Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Mồ số giải pháp xây dựng chính sách tín dụng thích hợp tại ngân hàng Sài Goàn thương tín - Chi nhánh nguyễn văn cừ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.68 KB, 34 trang )

MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG
CHÍNH SÁCH TÍN DỤNG THÍCH HP TẠI NGÂN HÀNG SÀI GÒN
THƯƠNG TÍN – CHI NHÁNH NGUYỄN VĂN CỪ
3.1. Nhận Xét
3.1.1. Ưu điểm
Trong những năm gần đây, quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước
diễn ra trong điều kiện có nhiều khó khăn và thách thức lớn, , hiệu quả hoạt động sản
xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế chưa cao, thò trường ngoại tệ thiếu ổn
đònh, lạm phát và giá cả tăng liên tục ... Tuy vậy, Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín –
Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ đã có những bước phát triển vượt bậc, đạt được nhiều kết
quả rất đáng khích lệ, là một trong những chi nhánh có bước phát triển và hoạt động
tốt của hệ thống Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín trong nhiều năm liền. Ngân Hàng
Phát Triển Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long đã được Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước
và các Bộ ngành Trung ương nhiệt tình ủng hộ. Năm 2001, Ngân Hàng Phát Triển
Nhà Đồng Bằng Sông Cửu Long đã được chính phủ xếp hạng doanh nghiệp đặc biệt
và phê duyệt đề án cơ cấu lại Ngân hàng giai đoạn 2001-2010.
Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ có đội ngũ
tín dụng phần đông còn trẻ, có chuyên môn vững chắc rất năng động và nhiệt tình
trong công tác, luôn được bồi dưỡng nghiệp vu, tham dự các khóa học tập nâng cao
nghiệp vụ. Cán bộ tín dụng luôn có thái độ tôn trọng đúng mực đối với khách hàng,
tích cực tìm kiếm khách hàng . . . Hiện nay, Hệ Thống Ngân Hàng Sài Gòn Thương
Tín có nhiều Chi Nhánh, Phòng Giao Dòch tại Thành Phố Hồ Chí Minh và các Tỉnh
Thành khác trải dài khắp cả nước. Nhờ vậy, các chi nhánh của hệ thống ngân hàng có
được lợi thế là đã tiếp cận được nhiều khách hàng, huy động được nhiều nguồn vốn.
Trong kế hoạch của mình, Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi Nhánh Nguyễn Văn
Cừ tiếp tục mở rộng thêm quy mô hoạt động và cơ sở vật chất của chi nhánh. Ngân
Hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ thực hiện tốt công tác hiện
đại hóa ngân hàng, xây dựng và phát triển theo kế hoạch, tăng cường trang bò cơ sở
vật chất, máy móc thiết bò, công cụ lao động cho ngân hàng nhằm nâng cao năâng suất
lao động, khả năng cạnh tranh với các ngân hàng khác.
Các mặt hoạt động của Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi Nhánh


Nguyễn Văn Cừ tăng trưởng nhanh và đi đúng hướng, bám sát mục tiêu chiến lược là
xây dựng thành một ngân hàng thương mại đa năng, chuyên sâu lónh vực đầu tư tín
dụng trung và dài hạn, đặc biệt là tín dụng nhà ở và xây dựng cơ sở hạ tầng. Hoạt
động tín dụng của ngân hàng đã tập trung hiệu quả chương trình xây dựng phát triển
kinh tế xã hội của thành phố, đồng thời đầu tư cho các dự án cơ sở hạ tầng, các
phương án sản xuất kinh doanh khác góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh cải thiện
đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân trong và ngoài thành phố. Ngân hàng càng
ngày có vốn huy động ngày càng tăng, tăng theo hướng tích cực phù hợp với nhu cầu
vốn về số lượng và cơ cấu, tăng dần tỷ trọng vốn trung và dài hạn. Hoạt động cho vay
có nhiều tiến bộ rõ nét, doanh số cho vay và dư nợ tín dụng liên tục tăng nhanh. Trên
cơ sở chức năng nhiệm vụ được giao, trong thời gian qua ngân hàng đã triển khai thực
hiện có kết quả cao, ngân hàng đã không ngừng mở rộng và phát triển các hoạt động
nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế trong khu vực, các chỉ tiêu nghiệp vụ
hàng năm đều tăng cao so với bình quân trong cả nước. Đặc biệt, Ngân hàng đã huy
động được các nguồn vốn dài hạn, trên cơ sở chủ động được nguồn vốn Ngân hàng đã
đầu tư khối lượng vốn cho nền kinh tế. Chất lượng tín dụng được nâng lên, Ngân hàng
vừa tích cực mở rộng cho vay vừa tập trung củng cố chất lượng tín dụng, đúng với quy
trình nghiệp vụ, đối với dư nợ hiện có, thường xuyên làm tốt công tác phân tích nợ
đến hạn, quá hạn để có giải pháp thu phù hợp giảm thấp nợ quá hạn.
Ngoài ra, Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ
tiếp tục đổi mới công tác chỉ đạo điều hành vừa đảm bảo tính tập trung, vừa phát huy
được tính năng động, sáng tạo và thường xuyên nghiên cứu, nắm vững các chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, pháp luật, các cơ chế chính
sách, quy chế nghiệp vụ của ngân hàng cấp trên để chỉ đạo thực hiện việc kinh
doanh, tháo gỡ kòp thời những khó khăn vướng mắc từ cơ sở, tạo môi trường pháp lý
thuận lợi cho ngân hàng cơ sở mở rộng kinh doanh chất lượng. Đònh kỳ tổ chức công
tác tổng kết, sơ kết thực tiễn đánh giá kết quả, rút ra những điểm yếu tồn tại, đặc biệt
là công tác chỉ đạo điều hành và thực hiện qui chế lề lối làm việc nhằm từ đó nắm bắt
và tháo gỡ kòp thời những vướng mắc trong hoạt dộng của ngân hàng.
3.1.2. Nhược điểm

Trong những năm qua, hoạt động của Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín –
Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ đã góp phần rất lớn vào việc đẩy mạnh công nghiệp hóa
hiện đại hóa đất nước, nhưng còn bộc lộ thiếu sót như sau:
- Việc xúc tiến quy hoạch, xây dựng các dự án cụm, tuyến dân cư ở các
đòa phương tiến hành còn chậm và chưa đồng bộ. Tỷ lệ hộ dân được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sử dụng nhà ở, quyết đònh giao đất tại các cụm tuyến
dân cư còn quá thấp nên có nhiều hộ dân chưa đủ điều kiện để vay vốn ngân hàng.
Từ đó, ảnh hưởng đến tiến độ cho vay của ngân hàng. Ngân Hàng Sài Gòn Thương
Tín – Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ chưa có nguồn vốn phù hợp (thời hạn dài, lãi suất
thấp) với mục tiêu cho vay trung và dài hạn xây dựng và phát triển nhà ơ.û
- Ngân Hàng Sài Gòn Thương Tín – Chi Nhánh Nguyễn Văn Cừ mới đi
vào hoạt động chưa được lâu nên chưa được nhiều khách hàng biết đến, mạng lưới
còn mỏng, tiềm lực tài chính còn quá nhỏ bé so với các ngân hàng khác. Các cơ chế
chính sách hỗ trợ đối với loại hình tín dụng nhà ở thời gian đầu chưa có, nhiều vướng
mắc chậm tháo gỡ, nên việc mở rộng quy mô của ngân hàng trong thời kỳ này còn
gặp nhiều khó khăn. Đòa bàn cụm dân cư có khá nhiều các ngân hàng bạn chưa có
mạng lưới chi nhánh và mạng lưới rộng nên cán bộ tín dụng đi lại gặp nhiều khó
khăn, chi phí cao, chưa sâu sát được đòa bàn. Vì vậy, việc giải quyết cho vay đôi lúc
không có chính xác, thu nợ gặp nhiều trở ngại.
- Lũ lụt lớn và kéo dài liên tiếp xảy ra ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu
Long làm cho việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm gặp nhiều khó khăn, giá nông sản
giảm mạnh, ảnh hưởng lớn đến kế hoạch cho vay của ngân hàng.
- Chất lượng tín dụng đang là khâu đóng vai trò thiết yếu trong tất cả hệ
thống các ngân hàng. Cho vay xây dựng và phát triển nhà ở tuy đã được tăng lên
nhanh chóng nhưng vẫn còn rất khiêm tốn. Theo số liệu điều tra thống kê về nhà ở
hiện nay vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long thì có tới 74% nhà ở tạm, điều này phản
ánh nhu cầu về vốn cho sự phát triển nhà vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long còn rất
lớn. Mặc dù tốc độ tăng trưởng tín dụng khá, nhưng nợ quá hạn chiếm tỷ trọng cao nợ
khó đòi chiếm 50% nợ quá hạn. Việc sử dụng vốn của ngân hàng đạt hiệu quả chưa
cao, một số khối lượng lớn tài sản được đầu tư vào lónh vực có khả năng sinh lời thấp

như gửi các tổ chức tín dụng khác, gửi tại Ngân hàng Nhà nước.
- Công tác kiểm tra trong và sau khi cho vay còn chưa phát huy được
hiệu quả và tác dụng, dẫn đến phát sinh nhiều trường hợp sử dụng vốn không đúng
mục đích, thậm chí có khách hàng phá sản bỏ trốn. Nợ quá hạn khó đòi phát sinh.
- Việc đầu tư tín dụng nhà ở một số vùng kinh tế của các tỉnh còn chậm,
việc huy động vốn chưa có hiệu quả, nhất là nguồn vốn huy động trung và dài hạn
trong dân chúng, chưa chủ động tìm kiếm khách hàng tốt, các dự án khả thi, công tác
tiếp thò quảng cáo còn quá ít.
- Tuy có chủ trương xây dựng chương trình phối hợp đồng bộ giữa Ngân
hàng với các y ban nhân dân ở đòa phương, đơn vò kinh tế, nhưng việc tổ chức triển
khai còn lúng túng, sự phối hợp chỉ đạo còn rời rạc, chưa đồng bộ.
- Tiến trình hiện đại hóa ngân hàng còn chậm, chưa theo kòp yêu cầu
phát triển nghiệp vụ và các dòch vụ ngân hàng hiện đại do nền kinh tế và dân cư đòi
hỏi.
3.2. Các giải pháp
3.2.1. Các giải pháp vó mô
3.2.1.1. Thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế
Sự phát triển của nền kinh tế có mối quan hệ qua lại chặt chẽ với hoạt
động tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng ngân hàng mạnh thì sẽ giúp cho nền
kinh tế có được nguồn vốn cần thiết để đầu tư và phát triển. Khi nền kinh tế phát triển
thì khả năng hấp thụ vốn càng tăng lên và hoạt động tín dụng ngân hàng cũng theo đó
mà phát triển. Một nền kinh tế phát triển ổn đònh là điều kiện cần thiết cho hoạt động
tín dụng ngân hàng vững mạnh.
Là một bộ phận kinh tế chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc dân,
nông nghiệp nước ta vẫn luôn là mặt trận hàng đầu có tầm quan trọng chiến lược. Vì
vậy, đối với nông nghiệp nông thôn, nông dân, Nhà nước ta nói chung và ngành ngân
hàng nói riêng luôn quan tâm và có chính sách hỗ trợ hoặc ưu đãi trong từng thời kỳ
cho phù hợp với tính chất và đặc thù của lónh vực sản xuất có nhiều rủi ro và năng
suất lao động thấp này. Cần phải quan tâm chỉ đạo cung ứng vốn tín dụng cho lónh vực
nông nghiệp và nông thôn.

Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, kiên quyết giải thể các doanh nghiệp
làm ăn kém hiệu quả. Có chính sách đối xử công bằng giữa các thành phần kinh tế,
thúc đẩy người có vốn đưa vào đầu tư, có chính sách thuế phù hợp hơn.
Các chính sách của Nhà nước cần phảiù ổn đònh. Việc chính sách thay đổi
liên tục làm nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn, hoạt động kinh doanh hàng ngày bò
xáo trộn nhưng thực chất là các chiến lược dài hạn của các công ty bò phá sản không
dám đầu tư dài hạn.
Cần có sự phối hợp thống nhất giữa các cơ quan ban ngành trong các văn
bản chỉ thò cũng như việc phối hợp hoạt động.
Bảo hiểm mùa màng trước hết cho các vùng thường bò thiên tai là giải pháp
khả dó, giúp giải quyết hợp lý hơn hậu quả thiên tai, xóa bỏ cái vòng lẩn quẩn nợ
chồng chất cứ đeo bám, gây áp lực nặng nề đến đời sống tinh thần của người dân.
Tăng cường đầu tư của nhà nước thông qua đấu thầu trái phiếu kho bạc để
thu hút dần một khối lượng lớn tiền tồn đọng trong các ngân hàng để đầu tư cho các
dự án trọng điểm của quốc gia
3.2.1.2. Các chính sách trong lónh vực tiền tệ
 Cơ chế điều hành lãi suất :
Ngân Hàng Trung Ương (NHTW) không áp đặt bằng phương pháp hành
chính mà sử dụng công cụ lãi suất của mình (lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu)
để điều hành lãi suất thò trường. Trong cơ chế điều hành công cụ lãi suất của NHTW
làm sao để lãi suất tiền gửi bằng VNĐ phải cao hơn lãi suất tiền gửi ngoại tệ. Với sự
nhạy cảm của NHTW theo tín hiệu thò trường thì khi cần thiết dùng công cụ lãi suất
điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho phù hợp, tăng thêm mở rộng sản xuất hoặc
kiềm chế lại bởi nguy cơ lạm phát tiền tệ.
Mới đây, NHTW ban hành cơ chế lãi suất cơ bản gọi là thay thế lãi suất
trần, nhưng thực chất chỉ mới thay đổi cách tính vì vẫn còn biên độ khống chế, tức vẫn
còn trần lãi suất, có chăng khung trần lãi suất này rộng hơn. NHTW cũng vừa công bố
thực hiện nghiệp vụ thò trường mở. Ở các nước khi áp dụng nghiệp vụ thò trường mở là
công cụ can thiệp gián tiếp nên họ bỏ khung lãi suất theo trần và giảm thấp tỷ lệ dự
trữ bắt buộc ở mức tượng trưng. Song NHTW lại sử dụng cả hai giải pháp nhưng thiếu

đồng bộ, không ăn khớp nên hàng hóa diễn biến nghèo nàn, thò trường hoạt động vẫn
còn sơ khai, lạc hậu so với các nước. Tiến tới tự do hóa lãi suất theo thông lệ quốc tế,
thúc đẩy cạnh tranh giữa các Ngân hàng thương mại(NHTM) có lợi cho người gửi tiền
và người vay vốn, thúc đẩy chu chuyển vốn hình thành lãi suất bình quân hợp lý trên
cơ sở quan hệ cung cầu về vốn trong nền kinh tế.
 Hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng :
Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động tiền tệ tín dụng và ngân
hàng. Các văn bản như Thông tư, Nghò đònh và những văn bản hướng dẫn thi hành cụ
thể tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc về hoạt động tín dụng kể cả nội tệ và ngoại
tệ, đảm bảo tiền vay, bảo lãnh và thanh toán … Từ đó, NHTM chủ động cạnh tranh với
nhau tìm kiếm khách hàng có tín nhiệm, tìm kiếm dự án có hiệu quả để đầu tư, tham
gia cho vay vốn các dự án kích cầu, xây dựng cơ sở hạ tầng của các tỉnh, thành phố.
 Vấn đề đảm bảo nợ vay :
Các cơ quan tư pháp nên quy đònh rõ các loại giấy tờ nào cần thiết cho
công việc công chứng Tài sản đảm bảo, để tránh tình trạng cùng một hồ sơ hệt như
vậy, tại cùng một điểm công chứng mà công chứng viên này đồng ý công chứng còn
công chứng viên kia lại cho là không đủ điều kiện. Cần phát triển thò trường bất động
sản, đơn giản hóa thủ tục mua bán, chuyển nhượng tài sản. Cần tăng tỷ lệ ký quỹ
tham gia dự thầu đấu giá để hạn chế những người không thiện chí. Cho phép ngân
hàng được miễn thuế đối với hành vi bán đấu giá vì đây là hoạt động tín dụng, không
phải là hoạt động kinh doanh bất động sản. Án phúc thẩm cần buộc con nợ phải trả lãi
kểã từ ngày có án sơ thẩm để ngăn ngừa con nợ lợi dụng kháng cáo để không bò tính
lãi trong thời gian này.
 Thanh tra ngân hàng :
Cải tiến và tăng cường hoạt động thanh tra ngân hàng. Trước hết, cần phải
đẩy mạnh và tiến hành thường xuyên việc thanh tra tại chỗ. Nội dung thanh tra cần
phải có bảng điểm đánh giá. Dựa vào thang điểm đánh giá, Ngân hàng Nhà Nước
phải có biện pháp kòp thời răn đe đối với các Tổ Chức Tín Dụng (TCTD) nằm dưới
mức điểm chuẩn. Công tác thanh tra cần phải kết hợp hình thức có và không có thông
báo trước, cũng như phải có trọng điểm, tránh dàn đều. Đơn vò yếu kém có vấn đề

cần được chú ý và thanh tra nhiều hơn so với các đơn vò tốt. Cần có biện pháp khen
thưởng đối với hoạt động giám sát nội bộ của TCTD nếu như kết quả phù hợp với
đánh giá của thanh tra ngân hàng. Từ đó sẽ nâng cao vai tro,ø hiệu quả của công tác
giám sát nội bộ và giảm nhẹ khối lượng của thah tra ngân hàng.
Tuy nhiên, hoạt động thanh tra truyền thống này vẫn chưa đáp ứng đïc với
sự phức tạp của ngành ngân hàng cũng như yêu cầu hội nhập quốc tế. Sự phát triển đa
dạng của các loại hình sản phẩm, dòch vụ ngân hàng, giao dòch quốc tế và tác động
của các biến động kinh tế trên thế giới khiến cho một ngân hàng lớn, hiệu quả hôm
nay có thể thua lỗ hoặc sụp đổ vào ngày mai. Hơn nữa, công tác thanh tra truyền
thống chỉ là đánh giá chất lượng các khoản mục trên bảng cân đối tài sản của các
TCTD tại một thời điểm nào đó mà thôi. Xu hướng hoạt động thanh tra ngân hàng tại
nhiều nước trên thế giới đang chuyển hướng tập trung vào việc đánh giá khả năng
quản lý và xử lý rủi ro của các TCTD. Để đánh giá được vấn đề này, người ta thường
chú ý vào những mặt sau : Các chỉ tiêu xác đònh rủi ro và chất lượng của những chỉ
tiêu này ; hệ thống theo dõi, thu thập và xử lý thông tin; việc phân cấp, phân quyền
và các biện pháp phòng ngừa rủi ro ; trình độ dự đoán rủi ro và chất lượng dự đoán
của ban quản lý và cán bộ lãnh đạo ; và điều không thể thiếu được là chất lượng của
công tác giám sát nội bộ trong việc ngăn ngừa các hoạt động bất hợp pháp xảy ra
trong tổ chức tín dụng.
 Quy đònh về trích dự phòng rủi ro:
Ngày 08/02/1999 Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước đã ban hành quyết đònh
số 48/1999/QĐ-NHNN về việc phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng để
xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của TCTD. Tuy nhiên, quy chế này còn có một
số vướng mắc cần khắc phục. Việc phải trích quỹ dự phòng vào 25 ngày đầu năm
khiến cho các tổ chức tín dụng phải chòu một chi phí lớn trong lúc doanh thu còn chưa
nhiều, dễ dẫn đến tình trạng hoạch toán lỗ vào đầu năm. Một điều nữa là lấy thu
nhập của năm hiện hành để bù đắp rủi ro của năm trước. Khi một khoản vay phát ra
là rủi ro tín dụng tiềm ẩn đã phát sinh nên việc không dự phòng rủi ro cho các khoản
nợ trong hạn là điều không hợp lý … Vậy có một số ý kiến cho rằng việc trích lập dự
phòng rủi ro nên được tiến hành đònh kỳ theo kế hoạch nhưng cần hoàn thành xong

trước ngày báo cáo quyết toán năm trước (31/12). Cần quy đònh một tỷ lệ dự phòng
thích hợp đối với các khoản vay trong hạn.
Hiện nay, nguyên tắc phân loại khoản vay dựa trên thời hạn nợ quá hạn che
đậy những khoản nợ xấu tiềm ẩn. Đối với khoản vay tín dụng được phân thành 5 cấp
theo thời gian như sau : Khoản vay trong hạn hay còn gọi là khoản vay hiệu quả,
khoản vay quá hạn được phân thành khoản vay đã quá hạn dưới 180 ngày, khoản vay
quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày xếp thành nợ khó đòi, khỏan vay quá hạn trên 360
ngày là khỏan vay mất khả năng chi trả. Nếu khách hàng không có khả năng trả nợ
khi khoản vay đến hạn thì xin gia hạn nợ. TCTD cho vay đồng ý thì đương nhiên trở
thành khoản vay tốt. Như vậy, những khoản vay đến hạn mà khách hàng không có
khả năng trả nợ nhưng được phép gia hạn thì đương nhiên coi là không có rủi ro và
không phải trích dự phòng rủi ro. Phân loại theo hình thức này sẽ hạn chế quỹ dự
phòng rủi ro xử lý cho các khoản nợ đó cuối cùng chuyển thành nợ khó đòi.
Để khắc phục những nhược điểm của cách phân loại rủi ro hiện nay nên áp
dụng hệ thống chuẩn quốc tế. Dựa trên cách phân loại, khoản vay được chia thành
nhiều cấp, theo thứ tự từ chất lượng tốt nhất đến nợ không có khả năng thu hồi bao
gồm : khoản vay tốt, khoản vay nằm trong danh sách theo dõi, khoản vay bắt đầu
được chú ý nhiều hơn, khoản vay bắt đầu có vấn đề, khoản vay nghi ngờ, khoản vay
sẽ xoá nợ. Mỗi cấp bậc trên sẽ có những tiêu chí nhất đònh để phân loại khoản vay.
Trên cơ sở phân loại này ngân hàng có thể nâng cao hoạt động của mình thông qua
việc đánh giá rõ ràng mức độ rủi ro hợp lý cho mỗi danh mục đầu tư, và có tỷ lệ trích
dự phòng rủi ro hợp lý.
 Nâng cao vai trò của hiệp hội ngân hàng :
Trong việc cải cách hành chính, Chính phủ và NHTW rút bớt sự can thiệp
quá sâu vào doanh nghiệp ngân hàng thì cần thiết phải có vai trò của hiệp hội thay
thế để tự các ngân hàng hội viên có thể cùng nhau thỏa thuận xử lý những công việc
mà không cần đến Chính phủ và Ngân hàng Trung Ương. Các cơ quan của Chính phủ
thông qua hiệp hội là người đại diện cho hội viên NHTM để nghe ngóng ý kiến đề
xuất về luật pháp chính sách khi cần thiết. Hiệp hội ngân hàng làm cầu nối hai chiều
giữa ngân hàng hội viên với cơ quan chính phủ. Giúp đỡ hội viên phát triển nghiệp vụ

ứng dụng công nghệ mới, thông tin thò trường, đào tạo cán bộ và bảo vệ quyền lợi hội
viên trong khuôn khổ luật pháp. Đề nghò chính phủ trình lên quốc hội sớm ban hành
luật Hiệp hội nghề nghiệp để tổ chức này dễ dàng hoạt động.
3.2.1.3 Những ý kiến thuộc về quản lí vó mô của Nhà nước nhằm góp phần
mở rộng hoạt đôïng tín dụng ngân hàng tại Việt Nam :
*Tái cấp vốn cho các Ngân hàng quốc doanh và các giải pháp tăng vốn điều lệ cho các
Ngân hàng cổ phần:
Ta nhận thấy rằng, vốn điều lệ của hầu hết các Ngân hàng ở Việt nam rất thấp.
Ngân hàng có vốn điều lệ cao nhất là VBA cũng chỉ xếp một thứ hạng khá khiêm tốn so với
các Ngân Hàng trong khu vực châu Á và trên thế giới theo xếp loại của tạp chí Asia Week.
Vì vậy, tính cả vốn huy động thì một Ngân hàng cũng không đủ khả năng cho vay một dự án
lớn như của Tổng công ty điện lực, Tổng công ty Bưu chính viễn thông…Bên cạnh đó, vốn tự
có được xem như là “đệm an toàn” cho hoạt động tín dụng. Vì vậy, để mở rộng hoạt động tín
dụng thì đòi hỏi vốn tự có của các Ngân hàng phải tăng cao hơn nữa.
- Đối với Ngân hàng quốc doanh, mặc dù vốn điều lệ được công bố khi thành
lập nhưng đến nay Nhà nước chỉ mới cung cấp 50%. Do đó, đề nghò Bộ Tài chính nhanh
chóng cung cấp nguồn vốn còn lại cho các Ngân hàng quốc doanh và trong 5 – 10 năm tới,
vốn điều lệ của các Ngân hàng phải đạt 1 tỷ USD để chúng có thể thực hiện vai trò chủ đạo
của mình. Để đạt được mục tiêu trên thì việc cổ phần hóa và cho phép người nước ngoài
tham gia mua cổ phần tại các Ngân hàng quốc doanh là rất cần thiết.
- Đối với Ngân hàng cổ phần, Nhà nước cần tăng vốn pháp đònh và mạnh tay
hơn trong việc hợp nhất, sát nhập, giải thể, phá sản các Ngân hàng không đảm bảo vốn điều
lệ và không có khả năng tăng vốn điều lệ theo qui đònh.
* Giải quyết những tồn tại liên quan đến tài sản đảm bảo nợ vay. Tài sản đảm bảo nợ
vay là nguồn thu nợ thứ hai để cung cho nguồn nợ thứ nhất gặp rủi ro. Vì vậy, khi giải quyết
tốt những vướng mắc liên quan đến Tài sản này tốt sẽ làm cho hoạt động tín dụng ngày càng
mở rộng. Do đó, tôi xin kiến nghò:
- Hiện nay, số lượng đất đai có "sổ đỏ" chỉ chiếm 35%. Vì vậy, Nhà nước cần
nhanh chóng hoàn thành cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai cho dân chúng để họ có
thể dùng chúng đem thế chấp vay vốn.

- Nhà nước cần cung cấp giấy chứng nhận đất đai cho các doanh nghiệp trong
Khu công nghiệp - Khu chế xuất để họ có thể dùng làm tài sản đảm bảo nợ vay hoặc cho
phép sử dụng quyền thuê đất đem thế chấp vay vốn.
- Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cần phối hợp với các tỉnh thành có liên quan
đến các vụ án kinh tế để hỗ trợ cho NHTM phát mãi nhanh chóng tài sản thế chấp để thu
hồi nợ.
- Đề nghò Chính phủ có các biên bản thay đổi về khung giá đất đai cho phù hợp
với tình hình mới trên thò trường. Hiện nay, việc đònh giá tài sản của ngân hàng theo khung
giá đòa phương thấp hơn nhiều so với thực tế, đònh giá thấp cộng thêm với mức cho vay tối
đa 70% giá trò tài sản được tính đó khiến cho số tiền mà doanh nghiệp nhận được có khi chỉ
bằng 10% giá trò thực tế thế chấp.
- Cần có hướng dẫn việc giao dòch đảm bảo tiền vay, nhất là đối với các ngân
hàng hoạt động tại nông thôn, nơi không có cơ quan chuyên môn để đăng ký thế chấp, cầm
cố.
- Bộ Tài chính, Tư pháp, Tổng cục đòa chính, Công an….cần phối hợp để hỗ trợ
NHTM phát mãi tài sản. Những tài sản đảm bảo nợ vay nào không liên quan đến các vụ án
hình sự thì cho phép ngân hàng được quyền chủ động xử lý theo Pháp luật hiện hành, kể cả
tài sản đó là của Doanh nghiệp Nhà nước.
- Trong lúc thò trường bất động sản đang "nóng" như hiện nay, đề nghò Chính phủ
cần có những giải pháp gấp rút để giải tỏa những khoản nợ khó đòi nhằm thu hồi vốn cho
ngân hàng.
- Kiến nghò NHNN có ý kiến với Tổng cục Thuế về vấn đề miễn giảm thuế
VAT khi phát mãi tài sản thế chấp.
- Kiến nghò NHNN cần nới lỏng điều kiện cho vay tín chấp, chẳng hạn yêu cầu
doanh nghiệp phải có lợi nhuận hai năm liền trước khi xin vay tín chấp là không hợp lý
* Về hoạt động của thò trường liên ngân hàng và thò trường mở :
Hoạt động ngân hàng luôn gắn liền với những mất cân đối cung cầu về vốn. Vì
vậy, để đảm bảo cho việc mở rộng hoạt động tín dụng thì yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt
động của thò trường liên ngân hàng và thò trường mở là rất cần thiết, đặc biệt là các ngân
hàng đang khát vốn như hiện nay.

- Về thò trường liên ngân hàng : đề nghò NHNN cho phép các Ngân hàng Cổ
phần (NHCP) vay tái cấp vốn theo Luật đònh vì hiện nay, các ngân hàng này đang thiếu vốn
khả dụng trầm trọng. Ở một khía cạnh khác, chúng ta thấy rằng thò trường bất động sản đang
hấp thụ một lượng vốn khá lớn trong khi việc tính toán lượng tiền cung ứng hàng năm cho
nền kinh tế lại không đề cập đến lónh vực này. Từ đó, có thể thấy rằng sự yếu kém của

×