Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

SANG KIEN KINH NGHIEN NGU VAN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.37 KB, 12 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<i><b>Phần thứ nhất: ĐẶT VẤN ĐỀ</b></i>


Cách mạng khoa học công nghệ cùng với sự ra đời của nền kinh tế tri
thức, xã hội hố thơng tin, sự tồn cầu hố và hội nhập kinh tế đã và đang
có tác động trực tiếp đến lực lượng sản xuất và mọi lĩnh vực đời sống xã
hội trong đó có giáo dục. Trong bối cảnh đó Việt Nam và nhiều nước trên
thế giới đã tiến hành cải cách giáo dục bằng cách xây dựng chiến lược phát
triển giáo dục với những định hướng đổi mới, tiến bộ. Cùng với sự đổi mới
đó, việc nâng cao chất lượng dạy học là u cầu chung cho tất cả các bộ
mơn, trong đó có mơn Ngữ văn.


Phân mơn Ngữ văn hiện nay bao gồm phần Văn, Tiếng Việt và Tập
làm văn. Giữa ba phần này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bổ xung, tích
hợp tạo nên một sự hài hồ. Cũng như các bộ môn khác môn Ngữ văn
không chỉ là một mơn khoa học cơ bản mà nó là một vị trí vai trị quan
trọng trong việc hình thành nhân cách con người. Môn Ngữ văn với những
tác phẩm văn học chứa đựng nội dung phong phú, đa dạng về văn hoá, tinh
thần, tư tưởng, tâm hồn của dân tộc. Đồng thời mơn ngữ văn có nhiệm vụ
góp phần hình thành nhân cách xã hội chủ nghĩa cho học sinh, giúp các em
cảm thụ được những giá trị: chân - thiện - mỹ. Giúp các em hiểu biết về thế
giới con người xã hội. Đúng như Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nói "<i><b>Dạy</b></i>
<i><b>được cái hay cái đẹp của văn, đồng thời cũng dạy được bao nhiều cái</b></i>
<i><b>hay cái đẹp khác về tâm hồn, về tư tưởng, về lẽ sống ở trong bài đó"</b></i>, làm
cho giờ văn trở thành một giờ hấp dẫn, một giờ sôi nổi, hứng thú với học
sinh. Để học sinh có thể hiểu được những giá trị của một tác phẩm văn học,
không thể thiếu được vai trị của từ ngữ diễn đạt.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

hình vừa chung cho ngôn ngữ vừa riêng cho Tiếng Việt, có rất nhiều kiểu
cấu tạo từ và nhiều kiểu ngữ cố định đặc trưng cho Tiếng Việt. Giữa các
kiểu cấu tạo và ngữ nghĩa của các đơn vị từ vựng có quan hệ nhất định.



Xuất phát từ sự phong phú, đa dạng trên của hệ thống từ vựng Tiếng
Việt nhất là trong dạy học ở nhà trường vấn đề cần giải quyết là làm sao
cho học sinh hiểu và nắm được kiến thức cơ bản về ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ
của mình. Mỗi tiết học Tiếng Việt với thời lượng kiến thức đã cho trong
khoảng thời gian vừa đủ tài liệu đã đáp ứng được nhu cầu hiểu Tiếng Việt
của học sinh chưa ?. Làm thế nào để việc dạy từ ngữ trong nhà trường đạt
đến mục đích cuối cùng là làm cho học sinh hiểu và yêu quý, biết giữ gìn
tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình. Đó chính là lý do tơi chọn về vấn đề:
<i><b>"</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<i><b>Phần thứ hai: NỘI DUNG</b></i>
<b>1. Cơ sở khoa học đề suất sáng kiến.</b>


Mơn Tiếng Việt có mục tiêu chung là giúp học sinh sử dụng tốt
Tiếng Việt trong giao tiếp. Dạy bất cứ phần nào của môn Tiếng Việt cũng
phải nhằm vào mục tiêu cuối cùng đó. Vì vậy, dạy từ và từ vựng trước hết
là cung cấp vốn từ ngày càng mở rộng, chính xác, tinh tế theo trình độ, tư
tưởng, tình cảm, trí tuệ tri thức khoa học và kinh nghiệm xã hội ngày càng
được nâng cao, đáp ứng những đòi hỏi mới ngày càng lớn của sự diễn đạt
và giao tiếp vào việc học tập trong nhà trường, vào sinh hoạt xã hội đặt ra
cho học sinh.


Đây khơng phải q trình một chiều, thụ động tiến hành theo lối đưa
ra rồi buộc học sinh ghi nhớ những cái mới mà cịn là một q trình hai
chiều, chủ động. Cần làm cho học sinh nắm được những vận động tạo từ và
tạo nghĩa của Tiếng Việt, nắm được mọi cách thức vận dụng biến hoá
chúng để giúp họ trong thực tế giao tiếp biết vận dụng vốn từ một cách linh
hoạt, sáng tạo.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Dạy từ vựng là một cách giáo dục thẩm mỹ. Như đã thấy ở trên mỗi


từ ngữ là một bức tranh thiên nhiên, xã hội, thế thái nhân tình thu nhỏ, rất
nhiều từ ngữ là một tác phẩm văn học cô đọng. Thơng qua việc dạy từ vựng
chúng ta có thể chỉ cho học sinh biết thế nào là cái "đẹp". Dạy từ ngữ chỉ
những sự vật hiện tượng rất xấu, những phẩm chất đáng lên án cũng có ý
nghĩa giáo dục; cái đẹp nếu chỉ ra được cách quan sát, cách phát hiện ra
những sắc thái khác nhau của cái xấu đó, cách thể hiện chung một cách
sinh động giàu tính hình tượng mà tổ tiên chúng ta để lại trong từ ngữ. Mặt
khác, tính thẩm mỹ của văn học thể hiện trước hết trong từ ngữ cho nên dạy
tốt môn từ vựng cũng là cung cấp cho học sinh cơ sở ngôn ngữ học để nhận
biết cái hay, cái đẹp của văn học.


Chúng ta chú trọng giáo dục thẩm mỹ cho học sinh qua bộ môn nghệ
thuật thực sự như văn học, hội hoạ, phương pháp, âm nhạc… nhưng có
những cái đẹp thường gặp hàng ngày, cái đẹp trong ngơn ngữ thì chúng ta
lại rất dễ bỏ qua.


Tất cả nhưng yêu cầu nói ở các mục trên nếu đạt được thù cũng có
nghĩa là việc dạy từ ngữ đã có tác dụng giáo dục lịng u nước, cái cốt
cách Việt Nam ở những con người Việt Nam bắt đầu hình thành khi họ bập
bẹ từ tiếng Việt đầu tiên.


Dạy từ vựng cịn có tác dụng rèn luyện năng lực tư duy phân tích và
tổng hợp cho học sinh. Chúng ta ai cũng cảm thấy rằng dùng một từ khơng
sai thì tương đối dễ, nhưng giảng cho được nghĩa của nó cho sát đúng, cho
thật bao qt, khơng ai bắt bẻ được thì rất khó. Khơng phân tích tốt những
sự khác nhau trong ý nghĩa của các từ. Không tổng hợp, không khái quát
cho thật trọn vẹn những cái chung trong vô số những cách dùng hết sức
khác nhau của một từ thì khơng thể nào định nghĩa ý nghĩa của nó được.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Và cuối cùng giảng từ, sử dụng từ đúng đắn, chính xác đạt hiệu quả


biểu thái và biểu niệm cao còn là một cách rất tốt luyện cho học sinh thói
quen làm việc cần cù, kiên nhẫn, thận trọng, có trách nhiệm đối với chính
sản phẩm của mình, một thói quen mà hiện nay học sinh chúng ta rất thiếu.


Hiện nay việc giảng dạy từ vựng cịn gặp một khó khăn lớn, đó là số
lượng các từ ngữ cần cung cấp và rèn luyện cho học sinh rất đồ sộ. Chúng
ra sẽ không đủ giờ dạy một cách tỉ mỉ, kỹ càng dù chỉ là 1% những từ cần
thiết cho học sinh. Vì vậy phải biết vận dụng một cách khéo léo, linh hoạt
việc dạy các loại từ ngữ phù hợp với việc chọn các từ ngữ điển hình tiêu
biểu cho mỗi loại, kết hợp việc dạy trên lớp của thầy giáo với việc tự tìm
tịi, bổ xung thêm của học sinh.


Dù sao thì trong mỗi bài học về từ vựng cũng có hai nội dung lớn:
Nội dung thứ nhất bao gồm những hiểu biết thuộc hệ thống ngôn ngữ về từ
được dạy; Nội dung thứ hai bao gồm những hiểu biết có tính chất lời nói về
nó. Mỗi nội dung đó phải làm sao bao gồm được tất cả các vấn đề thuộc từ
vựng ngữ nghĩa như là trình bày.


Hiện nay tích hợp là quan điểm giảng dạy phổ biến trong giáo dục
trên thế giới, từ tiểu học đến trung học phổ thơng, khơng chỉ các mơn xã
hội mà cịn ở các môn khoa học tự nhiên. Tên gọi ngữ văn trong chương
trình trung học cơ sở dùng cho những năm đầu thế kỷ XXI ở nước ta là vận
dụng quan điểm tích hợp vào việc giảng dạy ba mơn Tiếng Việt, Văn học
và Tập làm văn. Từ ngữ là bộ phận của môn Tiếng Việt dễ dàng giảng dạy
theo tinh thần tích hợp nhất. Chính vì thế trong giờ Văn, Tiếng Việt, Tập
làm văn việc dạy từ ngữ giúp cho giờ học tích cực, sinh động, có hiệu quả.


<b>2. Nội dung cụ thể của sáng kiến.</b>
<i>a. Về việc giảng nghĩa từ:</i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

ngữ dân tộc, gây cho học sinh ý thức tơn trọng ngơn ngữ dân tộc thói quen
cân nhắc, lựa chọn khai thác triệt để cái hay cái đẹp trong từ để nâng lên
mức cao nhất chất lượng nội dung, hình thức câu văn nói và viết của học
sinh.


Một từ là một hợp thể giữa ngữ nghĩa và thành phần hình thức: hình
thức ngữ âm, hình thức cấu tạo và hình thức ngữ pháp. Trong đó câu nói
đến quan hệ giữa các từ tạo nên quan hệ đồng nghĩa, trái nghĩa, quan hệ
giữa từ địa phương, từ vay mượn với các từ Việt hoặc Việt hoá, làm cho
học sinh nắm bắt được tất cả những thành phần, những quan hệ đó là nội
dung của việc dạy từ.


Giảng nghĩa từ trước hết là làm cho học sinh hiểu thấu đáo nó, nghĩa
là làm cho học sinh nắm được nghĩa chung và nghĩa riêng, rộng và hẹp
cùng với quan hệ giữa chúng. Trong khi giảng cần cho học sinh biết được
quan hệ ngữ nghĩa giữa các từ đang giảng với các từ khác trong từ vựng.
Có các cách giảng nghĩa sau:


- Giảng nghĩa biểu niệm theo các định nghĩa:


Khái niệm: Giảng nghĩa theo cách này là liệt kê các nét nghĩa với sự
sắp xếp nét nghĩa. Khái quát cũng tức là nét nghĩa từ loại lên trước và các
nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì ở sau.


- Giảng nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa hoặc trái nghĩa.
Ví dụ: Ngắn trái nghĩa với dài


Cam tâm đồng nghĩa cam lòng.


Đây là cách giảng một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, tuy


nhiên vì từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái nên giảng theo lối so sánh từ
đồng nghĩa chỉ áp dụng cho từ đồng nghĩa tuyệt đối.


- Giảng nghĩa theo cách mô tả, cách này có hai dạng:


Dạng tính chất, hiện tượng thường gặp để giúp học sinh lĩnh hội ý
nghĩa của từ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

Dạng thứ hai: đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như từ láy
sắc thái hố thì phải kết hợp cách giảng theo khái niệm, mặt khác phải dùng
lối miêu tả.


Yêu cầu khi giảng nghĩa của từ: diễn đạt lời giảng sao cho ngắn gọn,
xúc tích, đầy đủ cho nên giáo viên cần phải biết chọn cách diễn đạt sao cho
đối với những từ ngữ trong cùng một nhóm ngữ nghĩa, trong mơi trường
giảng bằng công thức giống nhau. Giải nghĩa từ trong từ điển hay bài học
cũng vậy, thực chất là lấy từ này để giảng từ khác, yêu cầu của người giảng
là khái quát càng cao càng tốt, lời giảng phải đầy đủ, tránh khuyết điểm chỉ
đúng với bộ phận ý nghĩa, nên chú ý đừng lẫn lộn nghĩa của từ với nghĩa
của ngữ.


Giảng nghĩa từ trong ngôn cảnh là cách giảng nghĩa thường gặp
trong các giờ giảng văn, khi ấy chúng ta chỉ cần giảng một nghĩa nào đó
cần cho ngơn cảnh đó mà thơi.


<i>b. Phân tích từ ngữ trong giảng văn:</i>


Đối tượng của việc phân tích tưg ngữ trong giảng văn cả từ ngữ cố
định, cụm từ tự do, thậm chí cả câu nếu như các đơn vị lời nói này tương
đương với một hình ảnh ngơn ngữ . Thường thường đây là những ẩn dụ hay


hốn dụ có hình thức diễn đạt trên từ.


Việc phân tích từ ngữ phải đạt hai yêu cầu chủ yếu: yêu cầu phát
hiện được tư tưởng, tình cảm… các tác giả gửi gắm trong từ ngữ và yêu
cầu phát hiện ra các giá trị nghệ thuật của nó. Hai yêu cầu này tuy khác
nhau nhưng thực ra lại quyện vào nhau: từ ngữ có giá trị nghệ thật là từ ngữ
bộc lộ một cách sinh động, lơi cuốn điều tác giả muốn nói. Nói rõ hơn, việc
phân tích nội dung từng từ một khơng thể là một không thể là một việc cô
lập mà phải đặt trong khn khổ chung của tồn tác phẩm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

thường được nói tới đó là: tính hình tượng, tính truyền cảm và tính cá thể,
tính hàm súc, tính hệ thống, tính đa phong cách.


cũng như các ngành nghệ thuật khác. Văn học thực hiện các chức
năng của mình thơng qua các hình tượng được dựng nên. Do đó ngơn ngữ
văn chương trước hết phải làm thế nào giúp cho văn học dựng được các
hình tượng trong tác phẩm. Ngơn ngữ có tính hình tượng là ngơn ngữ có
khả năng tái hiện hiện thực, làm xuất hiện ở người đọc những biểu tượng
thị giác, thính giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, vị giác, ngững biểu
tượng vận động của người, vật, cảnh đời… được nói tơi trong tác phẩm.


Mùa xuân con chim én mới


Rộn đồng chiêm chấp chới trời xanh


( Tố Hữu )


Từ chấp chới gợi ra như vẽ dáng bay của chim én: vút lên cao nhưng
không thẳng một đường mà thành từng nấc theo từng nhịp cụp x của đơi
cánh. Nó cũng rất chính xác và nó hợp với cánh bay của lồi én. Ngơn ngữ


nghệ thuật muốn có tính hình tượng trước hết phải chính xác.


Tác phẩm nghệ thuật là sản phẩm của cảm xúc người nghệ sĩ trước
cảnh đời, cảnh người, trước thiên nhiên. Bởi vậy, ngôn ngữ văn chương
phải biểu hiện cho được cảm xúc của tác giả và truyền được cảm xúc của
tác giả đến người đọc, làm thế nào để dấy lên được ở người đọc những cảm
xúc như cảm xúc của tác giả. Đây là đặc điểm rất dễ nhận thấy ở các ngôn
bản văn học với các ngôn bản thuộc các phong cách khác.


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Khi ngôn bản tránh được lỗi từ thừa, từ lặp là đạt được tính ngắn
gọn, ở ngơn ngữ nghệ thuật, tính ngắn gọn phải được nâng cao, nghệ thuật
hố. Nó trở thành hàm xúc, hàm xúc có nghĩa là đảm bảo được nhiều tính
chất nhất (hình tượng, cá thể, truyền cảm) bằng số lượng yếu, số ngơn ngữ
được dùng ít nhất. Ngôn ngữ văn chương là ngôn ngữ nhiều nghĩa (đa
nghĩa), là ngơn ngữ có nhiều lớp nghĩa, có lớp nghĩa trực tiếp, có lớp nghĩa
ẩn. Từ chấp chới trong hai câu thơ của Tố Hữu đã dẫn dắt trực tiếp tả dáng
bay của chim én, hàm ẩn là gợi ra con đường đi lên của đất nước Việt Nam
thời kỳ 1945 - 1961, gợi ra tâm tưởng hưng phấn, thanh thoát của con
người Việt Nam trong những năm ấy.


Như là một nhu cầu tự nhiên, khi ngơn bản nói về sự vật, sự việc nào
đó thì các yếu tố ngôn ngữ phải thống nhất với nhau để làm rõ nên sự vật,
sự việc đó.


Tính chất này được nâng cao, nghệ thuật hố tính hệ thống của ngơn
ngữ nghệ thuật, tính hệ thống của ngơn ngữ văn chương là tính chất theo đó
các yếu tố ngơn ngữ trong tác phẩm (ngữ âm, cấu trúc câu, từ ngữ ) phải
đồng nhất với nhau, giải thích cho nhau, hỗ trợ cho nhau, quy tụ lại để đạt
tới một hiệu quả diễn đạt chung nào đó.



Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khơ lạc mấy dịng.


(Huy Cận)


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Thực ra tính hệ thống của ngôn ngữ văn chương (và của cả tác phẩm
cả một trào lưu văn học,… ) là vấn đề rất lớn, ở đây chỉ nói một vài phương
diện dễ nắm bắt mà thơi.


Nói ngơn ngữ văn chương là nói chung, ngôn ngữ văn chương phân
thành ngôn ngữ thơ và ngôn ngữ văn xuôi. Ngôn ngữ văn xuôi, đặc biệt là
ngôn ngữ tiểu thuyết là ngôn ngữ đa phong cách. Do yêu cầu cá thể, do yêu
cầu của tinhs hình tượng nên trong tác phẩm, khi viết về nhân vật thuộc
tầng lớp xã hội nào, viết về sự viêc thuộc lĩnh vực nào tái hiện lời ăn, tiếng
nói của nhân vật đang diễn ra ở hoạt động xã hội nào thì tác giả phải sử
dụng ngơn ngữ của phong cách chức năng phù hợp với tầng lớp, lĩnh vực,
hoạt động xã hội đó. Văn xi nghệ thuật khác văn xi thuộc các phong
cách chức năng khác là ở đặc điểm này, ngơn bản thuộc phong cách chức
năng nào thì chỉ dùng phong cách chức năng đó. Cịn trong tiểu thuyết,
trước hết là tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa, nhà văn dùng rất nhiều phong
cách chức năng trong tác phẩm của mình.


Để ngơn ngữ trong tác phẩm đạt được hiệu quả thẩm mỹ mong
muốn, nhà văn phải lao động cực nhọc để sao cho hàng trăm tấn quặng, từ
ngữ lựa chọn đạt được cao nhất các đặc điểm nói trên.


Các nhà văn, nhà thơ khi sáng tác không người nào không khổ cơng
trau luyện ngơn ngữ trong tác phẩm của mình. Hãy đọc lại bản di trúc của


Chủ Tịch Hồ Chí Minh, trước khi dừng lại ở câu chữ cuối cùng, Bác đã sửa
đi, sửa lại tờ câu đến từ, đến cách ngắt câu đến từng dấu chấm, phẩy. Đó là
bài học lớn về sự chăm lo đến một ngôn ngữ của ngôn bản mà Bác để lại
cho chúng ta.


Để đạt được đặc điểm trên của ngôn ngữ văn chương cần phải cân
nhắc, lựa chọn hàng chục từ ngữ, kiểu câu có thể dùng để diễn đạt một ý
nào đó cái nào là tốt nhất, nghệ thuật nhất.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

viết ra. Một ý mà nội dung chua định hình được thì việc xác định từ ngữ là
rất khó, phải đọc lại để có thể thay thế từ ngữ khác, cần lựa chọn những từ
đáp ứng được giá trị thẩm mĩ. Khi lựa chọn từ khơng nên qn tính hệ
thống của từ ngữ trong tác phẩm, kiểm tra lại sự phù hợp với phong cách,
tính địa phương, tính thời đại, đặc điểm riêng của nhân vật, của từ.


<b>3. Hiệu quả của sáng kiến.</b>


V i nh ng ki n th c c b n trên v vi c d y t ng trong nhớ ữ ế ứ ơ ả ề ệ ạ ừ ữ à
trường chúng ta có th áp d ng v o các ti t d y ti ng vi t ể ụ à ế ạ ế ệ đạt hi u quệ ả
h n, c th trong chơ ụ ể ương trình l p 6, b i Ti ng vi t v "Ngh a c a t "ớ à ế ệ ề ĩ ủ ừ
chúng ta áp d ng gi i thích ngh a c a t d a v o hi n tụ ả ĩ ủ ừ ự à ệ ượng t ừ đồng
ngh a ĩ để gi i thích ngh a c a t ho c dùng t trái ngh a, dùng kháiả ĩ ủ ừ ặ ừ ĩ
ni m. Trong các b i v các bi n pháp: so sánh, nhân hoá, n d , hoánệ à ề ệ ẩ ụ
d , giáo viên có th ch ra ụ ể ỉ đặ đ ểc i m c a ngôn ng v n chủ ữ ă ương nó mang
tính hình tượng, tính truy n c m. K t qu c a các ti t h c n y l h cề ả ế ả ủ ế ọ à à ọ
sinh phát bi u sôi n i, có h ng thú tìm tịi nh ng t ể ổ ứ ữ ừ đồng ngh a, tráiĩ
ngh a. có th nêu lên nh ng c m nh n c a mình v cái hay, cái ĩ ể ữ ả ậ ủ ề đẹp c aủ
m i t ng . ỗ ừ ữ Đố ượi t ng được d y các ti t Ti ng vi t liên quan ạ ế ế ệ đế ừn t
ng l các em h c sinh kh i 6 v k t qu c a các l p trong các ti t h cữ à ọ ố à ế ả ủ ớ ế ọ
l :à



<b>Tên lớp</b> <b>Chất lượng (%) học sinh hiểu bài</b>


6A 62


6B 87


<i><b>Phần thứ ba: KẾT LUẬN CHUNG VÀ ĐỀ XUẤT.</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

tiên mỗi người dân Việt Nam đặc biệt là thế hệ trẻ các em học sinh cần phải
hiểu được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ dân tộc mình. Đó là trách nhiệm
của bậc làm thầy, khi muốn truyền đạt kiến thức cho học sinh về tiếng nói,
chữ viết của mình và quan trọng hơn cả là hình thành trong các em lịng
u tiếng nói dân tộc. Trong thời kỳ tồn cầu hố hội nhập hiện nay, bản
sắca dân tộc dễ bị giao thoa biến đổi, nếu không nghiêm túc giáo dục giới
trẻ sẽ làm mất đi bản sắc văn hoá dân tộc. Nhũng từ vay mượn ngày càng
nhiều nếu lạm dụng quá mức sẽ không phát huy được giá trị của Tiếng việt.
Đồng thời việc dạy từ ngữ giúp các em học sinh có thể học phần văn và tập
làm văn được dễ dàng hơn, nhất là trong các tiết tìm hiểu văn bản học sinh
dễ dàng cảm nhận được những giá trị đặc sắc về mặt nội dung và nghệ
thuật của tácphẩm. Đó là việc tích hợp giữa 3 phân môn: Văn, Tiếng việt,
Tập làm văn.


Với những tính chất quan trọng trên nên chúng tơi rất mong vấn đề
dạy từ ngữ trong nhà trường cần được chú trọng đổi mới nhiều hơn để mỗi
giờ học Tiếng việt giáo viên không đơn thuần là dạy con chữ mà quan
trọng hơn cả là dạy về cách giữ gìn nét văn hố, tài sản q giá của dân tộc
- tiếng mẹ đẻ.


Trên đây là những suy nghĩ, đóng góp rất nhỏ của chúng tơi về vấn


đề dạy từ ngữ trong nhà trường. Rất mong nhận được sự đóng góp bổ xung
của tất cả đồng nghiệp, để vấn đề này đi vào ý thức của mỗi người như là
một trách nhiệm đồng thời là nghĩa vụ.


<i>Miền Đồi,ngày 02 tháng 5 năm 2011</i>
Người viết


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×