Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.56 KB, 6 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
SỞ GD & ĐT BÌNH ĐINH
<i> Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề</i>
SỞ GD & ĐT BÌNH ĐINH
<i> Thời gian làm bài: 180 phút, không kể thời gian phát đề</i>
<i><b>Câu</b></i> <i><b>Đáp án</b></i> <i><b>Điểm</b></i>
<b>Câu 1</b>
<i><b>3,0</b></i>
<i><b>điểm</b></i>
0,5đ
1,5đ
1,0đ
<b>Câu 2 So sánh hai tổ chức cách mạng: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên</b>
<b>và Việt Nam Quốc dân đảng.</b>
<i><b>2,0 điểm</b></i>
Từ nửa sau những năm 20 của thế kỉ XX, ở Việt Nam xuất hiện Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên và Việt Nam quốc dân đảng. Đó là những tổ
<i>- Về đường lối chính trị: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đi theo</i>
khuynh hướng vô sản ngay từ đầu; Việt Nam quốc dân đảng lúc đầu chưa
rõ ràng, về sau chuyển sang lập trường dân chủ tư sản.
<i>- Về địa bàn hoạt động: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên thành lập ở</i>
nước ngồi, sau đó chuyển trọng tâm hoạt động về nước, có cơ sở ở cả 3
kì; Việt Nam quốc dân đảng chủ yếu ở Bắc kì.
<i>- Về phương thức hoạt động: Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên coi</i>
trọng công tác tuyên truyền, vận động quần chúng. Đặc biệt, Nguyễn Ái
Quốc rất coi trọng công tác đào tạo, huấn luyện cán bộ nòng cốt cho cách
mạng. Trong khi đó, Việt Nam quốc dân đảng nặng về bạo động, ám sát,
sau khi bị động thì chuyển sang khởi nghĩa mặc dù chưa có sự chuẩn bị
chu đáo.
Trong khi đó, Việt Nam quốc dân đảng với vai trò là một đảng cách mạng
theo khuynh hướng dân chủ tư sản đã tan rã sau cuộc khởi nghĩa Yên Bái.
Điều đó cho thấy thắng lợi của khuynh hướng vơ sản và thất bại của
khuynh hướng tư sản. Đó là sự sàng lọc nghiêm khắc của lịch sử, phản
ánh xu thế khách quan của cách mạng Việt Nam.
<b>Câu 3</b>
<i><b>2,0 điểm</b></i>
* Điều kiện khách quan: Thuận lợi
- Chiến tranh thế giới thứ hai ở vào thời điểm kết thúc: Tháng 5/1945
phát xít Đức bị tiêu diệt; Đầu tháng 8/1945, quân đồng minh tiến cơng
mạnh mẽ vào các vị trí của qn Nhật ở Châu Á – Thái Bình Dương.
Ngày 6 và 9/8/1945, Mĩ ném 2 quả bom nguyên tử xuống hai thành phố
Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản.
- Ngày 9/8/1945, Liên Xô tấn công làm tan rã đạo quân Quan Đông của
Nhật ở Trung Quốc. Ngày 15/8/1945, chính phủ Nhật tuyên bố đầu hàng
đồng minh. Bọn Nhật ở Đông Dương hoang mang, tạo cơ hội ngàn năm
có một cho cách mạng Việt Nam.
- Quân đội đồng minh làm nhiệm vụ giải giáp phát xít chưa kéo vào nước
ta.
Điều kiện khách quan có lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
0,75đ
<i>* Điều kiện chủ quan:</i>
- Đảng cộng sản Đơng Dương đã có q trình chuẩn bị chu đáo với ba cao
trào cách mạng: 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945. Trong cao trào
cách mạng giải phóng dân tộc 1939 - 1945, Đảng cộng sản Đông Dương
đã lãnh đạo nhân dân ta chuẩn bị đầy đủ, chu đáo về mặt đường lối, lực
lượng chính trị, lực lượng vũ trang, căn cứ địa cách mạng và bước đầu tập
dượt cho quần chúng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, nhân dân
sẵn sàng nổi dậy khi có lệnh khởi nghĩa.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Mặt trận Việt Minh, cao trào kháng Nhật
cứu nước phát triển mạnh mẽ, nhất là sau khi Nhật đảo chính Pháp. Tồn
dân đồn kết một lịng, Đảng kịp thời phát động tổng khởi nghĩa trong
toàn quốc.
- Ngày 13/8/1945, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập ủy
ban khởi nghĩa toàn quốc, ban hành quân lệnh số 1, phát lệnh Tổng khởi
nghĩa trong cả nước.
- Từ ngày 14 đến 15/8/1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng đã họp ở Tân
Trào (Tuyên Quang) thông qua kế hoạch lãnh đạo tồn dân Tổng khởi
nghĩa giành chính quyền trong toàn quốc và quyết định những vấn đề về
đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền…
- Tiếp đó, từ ngày 16-17/8/1945, Đại hội quốc dân họp ở Tân Trào nhất
trí tán thành quyết định lệnh Tổng khởi nghĩa, thơng qua 10 chính sách
của mặt trận Việt Minh, đồng thời lập uỷ ban dân tộc giải phóng Việt
Nam tức chính phủ cách mạng lâm thời do Hồ Chí Minh đứng đầu.
Trong những điều kiện trên, thì điều kiện chủ quan giữ vai trị quyết
định. Vì nếu khơng có sự chuẩn bị chu đáo của Đảng, thì cho dù điều kiện
khách quan có thuận lợi, cũng khơng thể nổ ra một cuộc tổng khởi nghĩa
được. Sự lãnh đạo của Đảng đã giữ vai trị quan trọng nhất.
<b>Câu</b>
<b>4</b>
<i><b>3,0 điểm</b></i>
+ Bước vào mùa xuân năm 1968, xuất phát từ nhận định so sánh lực
lượng có lợi cho ta, đồng thời lợi dụng mâu thuẫn trong năm bầu cử tổng
thống ở Mĩ(1968), ta chủ trương mở cuộc Tổng tiến cơng và nổi dậy trên
tồn miền Nam, trọng tâm là các đô thị, nhằm tiêu diệt một bộ phận quân
Mỹ, đánh địn mạnh vào chính quyền và qn đội Sài Gịn, giành chính
quyền về tay nhân dân, buộc Mỹ phải đàm phán rút quân về nước.
<b> + </b>Đêm 30 rạng 31-1-1968, cuộc Tổng tiến công và nổi dậy đã diễn ra ở
hầu khắp các đô thị miền Nam.
- Cuộc tổng tiến công diễn ra qua 3 đợt.
+ Đợt 1, từ ngày 30/1 đến 25/2/1968, Quân ta đồng loạt tiến công và nổi
dậy ở 37/44 tỉnh, 4/6 đô thị, 64/242 quận lị, ở hầu khắp các “ấp chiến
lược”
Tại Sài Gịn, qn giải phóng tiến cơng vào cơ quan đầu não của địch:
Tòa Đại sứ Mỹ, Dinh Độc lập, Bộ Tổng tham mưu, Tổng nha cảnh sát, Đài
phát thanh, Sân bay Tân Sơn Nhất…làm rung chuyển cả miền Nam.
+ Đợt 2, trong tháng 5 và 6; đợt 3 trong tháng 8 và 9/1968.
<b> - </b>Trong đợt 1: Ta loại khỏi vòng chiến đấu 147.000 tên địch (43.000 lính
Mỹ), phá hủy khối lượng lớn vật chất, phương tiện chiến tranh. Trong đợt
2 và 3 ta gặp khó khăn và tổn thất.
<b> - </b>Mặt dù có những tổn thất, nhưng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân
Mậu Thân 1968 vẫn có ý nghĩa to lớn: Đã giáng địn bất ngờ làm địch
chống ván, làm lung lay ý chí xâm lược của quân Mỹ, buộc Mĩ phải tuyên
bố “phi Mĩ hóa” chiến tranh, chấm dứt khơng điều kiện ném bom phá hoại
miền Bắc, chấp nhận đến bàn đàm phán ở Pari. Mở ra bước ngoặt của cuộc
kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
<b>* Miền Bắc đánh bại chiến tranh phá hoại lần thứ nhất của Mĩ:</b>
Trong hơn 4 năm (từ ngày 5/8/1964 đến 1/11/1968), miền Bắc đã bắn rơi
và phá hủy 3243 máy bay trong đó có 6B52, 3F111), bắn cháy và chìm143
tàu chiến.
- 1-11-1968, Mỹ tuyên bố ngừng ném bom miền Bắc.
<i>1,5 đ</i>
<b>* Cuộc tiến công chiến lược năm 1972:</b>
- 30-3-1972, ta mở cuộc tiến công chiến lược vào Quảng Trị, lấy Quảng
- Cuối 6-1972, quân ta chọc thủng ba phòng tuyến mạnh nhất của địch:
Quảng Trị, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ loại 20 vạn quân địch, giải phóng
vùng rộng lớn.
Cuộc tiến cơng chiến lược 1972, đã giáng đòn nặng nề vào chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, buộc Mĩ phải “Mĩ hóa” trở lại chiến tranh
xâm lược (thừa nhấn sự thất bại của chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”).