Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

PHÂN TÍCH MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC TRONG TRIẾT HỌC MÁCLÊNIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.01 KB, 19 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

ĐỀ TÀI THẢO LUẬN
HỌC PHẦN TRIẾT HỌC MÁC-LÊNIN
ĐỀ TÀI
NỘI DUNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC. VẬN
DỤNG MỐI QUAN HỆ NÀY VÀO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY

Nhóm: 2
Lớp: Giáo viên hướng dẫn:

Hà Nội-Tháng 4-2020

KẾT CẤU ĐỀ TÀI
A. Lời mở đầu...............................................................................................................5
1


1. Tính cấp thiết của đề tài..........................................................................................5
B. Phần nội dung..........................................................................................................6
Chương I: Phạm trù ý thức, phạm trù vật chất........................................................6
I. Khái niệm…………………………………………..................................................6
1. Phạm trù vật chất.......................................................................................................6
2. Phạm trù ý thức..........................................................................................................6
II. Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức.................................................6
1.Vật chất quyết định ý thức:.........................................................................................6
2. Tính độc lập tương đối của ý thức.............................................................................7
Chương II. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào phát triển
giáo dục trong giai đoạn hiện nay...............................................................................9


I. Thực trạng phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay.....................................9
1. Thực trạng..................................................................................................................9
2. Những thành tựu.......................................................................................................10
3. Những hạn chế của nền giáo dục:............................................................................13
4. Nguyên nhân của những hạn chế đến nền giáo dục:...............................................16
III. Phương hướng và giải pháp phát triển giáo dục trong thời gian tới..............18
1.Phương hướng...........................................................................................................18
2. Giải pháp phát triển giáo dục:.................................................................................18
C. Kết luận..................................................................................................................20
D. Nguồn liệu tham khảo...........................................................................................21
Lời cảm ơn...................................................................................................................22

A. LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Những thành tựu trong cuộc đổi mới thời gian qua đã và đang tạo ra một thế lực mới để
nước ta bước vào thời kì phát triển mới. Nhiều tiền đề cần thiết về cuộc cơng nghiệp hóa và
2


hiện đại hóa đã được tạo ra, quan hệ giữa nước ta và các nước trên thế giới ngày càng được
mở rộng. Khả năng giữu vững độc lập trong hội nhập với cộng đồng thế giới được tăng
thêm. Cách mạng khoa học và công nghệ tiếp tục phát triển với trình độ ngày càng cao, thúc
đẩy quá trình chuyển dịch kinh tế và đời sống xã hội.
Các nước đều có cơ hội phát triển. Tuy nhiên, do ưu thế công nghệ và thị trường thuộc
về các nước phát triển khiến cho các nước chậm phát triển đứng trước một thách thức to lớn.
Nguy cơ tụt hậu ngày càng cao, mà điểm xuất phát của nước ta quá thấp, lại phải đi lên từ
mơi trường cạnh tranh quyết liệt. Trước tình hình đó, cùng với xu hướng phát triển của thời
đại, Đảng và Nhà nước cần tiếp tục tiến hành đẩy mạnh cơng cuộc đổi mới tồn diện đất
nước, trong đó đổi mới kinh tế là một vấn đề cấp bách và để đổi mới được kinh tế trước hết
chúng ta cần phải phát triển giáo dục. Bởi lẽ giáo dục được thừa nhận là nhân tố quyết định

đến sự phát triển của kinh tế xã hội.
Giáo dục gắn liền với mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, thông qua mối qua mối quan
hệ đó chúng ta có thể vận dụng vào phát triển giáo dục và đổi mới kinh tế. Như chúng ta đã
biết, có rất nhiều quan điểm triết học xoay quanh vấn đề về mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, tuy nhiên chỉ có quan điểm của triết học Mác-Lênin là đúng và đầy đủ nhất: Vật chất là
cái có trước, ý thức là cái có sau. Vật chất quyết định sự ra đời của ý thức, đồng thời ý thức
cũng có sự tác động trở lại với vật chất. Mối quan hệ biện chứng này lý giải rất nhiều cơ sở
hình thành và phát triển của nhiều lĩnh vực khoa học cũng như thực tiễn phát triển của xã
hội. Vì vậy nó được áp dụng rất nhiều vào thực tiễn xã hội. Bên cạch đó, giáo dục ln gắn
liền với sự tiếp thu và hình thành ý thức của con người nên để xây dựng được một nền giáo
dục phù hợp, tiến bộ thì rất cần phải hiểu biết rõ về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Chính vì vậy chúng em đã chọn đề tài thảo luận là: “Nội dung mối quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức. Vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức vào sự phát
triển của giáo dục hiện nay”.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: PHẠM TRÙ Ý THỨC, PHẠM TRÙ VẬT CHẤT
I. KHÁI NIỆM
1. Phạm trù vật chất
- Phạm trù vật chất là một trong những phạm trù cơ bản của triết học duy vật. Việc nhận
thức đúng đắn nội dung của phạm trù này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để khẳng định tính
chất khoa học, đúng đắn của quan điểm duy vật biện chứng về thế giới.
3


Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại cho con
người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh, tồn tại không
lệ thuộc vào cảm giác.
Ví dụ: Những phát minh của cơ học lượng tử, những nghiên cứu về đặc tính của các hạt
cơ bản (tính chất sóng – hạt của Electron; các đại lượng đặc trưng cho trạng thái của nó như

năng lượng, toạ độ, xung lượng, mơmen xung lượng, khơng có trị số xác định được chi phối
bởi hệ số bất định V.V.).
2. Phạm trù ý thức
- Ý thức theo định nghĩa của triết học Mác - Lenin là một phạm trù song song với phạm
trù vật chất, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc con người
và có sự cải biến và sáng tạo. Ý thức có mối quan hệ hữu cơ với vật chất.
Ví dụ: Thơng qua việc học tốn ở trên lớp, học sinh tiếp thu thêm được nhiều kiến thức,
từ đó phát triển và vận dụng tính tốn vào đời sống của mình.
II. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là mối quan hệ biện chứng. Trong mối quan hệ
này, vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức,
song ý thức khơng hồn tồn thụ động mà nó có thể tác động trở lại vật chất thơng qua hoạt
động thực tiễn của con người.
1. Vật chất quyết định ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định: Vật chất có trước, ý thức có sau, vật chất là
nguồn gốc của ý thức, quyết định ý thức. Vật chất không phụ thuộc vào ý thức của con
người, và có thể phản ánh hiện thực khách quan vào ý thức con người. Sự tồn tại và phát
triển của tự nhiên hay sự tồn tại và phát triển của xã hội lồi người đều khơng phụ thuộc vào
ý thức của con người. Tính thực tế khách quan khơng phụ thuộc vào ý thức của con người
này chính là tính vật chất. Cả thế giới là một thế giới vật chất tồn tại khách quan không phụ
thuộc vào ý thức của con người, căn nguyên của thế giới là vật chất. Vật chất có vai trị
quyết định đối với ý thức. Vật chất quyết định ý thức, ý thức là sự phản ánh của vật chất, ý
thức không tự sinh ra và khơng có từ trước, hình thức nhận thức thế giới là chủ quan, còn
nội dung nhận thức thế giới là khách quan
Ý thức là sản phẩm của một dạng vật chất có tổ chức cao là bộ óc con người nên chỉ
khi có con người mới có ý thức. Trong mối quan hệ giữa con người với thế giới vật chất thì
con người là kết quả của quá trình phát triển lâu dài của thế giới vật chất, là sản phẩm của
thế giới vật chất. Kết luận này đã được chứng minh bởi sự phát triển hết sức lâu dài của khoa
4



học về thế giới tự nhiên; nó là một bằng chứng khoa học chứng minh quan điểm: vật chất có
trước, ý thức có sau.
Ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất, là hình ảnh chủ quan về thế giới vật chất nên
nội dung của ý thức được quyết định bởi vật chất. Sự vận động và phát triển của ý thức, hình
thức biểu của ý thức bị các quy luật sinh học, các quy luật xã hội và sự tác động của môi
trường sống quyết định. Những yếu tố này thuộc lĩnh vực vật chất nên vật chất khơng chỉ
quyết định nội dung mà cịn quyết định cả hình thức biểu hiện cũng như mọi sự biến đổi của
ý thức.
Lấy một ví dụ để làm sáng tỏ: “Có người từng làm một thí nghiệm, đưa một người sống
ở bộ lạc nguyên thủy chưa từng tiếp xúc với thế giới bên ngoài lên trên một đỉnh núi, chỉ
xuống chiếc ô tô dưới đỉnh núi và hỏi anh ta thứ này to chừng nào, anh ta nói nó to bằng bao
diêm”.
“Trước hết, không gian sống của người này bị hạn chế, khi nhìn thấy một thứ chưa nhìn
thấy trước đây, anh ta sẽ so sánh với thứ mà anh ta đã biết trước đó. Vì vậy, ý thức của anh ta
chịu sự chi phối bởi vật chất mà anh ta tiếp xúc trước đây”
2. Tính độc lập tương đối của ý thức
Trong mối với vật chất, ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực
tiễn của con người. Vì ý thức là ý thức của con người nên nói đến vai trị của ý thức là nói
đến vai trị của con người. Bản thân ý thức tự nó khơng trực tiếp thay đổi được gì trong hiện
thực. Muốn thay đổi hiện thực, con người phải tiến hành những hoạt động vật chất. Song
mọi hoạt động của con người đều do ý thức chỉ đạo, nên vai trị của ý thức khơng phải trực
tiếp tạo ra hay thay đổi thế giới vật chất mà nó trang bị cho con người tri thức về hiện tại
khách quan, trên cơ sở ấy con người xác định mục tiêu, đề ra phương hướng, xây dựng kế
hoạch, lựa chọn phương pháp, biện pháp, công cụ, phương tiện, … để thực hiện mục tiêu
của mình. Ở đây, ý thức đã thể hiện tác động của mình đối với vật chất thông qua hoạt động
thực tiễn của con người. Ý thức do vật chất sinh ra và quy định, nhưng ý thức lại có tính độc
lập tương đối của nó. Hơn nữa, sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh
thần, phản ánh sáng tạo và chủ động chứ khơng thụ động, máy móc, ngun si thế giới vật
chất, vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con

người. Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương
hướng, xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy, ý thức tác động
đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn
cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đối tượng vật chất.
Ngược lại, nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người
không phù hợp với quy luật khách quan, do đó: sẽ kìm hãm sự phát triển của vật chất.
5


Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ
nó khơng thể sinh ra hoặc tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được. Và suy cho
cùng, dù ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất. Biểu hiện ở
mối quan hệ giữa vật chất và ý thức trong đời sống xã hội là quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý
thức xã hội, trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, đồng thời ý thức xã hội có tính
độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức còn là cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn,
khách thể và chủ thể, vấn đề chân lý …
Ví dụ cho thấy ý thức tác động trở lại vật chất, nếu phản ánh đúng hiện thực khách
quan nó thúc đẩy sự phát triển và ngược lại: Chủ trương quan liêu bao cấp- không phản ánh
được đúng thực trạng, không phù hợp với hoàn cảnh làm cản trở sự phát triển của con người,
kinh tế xã hội. Từ đó địi hỏi phải có một chủ trương mới phù hợp, phản ánh đúng hiện thực,
Đảng đã đề ra chủ trương đổi mới hệ thống chính trị phù hợp với thời đại, giúp đấn nước
phát triển. Như vậy, bằng việc định hướng cho hoạt động của con người, ý thức có thế quyết
định hành động của con người, hoạt động thực tiễn của con người đúng hay sai, thành công
hay thất bại, hiệu quả hay khơng hiệu quả.
Tìm hiểu về vật chất, về nguồn gốc, bản chất của ý thức, về vai trò của vật chất, của ý
thức có thể thấy: vật chất là nguồn gốc của ý thức, quyết định nội dung và khả năng sang tạo
ý thức; là điều kiện tiên quyết để thực hiện ý thức; ý thức chỉ có khả năng tác động trở lại
vật chất, sự tác động ấy không phải tự thân mà phải thông qua hoạt động thực tiễn (hoạt
động vật chất) của con người.

Nói tóm lại, quan hệ vật chất và ý thức là quan hệ hai chiều tác động biện chứng qua
lại, trong đó vật chất quyết định ý thức còn ý thức tác động trở lại thực tiễn thông qua hoạt
động nhận thức của con người.
CHƯƠNG II. VẬN DỤNG MỐI QUAN HỆ BIỆN CỨNG VẬT CHẤT GIỮA VẬT
CHẤT VÀ Ý THỨC VÀO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN
NAY
I. Thực trạng phát triển giáo dục trong giai đoạn hiện nay
1. Thực trạng
Giáo dục đào tạo luôn là yếu tố rất quan tọng trong việc phát triển của một đất nước.
Không chỉ ở Việt Nam mà còn rất nhiều quốc gia trên thế giưới lấy giáo dục làm quốc sách
hàng đầu để phát triển đất nước. Thực vậy, giáo dục là điều kiện tiên quyết giúp quyết định
nền kinh tế của đất nước có phát triển hay khơng, xã hội đó có ổn định hay khơng, ở đó có
nhiều nhân tài để phục vụ cho đất nước hay khơng. Chính vì vậy, giáo dục đào tạo đóng vai
trị to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Ở Việt Nam, ngành giáo dục luôn nhận được sự
quan tâm và lo ngại của mọi người. Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm chú trọng đầu tư phát
6


triển cho ngành giáo dục để đem lại hiệu. Vì thế những năm gần đây giáo dục nước ta đã có
những khởi sắc nhất định, chất lượng giáo dục đào tạo ngày càng được chứng nhận. Những
nhân tài ngày càng được quan tâm và có điều kiện để nghiên cứu phát huy năng lực hơn.
Trong những năm qua, nền giáo dục Việt Nam có những thành tựu đáng ghi nhận, góp phần
quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho công cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi
mới đất nước.
Bên cạch đó, giáo dục vẫn đang ẩn chứa rất nhiều yếu kém, bất cập:
Mỗi năm ngân sách Nhà nước đều bỏ ra rất nhiều tiền để đầu tư cho giáo dục, song
hiệu quả đạt được lại chưa được như mong đợi. Chúng ta vẫn luôn hướng đến một nền giáo
dục hiện đại, bắt kịp với nền giáo dục của nhiều quốc gia phát triển trên thế giới. Nên chúng
ta đầu tư xây dựng nhiều trường học, thực hiện nhiều cải cách, ...một cách tràn lan khó kiểm
sốt.

Những chính sách được đưa ra rất bài bản nhưng khi thực hiện thì chúng ta làm chưa
tới. Chính vì thế mà không mang lại hiệu quả. Thực hiện xây dựng, đổi mới để thu hút học
sinh, sinh viên nhưng lại quên mất cần chú trọng chất lượng. Nguyên nhân đó khiến số
lượng đào tào ngày càng nhiều nhưng chất lượng nhân lực vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu
của thị trường lao động.
Hiện nay hầu như các bậc tiểu học, trung học cơ sở và trung học phổ thông thậm chí là
đại học vẫn xảy ra các trường hợp bị quá tải hoặc thiếu trầm trọng học sinh, sinh viên. Vậy
nguyên nhân là do đâu? Rõ ràng là do sự đầu tư giáo dục không đông qua các năm gây ra sự
mất cân bằng về cung và cầu. Một số khu vực tỉnh lẻ, vùng sâu vùng xa số lượng trường học
cịn q ít nên rất nhiều trẻ em khơng được đến trường. Trong khi đó, các khu vực khác lại
có quá nhiều trường học dẫn đến sự cạnh trạnh, kén chọn trường học.
Hệ thống giáo dục các cấp bậc từ đại học đến phổ thơng cịn thiếu đồng bộ, chưa có sự
cân đối. ở phổ thơng các học sinh được học các mơn học khoa học mang tính lý thuyết là
chủ yếu, nhưng khi lên cấp bậc đại học thì những lý thuyết phổ thơng khơng cịn áp dụng
được, khiến các sinh viên khó tiếp cận với phương pháp học tập mới, dẫn đến lãng phí thời
gian để làm quen với phương pháp học tập.
Vấn đề này càng nổi cộm ở bậc giáo dục đại học, cao đẳng, khi số lượng trường học và
chất lượng giảng dạy không song hành cùng nhau khiến nhiều sinh viên ra trường không có
việc làm. Sinh viên chạy theo xu hướng học cho bằng bạn bằng bè hoặc ùa theo những
nghành nghề đang “hot”. Điều này dẫn đến việc mất kiểm soát và định hướng nghề nghiệp
khơng hiệu quả, bởi rất có thể sau quãng thời gian theo học đó đến khi ra trường xu hướng
nghề bạn chọn đã thay đổi dẫn đến hệ quả thất nghiệp là tất yếu.
7


Từ những điều trên cho thấy tư duy của nền giáo dục còn chậm đổi mới, chưa theo kịp
tốc độ phát triển, đổi mới của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường phát triển và
hội nhập với thế giới. Việc thực hành cần được áp dụng ngay từ khi cịn học phổ thơng để
các học sinh có thể phát triển tư duy, sáng tạo, chọn lựa cho mình những ngành nghề phù
hợp với bản thân

2. Những thành tựu
a. GDĐH Việt Nam đang từng bước hội nhập và tiếp cận chuẩn mực quốc tế
Có thể thấy trong những năm gần đây giáo dục Việt Nam đã có những đổi mới nhanh
và mạnh mẽ, từng bước tiếp cận những chuẩn mực của quốc tế. Minh chứng cho nhận định
này có thể thấy qua việc kiểm định chất lượng giáo dục đại học, xếp hạng đại học. Về mặt
chất lượng, hầu hết tất cả các sở GDĐH đều đã có đơn vụ chuyên trách về đảm bảo chất
lượng. Công tác kiểm định chất lượng giáo dục của Việt Nam đã định hướng theo các tiêu
chí chuẩn mực của khu vực và thế giới. Qua tự đánh giá, đánh giá ngoài nhiều nhà trường
thấy được điểm mạnh, điểm yếu và đã xây dựng kế hoạch cải tiến chất lượng sát thực và
hiệu quả hơn, góp phần quan trọng thúc đẩy nâng cao chất lượng giáo dục và hội nhập thế
giới.
Bên cạnh hoạt động kiểm định, xếp hạng đại học là hoạt động cũng được bộ GDĐT và
các trường đại học Việt Nam đặc biệt coi trọng trong những năm qua. Nếu kiểm định phản
ánh chất lượng thì xếp hạng đại học nói lên đẳng cấp. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo dục
Việt Nam, vào năm 2018, có 2 Đại học Quốc gia có tên trong danh sách xếp hạng 1000
trường hàng đầu thế giới, 10 cơ sở giáo dục đại học của Việt Nam có tên trong các bảng xếp
hạng nghiên cứu SCImago, thứ hạng cũng dần được cải thiện. Có thể thấy, những thành tựu
về kiểm định chất lượng và xếp hạng đại học là minh chứng cho sự thành cơng, sự chuyển
mình, sự đổi mưới tồn diện và hội nhập của giáo dục Việt Nam với quốc tế trong thời gian
qua.
b. Tạo được sự đột phá, chuyển biến về chất lượng
Thành tích lớn nhất chúng ta đạt đượng trong những năm gần đây có thể nói đến là sự
chuyển biến đột phá về chất lượng. Trong thời gian 5 năm qua, Bộ GDĐT đã ban hành Quy
chế mới về đào tạo đại học, thạc sĩ và tiến sĩ, trong đó chuyển đổi hồn tồn từ đào tạo niên
chế sang tín chỉ và yêu cầu xác định chuẩn đầu ra của từng chương trình đào tạo.
Chất lượng đầu ra của người học về ngoại ngữ và chuyên môn đều yêu cầu cao hơn so
với trước đây. Đặc biệt về ngoại ngữ đến nay đã có những bước tiến quan trọng: chuẩn đầu
ra về ngoại ngữ bậc đại học là B1; chuẩn đầu vào với thạc sĩ là B1 và B2 với NCS. Bên cạnh
đó, các chương trình đào tạo còn yêu cầu phải trang bị kiến thức về CNTT và các kỹ năng
8



mềm cho người học. Đây là những chỉ đạo và định hướng đổi mới GDĐH hết sức quan
trọng, đúng đắn và kịp thời.
Chất lượng đội ngũ đã tăng lên từng bước, từng năm theo chuẩn quốc tế. Nếu như trước
đây, GS, PGS, TS khơng u cầu bắt buộc có cơng bố quốc tế, thì nay, với quy chế mới về
tiêu chuẩn chức danh, bắt buộc yêu cầu GS, PGS và cả các NCS khi bảo vệ luận án đều phải
có công bố quốc tế. Điều này kéo theo một kết quả mong đợi đó là chất lượng người học cao
hơn trước rất nhiều, trình độ hiểu biết, năng lực tiếp cận của học sinh, sinh viên dần được
nâng cao. Để nâng cao chất lượng giáo dục, Bộ GDĐT quan tâm triển khai đến các cơ sở.
Các trường đại học, đã chú trọng xây dựng các nhóm nghiên cứu để tăng cường hoạt động
nghiên cứu khoa học và công bố quốc tế. Một bài thống kê mới đây của nhóm nghiên cứu
độc lập của Đại học Duy Tân, chỉ tính trong năm 2017-2018, chỉ riêng các công bố quốc tế
của 30 trường đại học Việt Nam hàng đầu trong danh sách này đã đạt 10.515 bài và con số
đó khơng ngừng tăng lên. Điều đó cho thấy việc giáo dục Việt Nam đang đi đúng hướng và
đang đạt được những thành tựu đáng ngưỡng mộ.
c. Trong đào tạo và bồi dưỡng nhân tài
Một thành tựu nữa không thể không nhắc đến là đào tạo và bồi dưỡng nhân tài. Bên
cạnh các chương trình đào tạo chuẩn, Bộ GDĐT cịn chỉ đạo các trường đại học tích cực triển
khai các chương trình đào tạo tài năng, tiên tiến, chất lượng cao để đào tạo và bồi dưỡng
nhân tài.Chương trình tài năng đào tạo các cử nhân, kỹ sư có năng khiếu trong lĩnh vực khoa
học cơ bản (cử nhân tài năng) và kỹ thuật cơng nghệ (kỹ sư tài năng).Chương trình đào tạo
tiên tiến là các chương trình đào tạo bậc đại học, áp dụng cho các ngành Khoa học tự nhiên cơng nghệ, sử dụng tồn bộ chương trình, giáo trình của một đại học nước ngoài, giảng dạy
hoàn toàn bằng tiếng Anh, do Bộ GDĐT phê duyệt và cấp kinh phí triển khai thực hiện.Đội
ngũ giảng viên tham gia chương trình là của Việt Nam và một số giảng viên nước ngồi,
nhằm phát triển quốc tế hóa chương trình đào tạo, đáp ứng nguồn nhân lực tồn cầu. Bên
cạnh đó, với chương trình 911, 322, chúng ta đã cử đi đào tạo được hàng nghìn trí thức trẻ,
ưu tú ở nước ngoài.
Ngoài ra, Giáo dục Việt Nam đạt được một số kết quả quan trọng trong nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Phải kể đến đó là thành tích đáng ngưỡng mộ của

các đội tuyển Olympic Việt Nam dự thi lại đấu trường quốc tế. Trong nhiều năm trở lại đây,
thành tích của các đội tuyển ngày càng cao, khẳng định vị thế nền giáo ục Việt Nam trên sân
quốc tế. Các đội tuyển của Việt Nam tham gia đấu trường quốc tế liên tiếp đem về chương,
giải thưởng cao cho nước nhà. Kết quả của các đoàn học sinh tham dự Olympic, các cuộc thi
sáng tạo Khoa học trên thế giới khẳng định hướng đi đúng của ngành giáo dục trong việc đổi
mới, bồi dưỡng nhân tài. Hơn hết kết quả này khẳng định sự nỗ lực, cố gắng của ngành Giáo
dục Việt Nam trên chặng đường chinh phục đỉnh cao tri thức.
9


d. Chuyển dịch mạnh mẽ và kịp thời cơ cấu ngành nghề
Cuộc cách mạng công nghệ 4.0 phát triển nhanh chưa từng có kéo theo yêu cầu lớn về
nguồn nhân lực cao, trình độ cao và đang đạo ra những cơ hội cũng như thách thức vức nền
giáo dục Việt Nam. GDĐH Việt Nam bước đầu đã có sự chuyển dịch cơ cấu ngành nghề phù
hợp.
Theo số liệu tổng kết năm học 2016-2017 của Bộ GDĐT, tổng quy mô sinh viên (SV)
ĐH là 1.767.879 SV, giữ khá ổn định so với những năm trước; quy mô SV cao đẳng sư
phạm giảm 14,3%, chỉ cịn 47.800 SV. Tính từ đầu năm 2016 đến 31.7.2017, tổng số ngành
mở mới là 184 ngành. Một số ngành mới được chú trọng như: Kỹ thuật, cơng nghệ kỹ thuật,
máy tính và cơng nghệ thơng tin và một số ngành khác như an ninh phi truyền thống, biến
đổi khí hậu, robotic, khoa học dữ liệu, cơng nghệ hàng khơng vũ trụ; các ngành tự động hóa,
CNTT, khoa học máy tính, trí tuệ nhân tạo, ...đã và đang được giảng dạy và đào tạo ở nhiều
trường đại học trong cả nước. Điều này cho thấy ngành giáo dục của chúng ta đang đi đúng
hướng, bắt nhịp được với xu thế của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4.0 đang diễn ra
khắp nơi cũng như trong tất cả các lĩnh vực trên thế giới.
e. Hệ thống trường lớp và quy mô giáo dục phát triển nhanh, thực hiện nền giáo dục
toàn dân, đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của nhân dân.
Nhu cầu học tập của nhân dân được đáp ứng tốt hơn, điều này thể hiện ở những con số
thống kê trong những năm vừa qua. Hiện nay, hệ thống giáo dục ở nước ta đã khá hồn
chình từ bậc mầm non đến sau đại học. Cụ thể, tổng số trường từ mầm non đến đại học là

43.874 trường, trong đó có: 14.203 trường mầm non, 15.277 trường tiểu học, 10.878 trường
trung học cơ sở, 2.767 trường trung học phổ thông, 313 trường trung cấp chuyên nghiệp,
217 trường cao đẳng, 235 trường đại học, học viện. Cả nước hiện nay có 726 trung tâm giáo
dục thường xuyên, 10.992 trung tâm học tập cộng đồng và trên 2000 trung tâm ngoại ngữ và
tin học. Hệ thống mạng lưới các cơ sở giáo dục các cấp học, bậc học được phân bố rộng trên
cả nước. Giáo dục ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu học tập của nhân dân. Hầu
hết ở các nơi kể cả vùng sâu, vùng xa cũng đều có trường học để học sinh thuận tiện trong
việc đi học. Hệ thống giáo dục ở nước ta về cơ bản đã đáp ứng được nhu cầu học tập của
nhân dân. Đến nay, hầu hết người dân trong độ tuổi đi học đều được đến trường. Bên cạnh
đó, các cơ sở học tập được củng cố và phát triển, mở rộng quy mô đào tạo, cơ cấu ngành
nghề đào tạo để đáp ứng nhu cầu phát triển của kinh tế - xã hội.
3. Những hạn chế của nền giáo dục
“Tương quan giữa giáo dục nhân cách, cung cấp kiến thức và giáo dục kỹ năng có cần
thay đổi khơng? Thay đổi như thế nào? Tỷ lệ và tương quan ba mặt giáo dục đó ở các cấp
Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thơng có cần thay đổi không? Thay đổi như thế
nào? Mục tiêu, nội dung và khối lượng của mỗi môn học trong tổng thể mục tiêu chung của
10


giáo dục phổ thơng và trong mỗi cấp học đó như thế nào? Dạy và học sử, văn, toán, giáo dục
công dân, đạo đức…. tiếp tục như vậy được chăng? ….” Là những câu hỏi đang càng ngày
trở nên nóng hổi trong thế giới dư luận. Vậy chúng ta hãy đi tìm hiểu sâu hơn về những hạn
chế của nền giáo dục hiện nay để có thể phần nào hiểu được nguyên nhân cũng như đưa ra
những câu trả lời cho những thắc mắc đối với nền giáo dục:
*Tổng quan chung về nền giáo dục:
- Trong những thập kỷ qua, nền giáo dục Việt Nam có những bước phát triển, có những
thành tựu đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực cho
cơng cuộc xây dựng, bảo vệ và đổi mới đất nước. Nhưng đồng thời nền giáo dục đang ẩn
chứa rất nhiều yếu kém, bất cập, mà Đại hội IX, X đến Đại hội XI của Đảng vẫn nêu rất đậm
nét, đó là: Giáo dục - đào tạo còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất cập chậm được khắc phục;

chất lượng giáo dục còn thấp, quan tâm đến phát triển số lượng nhiều hơn chất lượng; so với
yêu cầu phát triển của đất nước còn nhiều nội dung chưa đạt; chưa thực sự là quốc sách hàng
đầu.
*10 hạn chế tiêu biểu được đưa ra và tổng hợp trong các hội nghị của Quốc hội gần
đây:
Thừa, thiếu giáo viên
Theo đánh giá của Bộ GD-ĐT, quy hoạch, sắp xếp mạng lưới trường lớp học ở một số
địa phương còn chưa phù hợp, chậm hướng dẫn triển khai. Tình trạng thiếu trường, lớp ở các
khu đơ thị, khu cơng nghiệp, khu chế xuất; tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa
được giải quyết.
Năng lực nghề nghiệp của một bộ phận giáo viên còn yếu, phương pháp giảng dạy
chậm đổi mới; năng lực quản trị của một bộ phận cán bộ quản lý trường học còn yếu, chưa
đáp ứng yêu cầu đổi mới.
Hướng nghiệp chưa hiệu quả
Công tác giáo dục hướng nghiệp đã được tăng cường, tích hợp, lồng ghép các chủ đề
giáo dục hướng nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thơng và hoạt động tư vấn tuyển
sinh. Nhưng theo Bộ GD-ĐT, phương thức dạy nghề trong các trường phổ thơng vẫn cịn
nặng về kiến thức lý thuyết, việc phối hợp giữa nhà trường phổ thông với các cơ sở đào tạo,
các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất… chưa hiệu quả.
Chuẩn ngoại ngữ cịn chưa đạt
Thực tế, nhiều giáo viên phổ thơng vẫn chưa đạt chuẩn năng lực ngoại ngữ. Số học sinh
được học theo chương trình ngoại ngữ hệ 10 năm cịn thấp.
11


Điều kiện dạy học thiếu
Theo Bộ GD-ĐT, cơ sở vật chất của các nhà trường đã được chuẩn hóa và từng bước
hiện đại hóa, số trường mầm non, phổ thơng đạt chuẩn quốc gia được tăng lên. Nhưng so với
yêu cầu hiện nay thì cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học cịn thiếu. Nguồn kinh phí đầu tư
cho cơ sở vật chất cịn hạn hẹp; cơng tác xã hội hóa giáo dục chưa thực sự hiệu quả.

Tự chủ, nhưng trách nhiệm giải trình hạn chế
Theo đánh giá của Bộ GD-ĐT, cơng tác tự chủ, trách nhiệm giải trình với xã hội của
các cơ sở đào tạo còn hạn chế; việc thực hiện tự chủ đại học chưa gắn liền với đổi mới quản
trị nhà trường. Việc tiếp cận cơng nghệ, mơ hình giáo dục nước ngồi, các chương trình học
bổng nói chung ở các địa phương vùng sâu, vùng xa cịn rất ít. Các điều kiện đảm bảo chất
lượng chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Mầm non “còn nhiều bất an”
Một trong những thành quả đạt được từ năm học trước là cả nước đã hoàn thành mục
tiêu phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em 5 tuổi, phương pháp chăm sóc giáo dục trẻ được
đổi mới theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. Nhưng chất lượng chăm sóc, giáo
dục mầm non chưa đồng đều giữa các vùng miền Một bộ phận giáo viên còn hạn chế năng
lực thực hành, kỹ năng tổ chức các hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ.
Đổi mới GD phổ thông chưa đảm bảo lộ trình
Bộ GD-ĐT khẳng định đã chú trọng việc đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra, thi,
đánh giá học sinh phổ thông được thực hiện theo hướng phát triển phẩm chất, năng lực
người học. Đặc biệt, bộ đã rà soát, giảm các cuộc thi, hội thi để giảm áp lực cho giáo viên và
học sinh. Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể đã được thông qua. Tuy nhiên, Bộ GDĐT cũng thừa nhận tiến độ thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thơng chưa đảm
bảo theo lộ trình đề ra. Việc thực hiện chương trình, kế hoạch giáo dục ở một số địa phương
còn chưa nghiêm túc; chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, miền núi còn thấp so với
yêu cầu.
Cấp chứng chỉ tin học, ngoại ngữ chưa nghiêm
Đây là vấn đề gây nhức nhối xã hội trong thời gian qua. Theo đánh giá của chính Bộ
GD- ĐT, việc quản lý tổ chức, hoạt động của các trung tâm ngoại ngữ, tin học của một số
địa phương còn hạn chế; việc thi và cấp chứng chỉ ngoại ngữ, tin học thực hiện chưa
nghiêm.
Sinh viên thất nghiệp còn nhiều
12


Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, chưa đáp ứng được

yêu cầu phát triển đất nước. Bên cạnh đó, tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa tìm
được việc làm cịn nhiều
Xử lý vi phạm sau thanh tra còn chưa nghiêm
Việc ban hành văn bản cịn chậm, chưa đồng bộ; cơng tác xử lý vi phạm sau thanh tra ở
một số địa phương chưa nghiêm. Công tác truyền thông chưa thực sự chủ động, việc xử lý
thơng tin có lúc chưa kịp thời.
Chương trình đào tạo
Thiết nghĩ chương trình đào tạo cần cải tiến đổi mới, cập nhập hằng năm, kết nối thực
tiễn với hàng lâm, đưa các buổi ngoại khóa để học sinh có cơ hội được trải nghiệm cuộc
sống bên ngồi một các trực tiếp nhất. Các môn học cần được phân bố lượng thời gian hợp
lý, để lượng kiến thức lý thuyết 30% và thực hành 70%
Chất lượng đầu vào
Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở giáo dục đào tạo còn quá thấp, khiến cho chất
lượng học tập tiếp thu của sinh viên còn chưa tốt. Đa số học sinh cịn học tập một cách thụ
động, thiếu đóng góp cho bài học của giảng viên. Cần nâng cao mức đầu vào của sinh viên,
để có thể đạt chất lượng tốt, với những sinh viên có tính tư duy khoa học, sáng tạo cao, học
một cách chủ động thì chất lượng đầu ra của trường đó sẽ được cải thiện rõ rệt
Phương pháp giảng dạy
Nhìn chung, chất lượng và lực lượng của đội ngũ cán bộ giảng dạy ngày càng được
nâng cao. Thế nhưng phuong pháp giảng dạy của các thầy cơ vẫn mang tính thuyết giảng,
làm cho học sinh sinh viên chỉ tiếp thu được một cách thụ động, dạy 1 biết 1, khơng có
hướng cho học sinh tự mày mị, tìm hiểu được.
Mặc khác, các phương tiện giảng dạy hiện nay cịn hạn chế nên các thầy cơ chưa thể
truyền tải hết phần hồn và nội dung của bài học cho học sinh được.
Nói tóm lại, chúng ta cần nhận thấy những hạn chế cần phải sửa chữa, để làm hành
trang cho những cải cách hoàn thiện hơn. Giáo dục chính là cơ sở để đánh giá được trình độ
dân trí cũng như sự phát triển của một quốc gia.
4. Nguyên nhân của những hạn chế trong nền giáo dục
Do thiếu và đầu tư chưa đầy đủ về cơ sở, điều kiện vật chất:


13


+ Cơ cấu đầu tư cho giáo dục, đào tạo ở nước ta chưa hợp lý thể hiện ở cơ cấu chi cho
các nhiệm vụ, giữa các bậc học, nội dung chi trong từng bậc học và ngành nghề trong từng
bậc học. Cơ sở vật chất, thiết bị của nhiều cơ sở dạy nghề thiếu về số lượng và lạc hậu về
chất lượng. Vẫn còn khoảng 31% số phòng học và 50,7% số xưởng thực hành là nhà tạm;
chỉ khoảng 20% số trường được trang bị một số thiết bị ở mức độ cơng nghệ khá, cịn lại
mới chỉ được trang bị cho thực hành, về cơ bản chưa hình thành được các trường dạy nghề
chất lượng cao....
+ Ngân sách dành cho phát triển giá dục, cơ sở vật chất còn hạn chế: trong cơ cấu chi
tiêu cho giáo dục, đào tạo có sự khơng tương xứng trong đầu tư cho các bậc học. Trên thực
tế NSNN dành cho giáo dục đại học còn hạn chế với 12% tổng ngân sách dành cho giáo dục,
chỉ bằng gần một nửa so với kinh phí dành cho bậc tiểu học. Phân loại theo cấp học, chi tiêu
cho giáo dục mầm non và giáo dục phổ thông chiếm xấp xỉ 70% tổng chi cho giáo dục.
Trong đó, chi cho giáo dục tiểu học chiếm gần 30% tổng chi NSNN cho các cấp học. So với
thế giới, tỷ lệ chi tiêu công cho giáo dục trên mỗi học sinh tiểu học ở Việt Nam năm 2010
đạt mức hơn 25%, cao hơn so với Hoa Kỳ là 22%, Singapore chỉ 11%. Mức ngân sách bố trí
cho dạy nghề chỉ xấp xỉ 10% tổng chi NSNN cho các cấp học. Định mức chi giáo viên/học
sinh, định mức chi thực hành chưa sát thực tế. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
quy định, mức chi cho mỗi học sinh học nghề trong một năm chỉ là 4,3 triệu đồng, tuy nhiên,
không phải tất cả học sinh đều được hưởng như vậy.
Vận dụng chưa đúng, chưa hiệu quả sản phẩm của giáo dục: Sinh viên ra trường
chưa tìm được việc làm, nhiều nhân tài khơng cống hiến cho đất nước, nhiều sáng kiến, phát
minh chưa được vận dụng vào sản xuất, không đáp ứng về q trình giáo dục đầy đủ:
+ Chưa có những kế hoạch phù hợp sau khi đào tạo xong sinh viên ở Cấp Đại học. Tình
trạng thất nghiệp của sinh viên mới ra trường gia tăng đáng kể. Thậm chí, có một số trường
hợp sinh viên ra trường cả hai, ba năm vẫn khơng tìm được việc làm, chứ đừng nói đến
chuyện tìm được cơng việc đúng ngành nghề.
+ Các phát minh, sáng chế mới của các nhân tài chưa được trọng dụng, chưa vận dụng

vào sản xuất: Các mơ hình về thiết bị trong sản xuất đã yếu kém, không phù hợp với thực tế
cần phát triển của xã hội nhưng các doanh nghiệp do thiếu vốn đầu tư nên đã không áp dụng
những sáng chế mới và hiệu quả hơn. Ngân sách Nhà nước để phát triển, khuyến khích nhân
tài phát triển chưa được đề cao.
+ Phần đa các trường từ cấp tiểu học cho đến Đại học, cao đẳng chỉ chủ trọng vào số
lượng mà chưa chú trọng vào chất lượng. Hầu hết chương trình giảng dạy của các trường,
các cơ sở đào tạo chỉ tập trung dạy hết các chương trình cơ bản theo giáo trình bắt buộc chứ
chưa giúp học sinh vận dụng vào thực tế để phát triển trí sáng tạo, trải nghiệm thực tế, ...
14


Kết luận: Vật chất và ý thức có mối quan hệ gắn kết với nhau. Vật chất quyết định sự
hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là đối tượng khách thể của ý thức, nó quy định
nội dung, hình thức, khả năng và quá trình vận động của ý thức:
+ Do đó, việc đầu tư các trang thiết bị hiện đại, phù hợp với nhu cầu giáo dục XH hiện
nay đang rất cần thiết đối với nền giáo dục.
+ Khi Đảng và Nhà nước đã đầu tư hợp lí để phát triển giáo dục sẽ giúp nâng cao chất
lượng giảng dạy và học tập, giúp phát triển nền giáo dục hiện đại, tiến lên sánh vai với bạn
bè năm châu.
+ Cần có những chính sách hợp lí giúp sinh viên ra trường được đi thực tập và chọn
lựa cơng việc phù hợp. Các học bổng khuyến khích cho các giải thưởng về sáng tạo công
nghệ, kĩ thuật hiện đại và cần nghiên cứu để áp dụng vào đời sống.
III. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC TRONG THỜI
GIAN
1. Phương hướng
Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả và đào tạo giáo dục: Thực hiện giáo dục toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, có những chính sách đúng đắn.
Mở rộng quy mơ giáo dục từ giáo dục mầm non đến giáo dục đại học, tăng nhanh dạy
nghề và trung cấp chuyên nghiệp.
Ưu tiên đầu tư giáo dục: Huy động mọi nguồn lực cho giáo dục, xây dựng cơ sở vật

chất cho các trường học, thực hiện chuẩn hóa, hiện đại hóa nhà trường; xây trường học; các
lễ trao học bổng.
Thực hiện công bằng giáo dục xã hội: Đảm bảo tất cả mọi người đều được đi học, mở
các lớp tình thương, giúp các em vươn lên bệnh tật.
Đa dạng hóa các loại hình trường và các hình thức giáo dục, xây dựng xã hội học đáp
ứng nhu cầu của tất cả mọi người, mở các hội nghị khoa học.
Tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục và đào tạo. Tiếp cận chuẩn mực giáo dục tiên
tiến của thế giới phù hợp với yêu cầu phát triển của nước ta, đào tạo một đội ngũ chuyên gia
giỏi để phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
2. Giải pháp phát triển giáo dục
Nhà nước cần đầu tư và chú tâm hơn để phát triển giáo dục: thực hiện đồng bộ các giải
pháp phát triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo.
15


+ Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra
theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lý
tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ
năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội.
+ Xây dựng đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng.
+ Đề cao trách nhiệm của gia đình và xã hội phối hợp chặt chẽ với nhà trường trong
giáo dục thế hệ trẻ.
+ Tiếp tục phát triển và nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các cơ sở giáo dục, đào
tạo. Đầu tư hợp lý, có hiệu quả xây dựng một số cơ sở giáo dục, đào tạo đạt trình độ quốc tế.
- Trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng về sự trưởng thành của mỗi
cá nhân cũng như mỗi cộng đồng nhất định. Vì vậy mà chúng ta cần có nhận thức đúng đắn:
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục. Tuyên truyền về giáo dục có tác
dụng tạo chuyển biến nhận thức và sự đồng thuận cho nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới
giáo dục. Đó là tuyên truyền về Nghị quyết 29 – NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo
dục và đào tạo cũng như các chủ trương, chính sách mới về giáo dục đào tạo; đổi mới

chương trình, sách giáo khoa; giáo dục mầm non, giáo dục nghề…
Mặt khác, ý thức có tính độc lập tương đối, tác động trở lại đối với vật chất, cho nên
trong nhận thức phải có tính tồn diện, phải xem xét đến vai trị của nhân tố tinh thần. Phải
nâng cao nhận thức, sử dụng và phát huy vai trò năng động của các nhân tố tinh thần, tạo
thành sức mạnh tổng hợp giúp cho hoạt động của con người đạt hiệu quả cao:
+ Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giáo dục đào tạo. Thanh tra, kiểm tra để giữ
vững và duy trì kỷ cương, trật tự, nề nếp, sự ổn định trong giáo dục, đồng thời phòng ngừa
và ngăn chặn kịp thời các hiện tượng tiêu cực trong giáo dục như gian lận thi cử, dạy thêm
học thêm tràn lan, vi phạm đạo đức lối sống trong đội ngũ giáo viên cũng như học sinh…
Bên cạnh đó cũng cần kịp thời làm tốt công tác thi đua khen thưởng tạo động lực tốt cho đội
ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên cũng như học sinh tích cực thi đua quản lý tốt, dạy
tốt, học tốt.
+ Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, con người phải luôn chủ động, phát huy hết
trí thơng minh, khả năng suy nghĩ của mình. Phải ln tìm tịi, sáng tạo ra cái mới trên cơ sở
tích lũy, kế thừa những cái cũ phù hợp:
+ Tăng cường các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo. Cần tập trung rà sốt lại và từ
đó nghiên cứu quy định cơ cấu chi ngân sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho giáo dục và
đào tạo – với vị trí, vai trị là quốc sách hàng đầu; tăng cường xã hội hóa giáo dục, nâng cao
hiệu quả, đa dạng hóa nguồn lực tài chính cho phát triển giáo dục và đào tạo. Cùng với đó,
16


tăng cường đẩy mạnh thu hút các nguồn tài trợ từ các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
đầu tư vào giáo dục, trong đó khuyến khích thành lập các trường tư thục đa cấp chất lượng
cao.

C. KẾT LUẬN
Nói tóm lại, vật chất ln là cái có trước và vật chất ln có vai trị quyết định đối với ý
thức, nhưng ý thức cũng xó năng lực tác động lại vật chất. Mối quan hệ tác động qua lại này
chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người. Chúng ta nâng cao vai trò

của ý thức với vật chất chính là nâng cao năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận
dụng quy luật khách quan vào trong hoạt động thực tiễn của con người.
Có thể nói trong thời đại cách mạng cơng nghệ, đại học có vai trị chủ đạo trong tồn bộ
hệ thống giáo dục của một nước. Nhưng so với thế giới và khu vực, giáo dục đại học của ta
còn quá yếu kém, tụt hậu. Phát triển con người là vấn đề trọng tâm của mỗi quốc gia. Hầu
hết các nước trên thế giới đều giương cao khẩu hiệu "giáo dục là quốc sách hàng đầu và
dành nhiều tâm sức để xây dựng và phát triển giáo dục nhằm đào tạo cho xã hội lực lượng
lao động có năng lực chun mơn và khả năng thích ứng, thỏa mãn được yêu cầu của thị
trường về tiêu chuẩn văn hóa, chuyên môn - nghiệp vụ của thị trường. Một nền giáo dục chỉ
được xem thành công khi nền giáo dục ấy đóng góp cho xã hội những cá nhân có đầy đủ trí
và lực, đáp ứng được những nhu cầu về lao động trình độ cao và nghiên cứu khoa học nhằm
góp phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội, đất nước. Vì vậy mà việc nghiên cứu quan hệ
biện chứng giữa vật chất và ý thức. Vận dụng thúc đẩy việc học hành và nâng cao chất lượng
học tập, giáo dục để hình thành nên một nền giáo dục tiến bộ là một việc rất quan trọng. Tuy
nhiên để thực hiện hoàn toàn những mục tiêu để phát triển nền giáo dục hồn tồn tiến bộ và
có hiệu quả cao thì cần phải có những biện pháp hành động thực tiễn có hiệu quả.

17


D. NGUỒN LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Triết học Mac- Lênin
2. congdoanvn.com
3. giaoduc.net.vn
4. www.nhandan.com.vn
5. tapchitaichinh.vn
6. tapchicongthuong.vn
7. nslide.com: Giáo sư Phạm Minh Hạc
8. luanvan.com
9. Tapchikinhte.vn

10. www.academia.edu
11. Thegioiluat.vn

18


Lời cảm ơn
Trong suốt quá trình hoạt động, nghiên cứu và thực hiện đề tài thảo luận này, Nhóm
2 chúng em đã nhận được sự giúp đỡ, đóng góp to lớn từ nhiều cá nhân và tổ chức. Với
tính cảm chân thành ấy, chúng em xin phép được gửi lời cảm ơn đến gia đình, người thân
đã ln u thương và hỗ trợ. Cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Thương Mại, Khoa
Tài chính-Ngân hàng, cùng các thầy cơ đã tham gia giảng dạy, quản lí, tạo cơ hội cho
chúng em thực hiện đề tài thảo luận này. Chúng em xin bày tỏ sự biết ơn đặc biệt đến thầy
cô giáo bộ môn, Cô Phạm Thị Hương– người đã trực tiếp giảng dạy, hướng dẫn, giúp
chúng em có đủ kiến thức và hiểu được phương pháp học và nghiên cứu bộ mơn Triết học
Mac-Lênin và hồn thành bài thảo luận nhóm này. Chúng em xin cảm ơn NXB Giáo dục
đã cung cấp tài liệu cho chúng em tham khảo. Xin cảm ơn các thành viên trong nhóm đã
nỗ lực hết sức mình để đóng góp cho nội dung thảo luận. Mặc dù đã có nhiều cố gắng
trong suốt quá trình thực hiện đề tài thảo luận song khơng thể tránh khỏi những hạn chế
và thiếu sót. Chúng em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp từ thầy cô và các bạn
để bài thảo luận của chúng em được hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn và kính chúc mọi người sức khỏe!
Hà Nội, ngày 12 tháng 4 năm 2020
Các thành viên

19




×