính dưới một gốc đào giữa sương khuya lạnh buốt. Hôm sau, rồi đêm
sau nữa giặc tiếp tục tra tấn và bỏ đói, bỏ khát Dính giữa rừng. Sự gan dạ của Vừ A
Dính đã làm run sợ nhiều tên lính ngụy. Sáng ngày thứ ba kể từ khi bị bắt, tên đội Tây
đến trước mặt Vừ A Dính dụ dỗ: “Nói một câu tao sẽ cho băng thuốc, chữa chân gãy
cho mày, cho mày ăn uống tử tế và thưởng nhiều tiền nữa. Nói, ơng tỉnh ở đâu ?”
Dính vẫn trơ như đá không hé răng nửa lời. Thằng đội Tây gầm lên khi không khuất
phục được một thằng bé. Nó hầm hầm bỏ đi. Những người Thái, người Mơng, người
Xá bị địch bắt đi ngang qua nhìn thấy cảnh tượng của Dính ai cũng dớm nước mắt.
Bỗng Dính nhận ra một người làng. Dính vội nhắn bằng tiếng Mơng: “Cái túi tài liệu
tôi giấu trong rừng, nhắn các anh ra lấy về”. Gặp người quen nào Dính cũng nhắn như
thế trước mặt lũ lính gác.


Thằng đội Tây ra lệnh cho đám lính: “Thằng bé này biết nhiều du kích lắm. Để nó bị
đi mất thì chúng mày phải chết thay”. Ban đêm chúng cắt cử tới bốn tên lính canh gác
A Dính.


Biết mình khó qua khỏi bàn tay tàn ác của kẻ thù, sáng hôm khi thằng đội Tây vừa
đến Vừ A Dính vờ gật đầu: “Biết biết!” Tên đội hơ lính mang sữa, mang bánh lại
nhưng Dính chỉ uống vài ngụm nước. “Làm cáng cho tao !”- Dính nói với tên đội Tây.
Rịng rã một ngày trời Dính bắt bọn giặc khiêng mình đi hết ngọn núi này sang khu
rừng khác nhưng vẫn chưa chịu chỉ vị trí đóng qn của bộ đội. Loanh quanh đến
chiều tối Dính lại dẫn chúng trở về nơi xuất phát ban đầu. A Dính ngước nhìn bầu trời
và núi rừng q hương, mỉm cười. Biết bị lừa, thằng đội Tây gầm lên. Nó xả cả một
băng đạn vào ngực Vừ A Dính. Sau đó nó sai treo xác Vừ A Dính lên cây đào cổ thụ.
Giặc bí mật phục kích nhiều ngày tại đây hịng đón bắt đơn vị vũ trang của ta tới đưa
xác Dính về. Hơm ấy là chiều tối ngày 15-6-1949. Vừ A Dính đã anh dũng hy sinh
bên gốc cây đào cổ thụ ở Khe Trúc gần đồn Bản Chăn, khi chưa tròn 15 tuổi.



Sau nhiều ngày phục kích đón bắt lực lượng cách mạng xuất hiện khơng thành, bọn
lính Pháp buộc phải rút quân về Tuần Giáo.


Ngay cái đêm Vừ A Dính hy sinh, chứng kiến cái chết hiên ngang, anh dũng của Vừ
A Dính, hơn mười tên lính ngụy đã bỏ trốn khỏi hàng ngũ của địch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Cuộc đời người chiến sĩ liên lạc nhỏ tuổi của đội vũ trang Tuần Giáo đã khép lại
nhưng khí phách trung kiên bất khuất của Vừ A Dính trước quân thù như ngọn đuốc
rực sáng núi rừng Tây Bắc. Chứng kiến tấm gương hy sinh oanh liệt của Dính những
lính ngụy và những người bị địch bắt đi phu đã truyền kể đi khắp các bản làng Tuần
Giáo. Bên bếp lửa hồng trong các gia đình người Mông, người Xá, người Thái khắp
vùng Tây Bắc, người ta tự hào kể cho con cháu nghe về tấm gương hy sinh bất khuất
của một cậu bé người Mông ở Pú Nhung...


Sau này, thi thể của Dính đã được tổ chức của ta và gia đình đưa về an táng tại Pú
Nhung.


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ 1954, các anh bộ đội huyện Tuần Giáo, đồng đội của
Dính cùng tổ chức Đảng và chính quyền địa phương đã đưa hài cốt liệt sĩ Vừ A Dính
về lập mộ tại nghĩa trang liệt sĩ huyện Tuần Giáo.


<b>Tiểu sử Anh Dương Văn Nội</b>


Năm 1997, sau 50 năm anh dũng hy sinh trong cuộc chiến “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh” tại mặt trận Thủ đô Hà Nội những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp,
anh hùng liệt sĩ Dương Văn Nội của mảnh đất quê hương Hà Nam đã được Nhà nước
phong tặng danh hiệu cao quý- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân cùng với hai
liệt sĩ thiếu niên dũng cảm của Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh: Kim Đồng
(Cao Bằng), Phạm Ngọc Đa (Hải Phòng).



Tuổi nhỏ anh hùng


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Người thiếu niên anh dũng ấy đã ngã xuống giữa cánh đồng lúa đang độ xanh tốt bời
bời. Năm ấy anh vừa tròn 15 tuổi. Xúc động trước tấm gương hy sinh quả cảm của
người thiếu niên trẻ tuổi, nhạc sỹ Phong Nhã (tác giả của Đội ca Đội Thiếu niên Tiền
phong Hồ Chí Minh sau này), cũng là một người con của Hà Nam, lúc đó là một trong
số những anh phụ trách đầu tiên góp cơng rèn luyện nên người thiếu niên anh hùng đã
viết nên ca khúc từ tấm gương thiếu niên dũng cảm hy sinh: “Anh Dương Văn
Nội/Mười lăm xuân xanh/Mà từng chiến đấu/Xơng pha tung hồnh…”. Bài hát đã làm
xao xuyến bao trái tim tuổi thơ thời đó. Chuyện kể rằng chỉ ít lâu sau khi Dương Văn
Nội hy sinh, vì cảm phục người bạn thiếu niên anh dũng khi nghe qua bài hát mà một
em bé người Hà Nội đã tìm đến xin gia nhập vào Đại đội tự vệ Thăng Long, tình
nguyện cầm súng chiến đấu bảo vệ thủ đô. Năm 1997, sau 50 năm anh hy sinh,
Dương Văn Nội đã được nhà nước phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang
nhân dân cùng với các thiếu niên quả cảm khác như Kim Đồng, Phạm Ngọc Đa.
Gương sáng Anh hùng liệt sĩ Dương Văn Nội cũng có mặt trong tủ sách “Gương thiếu
niên anh hùng” của Nhà xuất bản Kim Đồng dưới ngòi bút khắc hoạ sinh động của
nhà văn Lê Vân (đã được tái bản lần thứ 6).


Q hương và những người thân


Chúng tơi tìm về thôn Lỗ Hà (Chuyên Ngoại, Duy Tiên), thăm quê nội của anh hùng
liệt sĩ thiếu niên Dương Văn Nội. Cụ ông Dương Văn Nguyên (Trưởng ban Hội đồng
gia tộc) đã kể lại quãng thời thiếu niên cơ cực vất vả, sự chiến đấu hy sinh anh dũng
rất đáng tự hào của một thành viên thân yêu dòng họ. Nhiều năm nay, dòng họ đã
trang trọng dành riêng một ban thờ người con ứu tú Dương Văn Nội cùng tấm bằng
danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong câu chuyện bên mái từ
đường ấm áp, hội đồng gia tộc họ Dương bày tỏ nguyện vọng được các cấp, ngành
hữu quan giúp đỡ sưu tầm những cuốn sách, những dịng tư liệu chính thống về anh
hùng liệt sĩ Dương Văn Nội, để lưu giữ, giáo dục truyền thống cho con cháu. Dòng


tộc cũng mong muốn dựng lại chân dung người liệt sĩ thiếu niên dũng cảm tại ngôi
trường tiểu học quê hương, giúp các thế hệ thiếu niên có thêm niềm tự hào về những
thế hệ cha anh đi trước.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Năm 2011, kỷ niệm 70 năm Ngày thành lập Đội Thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh,
cũng là dịp kỷ niệm 65 năm Ngày “Toàn quốc kháng chiến”, 64 năm người thiếu niên
quả cảm Dương Văn Nội anh dũng hy sinh trong cuộc chiến “Quyết tử cho Tổ quốc
quyết sinh” tại mặt trận Thủ đô Hà Nội những năm đầu kháng chiến chống Pháp. Hy
vọng, những dòng tư liệu này sẽ giúp các thế hệ thiếu niên hơm nay có thêm sự hiểu
biết và lịng tự hào về tấm gương người anh hùng liệt sĩ tuổi thiếu niên của quê
hương.


<b>Kơ-Pa Kơ-Lơng</b>


Kơ-Pa Kơ-Lơng sinh ngày 19-8-1948, người dân tộc Gia Rai, Tây Nguyên. Căm thù
Mỹ - Diệm giết cha trong cuộc nổi dậy của dân làng, Kơ-lơng quyết chí trả thù.
Mới 13 tuổi, Kơ-lơng đã xin vào du kích, nhưng khơng được xã đội nhận vì cịn bé và
khơng có súng để đánh giặc, Kơ-lơng liền tự làm lấy nỏ, vót tên, phục kích bắn bị
thương một tên địch. Nó khơng chết vì tên khơng tẩm thuốc. Kơ-lơng xin người già
mũi tên có thuốc và bắn chết liên tiếp ba tên liền.


Ka-pa-kơ-long thời niên thiếu


Thế là Kơ-lơng được gia nhập du kích và được phát súng. Nhận ba viên đạn với điều
kiện: phải hạ ba tên giặc. Kơ-lơng đã bắn như sau: Phát thứ nhất, bắn “xâu táo” xiên
một lúc năm tên. Phát thứ hai “xâu táo” ba tên, hai thằng chết tại chỗ. Hạ quá ba tên
rồi, Kơ-lơng nộp lại viên thứ ba! Đến một trận khác. Kơ-lơng bắn ba viên hạ bảy tên.
Trận khác nữa: bảy viên hạ hẳn mười chín tên giặc!


Trong đơn xin gia nhập quân đội, Kơ-pa Kơ-lơng viết: “Em đã giết ba mươi bốn tên


Mỹ Ngụy, phá được tám xe cơ giới. Nay em đã lớn, xin cấp trên cho em được làm giải
phóng quân”.


Năm 15 tuổi, Kơ-lơng đã đánh 30 trận, giật 12 quả mìn, lật nhào 8 xe cơ giới, diệt 88
tên địch, trong đó có 4 tên xâm lược Mỹ.


Kơ-pa Kơ-lơng đã được tặng danh hiệu anh hùng quân đội.


<b>Tiểu sử Anh Hồ Văn Mên</b>


Hồ Văn Mên sinh năm 1953 tại ấp Thạnh Lộc, xã An Thạnh, huyện Lái Thiêu, tỉnh
Sơng Bé trong một gia đình nghèo. Lên 6 tuổi, mồ côi mẹ. Năm 10 tuổi, cha bị bọn
Mỹ Ngụy bắt đánh đập tàn phế rồi giết chết. Hồ Văn Mên liền vào đội thiếu nhi tham
gia giết giặc từ đấy


Đến năm 13 tuổi, Mên đã 3 năm làm cách mạng, tham gia 7 trận lớn nhỏ, diệt 79 tên
địch bao gồm các thứ lính, sĩ quan Mỹ, ngụy, lính Pắc-chung-hy (lính ngụy Triều
Tiên) cùng nhiều xe cơ giới của địch.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Sống với bà nội, Mên tỏ ra là đứa cháu ngoan, đỡ bà việc nhà, cùng bà đi chợ bán trầu
cau lấy tiền sinh sống.


Nhiều tên đất, tên làng mang dấu tích và chiến cơng của Hồ Văn Mên dự trận đánh
như: Cua Cát, Phú Văn, Chợ Mới… đã đi vào lịch sử đánh giặc của tỉnh Sơng Bé.
Một lần bị giặc bắt, Mên đã tìm cách trốn thoát và lại tiếp tục đánh giặc.


Trận đánh nổi tiếng nhất là trận diệt hơn năm mươi chín tên sĩ quan và binh lính ngụy
ở sịng bạc Phú Văn.


Hồ Văn Mên đã được tặng ba danh hiệu vẻ vang: dũng sĩ diệt Mỹ, dũng sĩ diệt xe cơ


giới, dũng sĩ diệt xe cơ giới cấp ưu tú.


Năm 1967, Hồ Văn Mên được ra miền Bắc thăm Bác Hồ và là đại biểu nhỏ tuổi nhất
trong đoàn thiếu nhi dũng sĩ miền Nam ngày đó.


Anh mất ngày 5-3-1984 do vết thương ở sọ não trong một trận đánh giặc trước đây tái
phát


<b>Tiểu sử Chị Võ Thị Sáu</b>


Chị tên thật là Nguyễn Thị Sáu, quê ở làng Đất Đỏ, Bà Rịa – Vũng Tàu


Mới 12 tuổi, chị đã theo anh trai tham gia hoạt động cách mạng trốn lên ở trên chiến
khu. Năm 14 tuổi (1949) chi đã dùng lựu đạn giết một tên quan ba Pháp và làm bị
thương 20 tên lính ngay tại vùng Đất Đỏ. Từ chiến khu trở về Bà Rịa, chị làm nhiệm
vụ điều tra tình hình địch và tiếp tế cho chiến khu.


Năm 1950, chị mang lựu đạn phục kích giết tên cai tổng Tịng – một tên Việt gian bán
nước, ác ơn ngay tại xã nhà. Lần đó, chị bị địch bắt. Sau gần ba năm tra tấn, giam
cầm, giặc Pháp đưa chị ra giam ở Côn Đảo.


Trong ngục giam những người bị án tử hình, chị vẫn hồn nhiên, vui tươi, tin tưởng
vào ngày chiến thắng của Tổ quốc.


Giặc Pháp không dám công khai thi hành bản án đối với chị Sáu. Chúng sợ các chiến
sĩ cách mạng ở trong tù sẽ nổi dậy phản đối. Chúng lén lút đem chị đi thủ tiêu. Lúc
một tên giết người bảo chị quỳ xuống, chị đã quát vỗ vào mặt lũ đao phủ: “Tao chỉ
biết đứng, không biết quỳ!”.


<b>Tiểu sử Anh Lý Tự Trọng</b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Lý Tự Trọng tên thật là Lê Hữu Trọng, sinh ngày 20/10/1994, tại làng Bản Mạy, tỉnh
NaKhon - Thái Lan. Được sự chỉ bảo tận tuỵ của sỹ phu yêu nước Đặng Thúc Hứa,
cùng tư chất thiên phú, thông minh, đĩnh đạc, Lý Tự Trọng đã sớm thông thạo cả 3
ngoại ngữ: tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Thái cùng niềm say mê sâu sắc với văn thơ
yêu nước,văn thơ cách mạng.


Đầu mùa hè năm 1926, Lê Hữu Trọng là một trong số các thiếu niên được đồng chí
Hồ Tùng Mậu lựa chọn sang Quảng Châu đào tạo lâu dài để chuẩn bị xây dựng tổ
chức thanh niên Cộng sản ở Việt Nam theo ý kiến của đồng chí Nguyễn Ái Quốc (lúc
này Người mang tên là Lý Thụy). Từ đây, Lê Hữu Trọng và các thiếu niên khác đều
mạng họ Lý để đảm bảo bí mật. Lê Hữu Trọng được đổi tên là Lý Tự Trọng từ đó.
Năm 1931,nhân kỷ niệm một năm cuộc khởi nghĩa Yên Bái, Xứ ủy Nam Kỳ quyết
định tổ chức đợt tuyên truyền tố cáo tội ác của thực dân Pháp và kêu gọi quần chúng
đấu tranh. Ngày 08/02/1931, các chiến sỹ cách mạng đã tổ chức một cuộc mít tinh
chớp nhống, với cờ đỏ búa liềm giương cao, đồng chí Phan Bôi đã là người đứng lên
diễn thuyết kêu gọi quần chúng đánh đổ thực dân Pháp.


Giữa lúc ấy tên thanh tra mật thám Pháp Le Grand và bọn cảnh sát đi cùng ập tới.
Giừa tình hình “ ngàn cân treo sợi tóc” ấy, Lý Tự Trọng đã rút súng bắn chết tên
thanh tra mật thám, đồng thời giải cứu thốt đồng chí diễn thuyết một cách an tồn.
Trước sự kiện chấn động đó, Thực dân Pháp đã ra sức truy lùng và bắt sống Anh,
chúng hết tra tấn lại dụ dỗ, nhưng Anh vẫn một lòng trung thành với cách mạng, với
Đảng. Chúng hứa sẽ cho Anh sang Pháp học, chúng hứa cho anh một cuộc sống tốt
đẹp, sung sướng. Trước bao cám dỗ, Anh vẫn một lòng với Đảng, với Nhân dân, với
Tổ chức mà cắn rang chị mọi địn roi, mọi nhục hình đau đớn.


Dù bọn chúng đã dùng mọi thủ đoạn đê hèn để khuất phục, nhưng Anh vẫn một mực
từ chối, chúng đã đem anh ra tồ án xét xử. Chính quyền thực dân Pháp ở Đơng
Dương đã mở một phiên tịa đại hình để xử một chiến sĩ cộng sản Việt Nam chưa đầy


18 tuổi. Lý Tự Trọng bị kết án tử hình. Đứng trước cái chết, Lý Tự Trọng khơng hề
run sợ, Anh chủ động biến phiên tòa của đế quốc thành một diễn đàn của người chiến
sĩ cộng sản. Khi luật sư bào chữa xin bọn thực dân mở lượng khoan hồng vì Lý Tự
Trọng chưa đến tuổi trưởng thành và hành động thiếu suy nghĩ, Anh đã gạt phắt đi và
dõng dạc nói: “Tơi hành động có suy nghĩ, tơi hiểu việc tơi làm, tơi làm vì mục đích
cách mạng. Tơi chưa đến tuổi thanh niên thật, nhưng tơi đủ trí khơn để hiểu rằng con
đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường
nào khác”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Anh ra đi, nhưng ngọn lửa khát vọng của tuổi trẻ, khát vọng cống hiến, hi sinh vì tổ
quốc, vì dân tộc còn sống mãi trong trái tim những người trẻ mai sau.


Noi gương anh Lý Tự Trọng, tuổi trẻ thành phố mang tên Bác hăng hái xung phong đi
bất cứ nơi đâu, làm bất cứ việc gì khi Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó, khơng
ngại hy sinh gian khổ và dệt nên những thành tích to lớn góp phần xây dựng quê
hương đất nước mến yêu. Điều đó đã khẳng định bản lĩnh của tuổi trẻ, nối tiếp truyền
thống vẻ vang, hào hùng của các thế hệ cha, anh và thể hiện trách nhiệm của những
người chủ tương lai của nước nhà.


<b>Tiểu sử Anh Nguyễn Bá Ngọc</b>


Nguyễn Bá Ngọc là học sinh lớp 4B (năm học 1964 - 1965) trường phổ thông cấp I xã
Quảng Trung, huyện Quảng Xương, tỉnh Thanh Hóa. Năm 1964, giặc Mỹ vừa ồ ạt
đưa quân vào miền Nam, vừa cho máy bay leo thang ra đánh phá các tỉnh miền Bắc
nước ta. Chúng ném bom cả trường học và bệnh viện, Nguyễn Bá Ngọc và các bạn
phải đi học trong cảnh sơ tán dưới hầm hào.


Ngày 4 tháng 4 năm 1965, máy bay giặc Mỹ đã tới ném bom, bắn phá xã Quảng
Trung. Lúc ấy, người lớn đã ra đồng làm việc, trong nhà chỉ cịn có trẻ em. Nghe tiếng
máy bay, Ngọc đã kịp chạy xuống hầm. Và bom đã rơi xuống bên cạnh nhà Ngọc. Ở


dưới hầm, Ngọc nghe thấy có tiếng khóc to bên nhà Khương, Khương là bạn của
Ngọc. Khơng chút ngần ngừ, Ngọc nhào lên, chạy sang nhà Khương thì thấy bạn của
mình đã bị thương. Các em nhỏ của Khương là Toanh, Oong, Đơ đang kêu khóc.
Ngọc vội vừa bế, vừa dìu hai em Oong, Đơ xuống hầm. Ngọc bị gần tới nơi trú ẩn thì
giặc lại thả bom bi và em đã bị một viên bi bắn vào lưng rất hiểm. Cứu được hai em
nhỏ rồi, Ngọc mới tái mặt, lả đi. Vết thương quá nặng, Ngọc đã hy sinh vào lúc 2 giờ
sáng ngày 5-4-1965 ở bệnh viện.


Noi gương quên mình cứu em nhỏ, thiếu nhi cả nước ta đã học tập và làm theo
Nguyễn Bá Ngọc. Ngay năm ấy và năm sau, đã xuất hiện: Trần Thị Miên, Trần Thị
Vệ (Thanh Hóa), Trần Quốc Ý (Nghệ Tĩnh)… đã liên tiếp dũng cảm cứu bạn, cứu em
nhỏ trong bom đạn của địch


<b>Tiểu sử Anh Nguyễn Văn Trỗi</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

Chúng hỏi anh muốn gì? Anh trả lời: “Tao muốn giết hết bọn Mỹ, tao muốn miền
Nam được giải phóng.”


Cuối cùng chúng quyết định giết anh. Ra tới nơi bắn người ở trường bắn, chúng bịt
mắt anh. Anh giật chiếc khăn ra và nói: “Khơng! Phải để tơi nhìn mảnh đất này!
Mảnh đất thân u của tôi”.


Và anh hô to:


“Hãy nhớ lấy lời tôi:
Đả đảo đế quốc Mỹ!
Đả đảo Nguyễn Khánh!
Hồ Chí Minh mn năm!
Hồ Chí Minh mn năm!
Hồ Chí Minh mn năm!


Việt Nam mn năm!”


</div>

<!--links-->
Tài liệu Triển khai Windows 7 – Phần 3: Tìm hiểu về MAP 4.0 doc
  • 8
  • 531
  • 3
  • ×