Tải bản đầy đủ (.pdf) (54 trang)

Chức năng của viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo bộ luật tố tụng dân sự năm 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (465.92 KB, 54 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHỆ TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT

KHĨA LUẬN TỐT NGHIỆP

CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
THEO BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ NĂM 2015

Ngành:

LUẬT KINH TẾ

Giảng viên hướng dẫn : PGS.TS. Bành Quốc Tuấn
Sinh viên thực hiện

: Trần Phúc Bảo

MSSV: 1411270554

Lớp: 14DLK09

TP. Hồ Chí Minh, 2018


LỜI CẢM ƠN
Tôi tên Trần Phúc Bảo, sinh viên lớp 14DLK09, MSSV 1411270554 thuộc
niên khóa 2014 – 2018.
Để Khóa luận tốt nghiệp này đạt kết quả tốt đẹp, tôi đã nhận được sự hỗ trợ,
giúp đỡ của nhiều cơ quan, tổ chức, cá nhân. Với tình cảm sâu sắc và chân thành


của mình, cho phép tơi được bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến tất cả các cá nhân và cơ
quan đã tạo điều kiện giúp đỡ trong quá trình học tập và nghiên cứu Khóa luận.
Trước hết, tơi xin gửi tới các thầy cô khoa Luật trường Đại học Cơng Nghệ
Tp. Hồ Chí Minh lời chào trân trọng, lời chúc sức khỏe và lời cảm ơn sâu sắc. Với
sự quan tâm, dạy dỗ, chỉ bảo tận tình chu đáo của thầy cơ, đến nay tơi đã có thể
hồn thành bài Khóa luận tốt nghiệp của mình với tên đề tài là: “Chức năng của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015” một cách tốt đẹp và đúng tiến độ theo yêu cầu của khoa.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Phó Giáo sư,
Tiến sĩ Bành Quốc Tuấn đã quan tâm giúp đỡ và tận tình hướng dẫn tơi hồn thành
tốt Khóa luận tốt nghiệp này trong thời gian qua.
Với điều kiện thời gian cũng như kinh nghiệm còn hạn chế, bài Khóa luận tốt
nghiệp này khơng thể tránh được những thiếu sót. Tơi rất mong nhận được sự chỉ
bảo, đóng góp ý kiến của các thầy cơ để tơi có điều kiện bổ sung, nâng cao kiến
thức của mình, phục vụ tốt hơn cho công tác thực tế sau này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Trần Phúc Bảo


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên Trần Phúc Bảo, sinh viên lớp 14DLK09, MSSV 1411270554 thuộc
niên khóa 2014 – 2018.
Tơi xin cam đoan Khóa luận là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số
liệu, thơng tin sử dụng trong Khóa luận này được thu thập từ nguồn thực tế, trên các
sách báo khoa học chun ngành (có trích dẫn đầy đủ và theo đúng quy định). Tơi
đã hồn thành tất cả các mơn học và thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo
quy định của Khoa Luật Đại học Cơng Nghệ Tp. Hồ Chí Minh
Vậy tơi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ
Khóa luận.

Tơi xin chân thành cảm ơn !

NGƯỜI CAM ĐOAN

Trần Phúc Bảo


MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ................................................................................................. 1
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................. 3
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................... 3
5. Kết cấu Khóa luận...................................................................................................... 4
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHỨC NĂNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ ....................................................................... 5
1.1. Khái niệm về Viện kiểm sát nhân dân và công tác thực hiện chức năng kiểm sát
hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng dân sự ......................................................... 5
1.1.1. Khái niệm về Viện kiểm sát nhân dân .................................................................. 5
1.1.2. Khái niệm về công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong
lĩnh vực tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân ..................................................... 6
1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 ................................................................................................ 6
1.2.1. Tổng quan về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 .......................................................................... 6
1.2.2. Vị trí, vai trị, phạm vi của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát hoạt động tư
pháp trong lĩnh vực dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.............................. 8
1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự 10
1.3. Quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân

Việt Nam ......................................................................................................................... 11
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980 .............................................................. 12
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2004 .............................................................. 14
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến 2015 ...................................................................... 16
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay. ........................................................................ 17
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................................. 19


CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU
QUẢ KIỂM SÁT GIẢI QUYẾT CÁC VỤ, VIỆC DÂN SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN ........................................................................................................................ 20
2.1. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự ..................................................................................... 20
2.1.1. Viện kiểm sát nhân dân tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết các
vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm ............................................................................. 20
2.1.2. Viện kiểm sát nhân dân tham gia tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ
việc dân sự theo thủ tục phúc thẩm.............................................................................. 25
2.1.3. Viện kiểm sát nhân dân tham gia tố tụng dân sự trong thủ tục giám đốc thẩm,
tái thẩm ........................................................................................................................ 28
2.2. Thực trạng thực hiện chức năng kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong
các giai đoạn xét xử tại phiên tòa dân sự ..................................................................... 30
2.2.1. Một số ưu điểm và thành tựu đạt được của Viện kiểm sát nhân dân trong quá
trình kiểm sát giải quyết vụ việc trong các giai đoạn xét xử tại phiên tòa dân sự ...... 30
2.2.2. Những hạn chế và vướng mắc của Viện kiểm sát nhân dân trong công tác kiểm
sát giải quyết vụ việc trong các giai đoạn xét xử tại phiên tòa dân sự........................ 32
2.3. Một số giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện chức năng kiểm sát của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự ...................................................................... 37
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................................. 43
KẾT LUẬN ......................................................................................................................... 44
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 46



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

Bộ Luật Tố tụng dân sự

KSV

Kiểm sát viên

THA

Thi hành án

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

Viện Kiểm sát nhân dân tối cao


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Viện kiểm sát là hệ thống cơ quan trong bộ máy nhà nước, được hình thành
gắn liền với nhiệm vụ cách mạng của Nhà nước trong mỗi giai đoạn nhằm bảo vệ

lợi ích dân tộc, chế độ xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, bảo đảm
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, chế định Viện kiểm sát
lần đầu tiên được ghi nhận trong Hiến pháp 1959 và ngày càng hoàn thiện trong
Hiến pháp 1980, Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 2013.1
Trong tố tụng dân sự, chức năng của Viện kiểm sát đã và đang từng bước
được khẳng định là cơ quan tiến hành tố tụng và thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự. Trong đó, có thể nói
chức năng thực hiện các hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự là một nội dung hết sức quan trọng về lý luận và thực tiễn, có liên quan
và ảnh hưởng đến nhiều nội dung khác của Bộ luật Tố tụng dân sự. Việc xác định
đúng đắn chức năng của Viện kiểm sát nhân dân có ý nghĩa quan trọng khơng chỉ
góp phần vào việc xây dựng hệ thống lý luận về hoạt động tư pháp nói chung và tổ
chức, hoạt động của Viện kiểm sát nói riêng, mà cịn góp phần vào việc xây dựng
các văn bản pháp luật về Viện kiểm sát, về tố tụng dân sự cũng như hướng dẫn, chỉ
đạo của ngành Kiểm sát nhân dân.
Chính vì vậy, để góp phần làm sáng tỏ chức năng của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự, tác giả chọn tên đề tài của Khóa luận tốt nghiệp là “Chức năng của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015” làm Khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Chức năng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự là vấn đề không chỉ được ngành Kiểm sát mà còn được cả xã hội
quan tâm. Do yêu cầu và địi hỏi khách quan nêu trên, đã có nhiều bài viết trên các
Luận văn thạc sĩ, tạp chí chuyên ngành, sách chuyên khảo, chuyên đề tổng kết rút
1

Lê Thị Thanh Loan (2017), Luận văn thạc sĩ luật học “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự”, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội – 2017.



2

kinh nghiệm của các ngành Kiểm sát, Tòa án… liên quan đến nội dung, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong tố tụng dân sự. Có thể kể đến như:
Sách “Vị trí, vai trị của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải
cách tư pháp”, tác giả Khuất Văn Nga chủ biên (2008), NXB Tư Pháp, Hà Nội 2018.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Viện kiểm sát tham gia tố tụng dân sự theo bộ
luật tố tụng dân sự Việt Nam năm 2015”, tác giả Nguyễn Thị Hằng, Đại học Quốc
Gia Hà Nội, Hà Nội – 2015.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự Việt Nam”, tác giả Phùng Thanh Hà, Đại học Quốc Gia Hà
Nội, Hà Nội – 2016.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự”, tác giả Lê Thị Thanh Loan, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội –
2017.
Luận văn thạc sĩ Luật học “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm
sát nhân dân trong tố tụng dân sự”, tác giả Phạm Thị Hoàn, Đại học Quốc Gia Hà
Nội, Hà Nội – 2014.
Bên cạnh đó, trong thời gian qua, số lượng đề tài nghiên cứu về “Chức năng
của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự” là rất ít, chỉ có thể kể đến đề tài
khoa học cấp Bộ của Trường Đại học Kiểm sát, trước đó là trường Cao đẳng Kiểm
sát: “Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự” (năm 2000). Đề tài nghiên cứu cấp Bộ của trường Đại học Kiểm sát được
thực hiện đã lâu. Hiện tại, quan điểm lý luận cũng như quy định của pháp luật về
chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã có nhiều thay đổi. Vì lẽ đó,
việc nghiên cứu Khóa luận này với mong muốn tiếp cận các quy định cụ thể về
chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự, phân tích những tồn tại,
vướng mắc của quy định pháp luật hiện hành nhằm góp phần hồn thiện quan điểm
lý luận là việc làm cần thiết.



3

Ngồi ra, cịn có một số bài viết đăng trên các sách, báo, tạp chí trong nước
xung quanh vấn đề vị trí, chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự. Ở một góc độ nào đó, những bài viết, cơng trình nghiên cứu này đã đề cập đến
những khía cạnh nhất định về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Khóa luận này là nhằm làm sáng tỏ các
quy định về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự. Để đạt
được mục đích trên, Khóa luận có nhiệm vụ nghiên cứu các đối tượng và phạm vi
nghiên cứu như sau:
Nghiên cứu một số vấn đề cơ bản về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong lĩnh vực dân sự bao gồm: công tác thực hiện chức năng kiểm sát giải quyết
các vụ, việc dân sự, hơn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động (sau đây
gọi tắt là vụ, việc dân sự).
Phân tích lịch sử hình thành và phát triển trong quá trình kiểm sát giải quyết
các vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật nước ta từ khi thành lập Ngành kiểm
sát năm 1960 đến nay.
Đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật về công tác kiểm sát các hoạt động tại
phiên tòa dân sự của Viện kiểm sát nhân dân ở nước ta thời gian vừa qua. Đồng thời
làm sáng tỏ về mặt lý luận, chỉ ra những điểm bất cập, thiếu sót về mặt xây dựng
pháp luật trong lĩnh vực kiểm sát giải quyết vụ, việc dân sự từ đó đóng góp hồn
thiện các quy định về công tác thực hiện chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện hồn thành q trình nghiên cứu, Khóa luận chủ yếu sử dụng
phương pháp nghiên cứu, phân tích, so sánh, sưu tầm tài liệu, tổng hợp... Đồng thời
sử dụng nguồn tài liệu trong các văn bản pháp luật chuyên ngành và được thực hiện

qua hai bước nghiên cứu: nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức.


4

Nghiên cứu sơ bộ gồm các bước là tiến hành đọc, phân tích, tổng hợp những
tài liệu cần thiết cho việc nghiên cứu như Sắc lệnh, Bộ Luật, Luật, Sách tham khảo,
đề tài nghiên cứu khoa học chuyên ngành,... Những tài liệu này cung cấp những gợi
ý giúp xác định chính xác vấn đề và hình thành cơ sở lý luận cho bài nghiên cứu
Khóa luận tốt nghiệp.
Nghiên cứu chính thức là sử dụng phương pháp tham khảo ý kiến trực tiếp
của các Kiểm sát viên, Điều tra viên và các chuyên gia nghiên cứu luật học lĩnh vực
Tòa án và Kiểm sát,... về thực trạng áp dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật
về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự để đưa ra các giải
pháp hoàn thiện cũng như áp dụng có hiệu quả các quy định của pháp luật trong lĩnh
vực tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân. Sau đó tổng kết lại q trình nghiên
cứu đưa ra các giải pháp, kiến nghị góp phần hồn thiện, nâng cao hiệu quả của việc
thực thi pháp luật về chức năng thực hiện các hoạt động kiểm sát của Viện kiểm sát
nhân dân tại phiên tòa dân sự. Cuối cùng là một số kết luận rút ra từ q trình
nghiên cứu và hướng phát triển.
5. Kết cấu Khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các tài liệu tham khảo, bài Khóa luận có kết
cấu 2 chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự.
Chương 2: Thực trạng và một số giải nhằm nâng cao hiệu quả kiểm sát giải
quyết các vụ, việc dân sự của Viện kiểm sát nhân dân.


5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHỨC NĂNG
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm về Viện kiểm sát nhân dân và công tác thực hiện chức năng
kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm về Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. VKSND có nhiệm vụ
bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất.2 Theo đó, hai chức năng của VKSND được quy định như sau:
Chức năng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân3 là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác,
tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy
tố, xét xử vụ án hình sự.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân4 là hoạt
động của Viện kiểm sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết
định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ
khi tiếp nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong
suốt quá trình giải quyết vụ án hình sự; trong việc giải quyết vụ án hành chính, vụ
việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động; việc thi hành
án, việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong hoạt động tư pháp; các hoạt động tư pháp
khác theo quy định của pháp luật.

2

Điều 2, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014

Điều 3, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
4
Điều 4, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014
3


6

1.1.2. Khái niệm về công tác thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực tố tụng dân sự của Viện kiểm sát nhân dân
Theo điểm e khoản 2 Điều 6 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014, công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự là một trong những công
tác thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Khi thực hiện công tác này, Viện
kiểm sát sử dụng các quyền năng pháp lý được pháp luật quy định để kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, những người tiến hành tố tụng và những
người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự, bảo đảm cho
việc giải quyết các vụ việc dân sự có căn cứ, kịp thời, đúng pháp luật.
Như vậy, công tác kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
là tổng hợp những hành vi theo luật định mà Kiểm sát viên của VKSND kiểm tra,
giám sát về việc tuân theo pháp luật của Tịa án trong q trình giải quyết vụ việc
dân sự theo các thủ tục do luật định. Bên cạnh đó, hoạt động tố tụng của VKSND
tại phiên tòa dân sự là việc VKSND tham gia với tư cách là cơ quan tiến hành tố
tụng trong tố tụng dân sự nhằm thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của Tòa án và những người tham gia tố tụng đảm bảo cho pháp luật
được thi hành nghiêm chỉnh, thống nhất trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự tại
Tòa án.
1.2. Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự theo Bộ
luật Tố tụng dân sự năm 2015
1.2.1. Tổng quan về địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015

Trong cuộc sống hàng ngày, khi phát sinh tranh chấp cá nhân hay tổ chức có
thể phải yêu cầu Toà án giải quyết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Để giải quyết tranh chấp đó, Tồ án và những người tham gia sẽ phải tiến hành
những hành vi nhất định gọi là tố tụng. Tố tụng để giải quyết một tranh chấp dân sự
được gọi là tố tụng dân sự. Tương tự như vậy có tố tụng hình sự, tố tụng hành
chính… Tố tụng dân sự được hiểu theo nghĩa rộng đó là tồn bộ trình tự được tiến
hành để giải quyết một số tranh chấp dân sự, bao gồm cả trình tự hồ giải (ngoài
Toà án) và trọng tài. Quan niệm này được nhiều nước trên thế giới công nhận và
được thể hiện trong Bộ luật Tố tụng dân sự của họ. Cũng như nhiều chế định pháp


7

lý khác ở nước ta, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân nói chung, trong hoạt
động giải quyết các vụ án dân sự nói riêng được quy định rải rác trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau. Trước hết phải nói đến là Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam năm 2013. Điều 107 Hiến pháp 2013 quy định “Viện kiểm sát
nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”, góp phần
đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Các Viện kiểm
sát nhân dân địa phương, các Viện kiểm sát quân sự thực hành quyền công tố và
kiểm sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định.
Trên cơ sở Hiến pháp năm 2013, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014 đã quy định một cách khái quát về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.5 Đến khi Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015 ra đời, địa vị pháp lý của VKSND trong tố tụng dân sự được quy định rất cụ
thể trong Bộ luật này và kịp thời hoàn thiện hơn về mặt nội dung các quy định của
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân cho phù hợp hơn với thực tiễn xã hội. Sự ra
đời của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 đánh dấu một bước pháp điển hoá cao
trong kỹ thuật lập pháp của nước ta, phần nào đã tập trung được những nội dung cơ
bản nhất, quan trọng nhất thể hiện cụ thể và rõ nét nhất địa vị pháp lý của VKSND

trong lĩnh vực tố tụng dân sự.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thì địa vị pháp lý nói chung một
cách thơng dụng là “Tổng thể các điều kiện pháp lý mà pháp luật địi hỏi để xác
định cho một chủ thể có khả năng tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.6
Như vậy, địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân và của cơ quan Nhà nước nói
chung được xác định bởi vị trí, vai trị của nó trong hệ thống các cơ quan nhà nước,
tính chất quyền lực và chức năng nhà nước mà cơ quan đó được giao, mức độ phạm
vi tham gia của nó vào quá trình thực hiện các chức năng nhà nước đó. Có thể khái
quát rằng: “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là tổng
thể các quy định của pháp luật về vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.” 7

5

Điều 27, Điều 28 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Nhà xuất bản Đại học Quốc gia (2002), Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thơng dụng
7
Phùng Thanh Hà (2016), Luận văn thạc sĩ luật học “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng dân sự Việt Nam”, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội - 2016
6


8

1.2.2. Vị trí, vai trị, phạm vi của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát hoạt
động tư pháp trong lĩnh vực dân sự theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
Về vị trí, vai trị:
Ở Việt Nam, VKSND là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp (Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014), Viện kiểm sát có vị trí và vai trò tương đối đặc biệt

trong tố tụng dân sự. Theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Viện kiểm sát khơng chỉ là cơ quan bảo
vệ lợi ích xã hội và trật tự cơng cộng mà còn là cơ quan kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong lĩnh vực tố tụng dân sự. Theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự
năm 2015 thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự đã bị thu
hẹp đi nhưng những quyền đặc thù như tham gia phiên toà (trong một số trường hợp
luật định), kháng nghị bản án, quyết định dân sự của Toà án theo thủ tục phúc thẩm,
giám đốc thẩm… vẫn tiếp tục được quy định.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật nêu trên, đã có nhiều ý kiến cho rằng
trong tố tụng dân sự, VKSND không thực hiện quyền công tố mà chỉ thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp nên VKSND là cơ quan kiểm sát việc giải quyết
vụ việc dân sự mà không phải là cơ quan tiến hành tố tụng cũng như không phải là
cơ quan tham gia tố tụng. Một số ý kiến khác cho rằng, VKSND là cơ quan thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nên VKSND là cơ quan tiến
hành tố tụng. Cũng có ý kiến cho rằng, trong tố tụng dân sự VKSND thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn kiểm sát hoạt động tư pháp, không trực tiếp tiến hành các hoạt
động tố tụng do vậy VKSND là cơ quan tham gia tố tụng.8
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 của Hiến pháp năm 2013, thì VKSND
thực hành quyền cơng tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Chức năng kiểm sát hoạt
động tư pháp của VKSND; nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND khi kiểm sát việc giải
quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hơn nhân và gia đình, kinh doanh, thương
mại, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật tiếp tục được quy
định tại Điều 4 và Điều 27 của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014.
Chính vì vậy, có ý kiến cho rằng theo quy định của Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ

8

bài viết “Xác định vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự”



9

chức VKSND năm 2014 thì cần xác định lại chức năng của VKSND trong tố tụng
dân sự là cơ quan kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự với lý do: Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 đã có những thay đổi nhất định cũng như đã kế thừa và phát huy
những ưu điểm từ Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011),
đó là bỏ quy định về quyền khởi tố vụ án dân sự của VKSND mà trước đây có quy
định và hiện hành chỉ quy định VKSND có quyền kiến nghị khởi kiện vụ án dân sự.
Vì vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, VKSND không thực hành
quyền công tố, không khởi tố vụ án dân sự, không chủ trì thực hiện bất kỳ một giai
đoạn tố tụng dân sự nào như TAND (cụ thể: thụ lý vụ án, lập hồ sơ vụ án, thu thập
chứng cứ, hòa giải, ra các quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ việc giải quyết vụ án,
trưng cầu giám định…), mà chỉ kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng dân sự, thể
hiện rõ được cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát quyền lực theo Hiến pháp năm
2013 giữa TAND và VKSND.
Về phạm vi:
Phạm vi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự và các việc khác theo quy định của pháp luật bắt đầu từ khi Tồ án thơng báo
thụ lý vụ, việc dân sự đến khi bản án, quyết định của Tịa án có hiệu lực pháp luật
khơng bị kháng cáo, kháng nghị hoặc không bị yêu cầu, kiến nghị, đề nghị xem xét
lại theo khoản 1 Điều 358 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Trường hợp Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu thì Viện kiểm sát thực
hiện việc kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu. Trường hợp phát hiện
những vụ việc Tòa án trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu không đúng với quy định
tại Điều 192, 364 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì Viện kiểm sát có trách
nhiệm kiến nghị với Chánh án Tịa án cùng cấp đã trả lại đơn khởi kiện hoặc Chánh
án Tòa án cấp trên một cấp theo quy định tại Điều 194, Điều 364 Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015 để khắc phục.



10

1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
dân sự
Tác giả đồng quan điểm với Lê Thị Thanh Loan9 khi cho rằng nhiệm vụ của
Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự có thể xác định trên hai phương diện:
Phương diện thứ nhất, theo quy định của Điều 2 Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2014 về nhiệm vụ chung của tồn ngành Kiểm sát nhân dân thì
VKSND có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ
của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khoẻ,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân
đều phải được xử lý theo pháp luật và theo quy định của Điều 6 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2014 về mục đích hoạt động kiểm sát việc giải quyết các vụ
án dân sự, kinh tế, hành chính, lao động… thì Kiểm sát viên của VKSND kiểm sát
việc giải quyết các vụ án nhằm bảo đảm việc giải quyết các vụ án đúng pháp luật,
kịp thời. Trên các cơ sở quy định pháp luật đó, có thể xác định nhiệm vụ của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự là:
Thứ nhất, bảo đảm việc giải quyết các vụ án dân sự ở Toà án các cấp nhanh
chóng, khách quan, tồn diện, đầy đủ và kịp thời.
Thứ hai, bảo đảm mọi bản án, quyết định dân sự của Tồ án có căn cứ và
đúng pháp luật.
Trên phương diện thứ hai, nhiệm vụ của VKSND trong tố tụng dân sự được
hiểu là trách nhiệm, là nghĩa vụ pháp lý hay là một công việc mà pháp luật quy định
Kiểm sát viên phải tiến hành trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Là
trách nhiệm, là nghĩa vụ, nhiệm vụ luôn đi đôi cùng với quyền hạn (quyền năng
pháp lý mà pháp luật quy định cho VKSND để thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự).
Về nguyên tắc, nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND một mặt phải được xác
định đầy đủ trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong tố

9

Lê Thị Thanh Loan (2017), Luận văn thạc sĩ Luật học “Địa vị pháp lý của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng dân sự”, Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội – 2017


11

tụng dân sự, mặt khác chúng phải được pháp luật quy định cụ thể, rõ ràng và chặt
chẽ. Có như vậy mới đảm bảo cho Kiểm sát viên hoàn thành có hiệu quả chức năng,
nhiệm vụ của mình, đồng thời ngăn chặn sự tuỳ tiện hay lạm dụng chúng trong thực
tiễn áp dụng. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự
được thực hiện thông qua hoạt động của các chức danh pháp lý cụ thể, đó là Viện
trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên VKSND các cấp.
Mặc dù nội dung cũng như phạm vi áp dụng nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự của Viện công tố các nước và Viện kiểm sát
nhân dân ở Việt Nam rất khác nhau tuỳ theo pháp luật của mỗi quốc gia, nhưng
dưới góc độ kỹ thuật lập pháp, nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nước ta
hay Viện cơng tố các nước có đặc điểm chung là đều được quy định cả trong các
văn bản pháp luật về hình thức và văn bản pháp luật về nội dung. Ví dụ: ở nước ta,
nhiệm vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự được ghi nhận
chủ yếu trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng
dân sự năm 2015. Ở Cộng hoà Pháp, quyền khởi kiện của Viện công tố đối với
những vụ án dân sự liên quan đến lợi ích cơng được quy định trong Bộ luật dân sự,
còn những nhiệm vụ quyền hạn khác của Viện công tố trong tố tụng dân sự lại được
quy định trong Bộ luật Tố tụng dân sự… Ở Liên bang Nga cũng vậy, nhiệm vụ
quyền hạn của Viện kiểm sát Liên bang Nga trong tố tụng dân sự được ghi nhận
trong Luật Tổ chức Viện kiểm sát Liên bang, trong Bộ luật Dân sự, trong Bộ luật
Tố tụng dân sự, trong Luật về mơi trường…
Nói tóm lại, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng

dân sự là nhiệm vụ quyền hạn do pháp luật quy định. Nhiệm vụ, quyền hạn này
được xác định trên cơ sở vị trí, vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân
sự và được ghi nhận trong các văn bản pháp luật khác nhau, nhưng chủ yếu là trong
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015.
1.3. Quá trình xây dựng và phát triển của pháp luật về Viện kiểm sát nhân dân
Việt Nam
Trải qua hơn nửa thế kỉ từ khi thành lập Viện công tố (tiền thân của
VKSND) vào năm 1946 cho đến nay, VKSND đã trải qua bao thăng trầm của lịch


12

sử nhưng vẫn tồn tại và phát triển ngày một hoàn thiện hơn, đảm bảo thực hiện chức
năng của VKSND luôn luôn tuân theo Chỉ thị của Đảng trong công tác bảo vệ Hiến
pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất,
khơng phụ lịng tin của Đảng và Nhà nước đã giao phó trách nhiệm.
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến năm 1980
Sự ra đời của hệ thống cơ quan VKSND được khởi đầu bằng việc ban hành
Hiến pháp 1959 và các luật về tổ chức Nhà nước, trong đó có Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 1960. Trên cơ sở các văn bản quy phạm pháp luật ấy, các cơ
quan công tố được chuyển thành hệ thống các cơ quan nhà nước mới (Viện kiểm sát
nhân dân). Khi đó cơng tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự đã được xác
định là một trong những khâu công tác nghiệp vụ cơ bản trong hệ thống tổ chức bộ
máy của VKSND.
Ngày 31/12/1959, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng hịa đã thơng qua
Hiến pháp 1959. Liên quan đến chế định VKSND, Điều 105 Hiến pháp 1959 đã quy
định: “VKSND tối cao nước Việt Nam dân chủ cộng hòa kiểm sát việc tuân theo

pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan Nhà nước địa
phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Các VKSND địa phương và
Viện kiểm sát Quân sự có quyền kiểm sát trong phạm vi do luật định”. Liên quan
đến vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự, Điều 3 (điểm g) và Điểu 17 (điểm b)
của Luật Tổ chức VKSND năm 1960 quy định VKSND các cấp có quyền: khởi tố,
hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan đến lợi ích của
Nhà nước và của nhân dân. Công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, lúc
đầu là kiểm sát xét xử dân sự, thực hiện theo quy định của Luật Tổ chức VKSND
năm 1960.
Trong giai đoạn đầu, khi mới thành lập ngành Kiểm sát nhân dân, trong hoàn
cảnh cả nước ta thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là tiến hành cách mạng xã hội ở
miền Bắc và giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị đế quốc Mỹ và bọn tay sai,
thực hiện thống nhất nước nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
VKSND đã có một chức năng hiến định hồn tồn mới so với Viện cơng tố trước đó


13

là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ
quan Nhà nước địa phương, các nhân viên cơ quan Nhà nước và công dân. Do tầm
quan trọng của công tác kiểm sát, góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa,
phát huy quyền dân chủ của nhân dân. Cũng trong giai đoạn này, VKSND luôn
nhận được sự quan tâm lãnh đạo của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ương và
các đồng chí lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nước.
Trong suốt một thời gian dài, thẩm quyền của Kiểm sát viên VKSND trong
tố tụng dân sự thể hiện cụ thể tại nhiều văn bản dưới luật khác nhau. Tuy nhiên, để
thể chế hóa chủ trương của Đảng, những thẩm quyền của VKSND cũng đã được thể
hiện tương đối thống nhất và rõ ràng theo các quy định pháp luật. Có thể nói, pháp
luật tố tụng dân sự thời kỳ này đã giữ nguyên một số thẩm quyền của Viện công tố
trước đây và bổ sung, phát triển một số thẩm quyền mới của VKSND, trong đó

đáng lưu ý một số thẩm quyền sau đây: thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự và tham
gia tố tụng. Đã có những quy định rất rõ ràng về thẩm quyền này ngay sau khi Luật
Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1960 được ban hành. Những loại việc mà VKSND
tham gia tố tụng rất đa dạng nhưng có thể phân thành hai loại: một là những việc
dân sự mà một trong các bên đương sự khó hoặc khơng có điều kiện để tự bảo vệ
được quyền lợi chính đáng của mình trong các tranh chấp dân sự. Loại việc thứ hai
mà Kiểm sát viên VKSND cần phải tham gia tố tụng là những loại việc có liên quan
đến quyền, lợi ích của Nhà nước, có ảnh hưởng xã hội lớn, liên quan đến việc thực
hiện chính sách lớn. Đó là những việc kiện địi nhà, việc kiện có liên quan đến
quyền lợi của Việt kiều, Ngoại kiều,10 khi Tòa án xét xử việc tiêu hôn (trái pháp
luật).11 Nếu tham gia tố tụng, Kiểm sát viên có thể tham gia bất cứ khi nào và nếu
khơng tham dự phiên tịa, Kiểm sát viên VKSND phải gửi các bản kết luận viết.
Theo các văn bản pháp luật có liên quan, những loại việc trên đều là những
loại việc VKSND có quyền khởi tố vụ án dân sự nếu các bên không tự khởi kiện.
Nếu VKSND khởi tố, VKSND có các quyền và trách nhiệm như một bên đương sự
như phải cung cấp tài liệu, chứng cứ để chứng minh và Tòa án phải xác minh như

10

Cơng văn số 1827-TC ngày 28/10/1963 của Tịa án nhân dân tối cao về việc chỉ định người bào chữa trước
phiên tịa
11
Thơng tư số 112-NCPL ngày 19/8/1972 của Tịa án nhân dân tối cao hướng dẫn xử lý về dân sự những hôn
nhân vi phạm về điều kiện kết hôn


14

đối với các đương sự tham gia vụ kiện.12 Đối với những vụ án mà VKSND trực tiếp
khởi tố thì Tịa án khơng tiến hành hịa giải giữa đại diện VKSND và bị đơn trong

vụ kiện.13
Trong giai đoạn 1960-1980, những chủ trương của Đảng và pháp luật có liên
quan đến vị trí, vai trị của VKSND trong tố tụng dân sự đã khẳng định sự quan tâm
của Đảng và Nhà nước đến việc đảm bảo sự tuân thủ pháp luật trong xét xử dân sự,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự, và việc thực hiện chức năng của
Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Những chủ trương, quy định pháp luật này
không chỉ tạo tiền đề cho việc thực hiện chức năng kiểm sát xét xử dân sự trong giai
đoạn này mà còn cho các các giai đoạn tiếp sau.
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 2004
Với việc ban hành Hiến pháp 1980 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1981, vị trí vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong tố tụng dân sự của
VKSND được tiếp tục khẳng định tại các Điều 12 đến Điều 17 Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 1981. Trong những năm 1980, VKSND trong tố tụng dân sự
khơng có sự thay đổi lớn về mặt nội dung vẫn thực hiện vai trị chính là cơ quan
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử, giải quyết các vụ án dân
sự của Tòa án. Riêng quyền yêu cầu Tòa án nhân dân chuyển hồ sơ để phục vụ hoạt
động kiểm sát, nếu như trước đây khơng được quy định có hệ thống thì nay Luật Tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân 1981 đã bổ sung khoản 3 Điều 13 về thẩm quyền này
của VKSND, giúp cho VKSND có vai trị như một cơ quan tiến hành tố tụng trong
tố tụng dân sự. Đối với quyền khởi tố vụ án dân sự, có hai bổ sung mới: VKSND có
quyền trực tiếp khởi tố và có quyền yêu cầu các cơ quan khác đứng ra khởi tố.14
VKSND có quyền trực tiếp khởi tố vụ án dân sự khi thấy cần thiết trong quá trình
kiểm sát việc thi hành án.15 Quy định này khẳng định quyền khởi tố dân sự là một
hoạt động quan trọng của VKSND trong tố tụng dân sự đồng thời cho thấy rằng
mặc dù các cơ quan khác cũng có vai trị này nhưng VKSND là cơ quan có trách
12

Thơng tư số 06-TATC ngày 25/02/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc điều tra trong tố tụng
dân sự
13

Thông tư số 25-TATC ngày 30/11/1974 của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn việc hòa giải trong tố tụng
dân sự
14
Khoản 6, Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981
15
Khoản 3, Điều 16 Luật sửa đổi, bổ sung Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1981


15

nhiệm chủ yếu không chỉ trực tiếp đứng ra khởi tố mà cịn có trách nhiệm u cầu,
đốc thúc các cơ quan khác thực hiện hoạt động này.
Trong giai đoạn này, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992 được ban
hành, đã cụ thể hóa những quy định về VKSND trong Hiến pháp 1992 - Hiến pháp
của giai đoạn đổi mới và cũng là Hiến pháp đầu tiên ghi nhận VKSND có 2 chức
năng: kiểm sát việc tuân theo pháp luật và thực hành quyền cơng tố; vị trí, vai trò
VKSND trong tố tụng dân sự được tiếp tục khẳng định một cách rõ ràng hơn, cụ thể
hơn và đầy đủ hơn. Có những quy định rõ ràng hơn, đầy đủ hơn về thẩm quyền của
Viện kiểm sát nhân dân bao gồm: giới hạn những loại việc mà Viện kiểm sát nhân
dân có thẩm quyền khởi tố vụ án dân sự, lao động, hành chính được quy định tại
Điều 17 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992, Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án dân sự và Điều 28 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động; kiểm sát lập hồ sơ các vụ án dân sự, hành chính, lao động được quy định tại
Điều 13a Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 1988, Điều 17 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 1992; yêu cầu Tòa án nhân
dân áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của
luật được quy định cụ thể tại Điều 41 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự,
Điều 41, 42 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, Điều 43 Pháp lệnh thủ
tục giải quyết các tranh chấp lao động, khoản 2 Điều 42 Pháp lệnh thủ tục giải quyết
các vụ án dân sự, khoản 2 Điều 44 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế,

khoản 2 Điều 46 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động; tham gia tố
tụng tại phiên tòa căn cứ tại quy định khoản 2 Điều 17 Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân 1992; kháng nghị các bản án, quyết định của Tòa án theo thủ tục phúc
thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm được quy định tại khoản 4 Điều 17 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 1992 và các điều 58-70, Điều 71-73, 76, 78-80 Pháp lệnh
thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, các điều 59-68, Điều 74-77, 79, Điều 81-83
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, điều 60-69, Điều 73-75, Điều 77
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động; kiểm sát việc thi hành án dân
sự được quy định tại Điều 16 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 1988, Điều 19-21 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
1992, Điều 9, 28, 45 Pháp lệnh Thi hành án dân sự 1993.
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002 ra đời với một sự thay đổi bước
ngoặt. Trong lịch sử hơn 40 năm hình thành và phát triển, VKSND không thực hiện


16

chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong lĩnh vực hành chính, kinh tế, xã
hội (chức năng kiểm sát chung) mà thực hiện chức năng cơ bản là thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002
đã có những thay đổi đáng kể về việc mở rộng hơn, rõ nét hơn về phạm vi kiểm sát
việc giải quyết các vụ án dân sự được quy định tại Điều 3 và các điều luật tại
Chương IV Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, đặc biệt là quy định bổ
sung mới tại Điều 21 khoản 1 về thẩm quyền của VKSND kiểm sát việc thụ lý vụ
án của Tòa án nhân dân, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKSND
được thực hiện trong mọi giai đoạn của tố tụng dân sự, từ khi Tòa án thụ lý đơn
kiện cho đến khi thi hành bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tịa án để
kiểm tra, giám sát hành vi tố tụng của Tòa án và những người tham gia tố tụng
khác, nhằm đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Hai là, Luật tiếp tục quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của VKSND trong việc

khởi tố các vụ án dân sự và bổ sung rõ hơn về thẩm quyền của VKSND trong việc
tham gia tố tụng tại phiên tòa. Một điểm mới đáng chú ý theo Điều 22 Luật Tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân 2002, khi thực hiện kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân
sự, hơn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy
định của pháp luật, nếu phát hiện thấy dấu hiệu tội phạm của những người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng và những người khác thì VKSND có quyền khởi tố
về hình sự.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến 2015
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 đã được ban hành và có hiệu lực từ 01/01/2005.
Đây là Bộ luật Tố tụng dân sự đầu tiên của nước ta, thể hiện quan điểm của Đảng và
Nhà nước ta về cải cách tư pháp, nhất là cải cách chính sách tố tụng dân sự và bộ
máy các cơ quan tư pháp. Với sự ra đời của Bộ luật Tố tụng dân sự 2004, vị trí, vai
trị của VKSND trong tố tụng dân sự có sự thay đổi đáng kể xuất phát từ những chủ
trương mới của Đảng về nâng cao tính “chủ động thu thập chứng cứ, chứng minh”
của đương sự trong tố tụng dân sự,16 giảm bớt sự can thiệp của các cơ quan nhà
nước vào các quan hệ tố tụng dân sự, đổi mới phương thức kiểm sát của VKSND
trong giai đoạn mới.

16

Nghị quyết 49-NQ/TW về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ngày 02/6/2005


17

Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 ra đời trên cơ sở kế thừa truyền thống tư pháp
dân sự đã được xác lập, pháp điển hóa các văn bản pháp luật như Pháp lệnh Thủ tục
giải quyết các vụ án dân sự (năm 1989), Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt
Nam các bản án và quyết định của Tịa án nước ngồi (năm 1993), Pháp lệnh thi
hành án dân sự (năm 1993), Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (năm

1994), Pháp lệnh công nhận và thi hành tại Việt Nam quyết định của Trọng tài nước
ngoài (năm 1995), Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (năm 1996),
các quy định cụ thể về thẩm quyền và trách nhiệm của VKSND và Tòa án nhân dân
trong Luật Tổ chức VKSND và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (năm 2002). Bộ luật
cho phép áp dụng chung một thủ tục cho các loại việc dân sự, kinh tế và lao động
mà trước đây có các thủ tục riêng rẽ đối với từng loại việc với sự khác biệt khơng
nhỏ về trình tự, thẩm quyền, trách nhiệm và thời hạn; Bô luật đã quy định hai loại
thủ tục để giải quyết vụ án dân sự và việc dân sự, theo đó việc giải quyết việc dân
sự được tiến hành nhanh gọn với thủ tục đơn giản hơn nhiều so với việc giải quyết
các vụ án dân sự.
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 tiếp tục khẳng định chức năng, vị trí pháp lý của
cơ quan VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng, thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự mà một trong những phương thức hoạt
động chủ yếu là phải tập trung kiểm sát các bản án, quyết định giải quyết vụ việc
dân sự của Tịa án để góp phần đảm bảo các quyết định này có căn cứ và hợp pháp;
trong trường hợp phát hiện có vi phạm pháp luật, VKSND được thực hiện các
quyền: quyền yêu cầu, quyền kiến nghị và quyền kháng nghị nhằm đảm bảo việc
giải quyết vụ việc dân sự kịp thời, đúng pháp luật.
1.3.4. Giai đoạn từ năm 2015 đến nay.
Lịch sử hơn nửa thế kỷ thực hiện các chủ trương của Đảng và pháp luật liên
quan đến việc thực hiện chức năng kiểm sát dân sự ghi nhận sự trưởng thành và
phát triển vượt bậc của công tác này hòa cùng sự phát triển chung của ngành Kiểm
sát nhân dân.
Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước ta đang thực hiện công cuộc đổi mới
và hội nhập quốc tế toàn diện, các tranh chấp dân sự phát sinh càng nhiều với tính
chất ngày càng phức tạp, thì vấn đề về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các


18


bên đương sự, việc đảm bảo việc giải quyết các vụ án dân sự kịp thời và đúng pháp
luật, trở thành các yêu cầu quan trọng cần phải được giải quyết trong q trình thực
hiện cơng cuộc cải cách tư pháp. Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng về cải
cách tổ chức và hoạt động của VKSND và hoàn thiện chính sách pháp luật dân sự
và thủ tục tư pháp, vấn đề vị trí và vai trị của VKSND đã và đang được nghiên cứu
đổi mới dựa trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành tựu của công tác kiểm sát
dân sự qua các thời kỳ cùng với yêu cầu mới từ thực tiễn đời sống xã hội.
Khi Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 ra đời thì một số thẩm quyền được quy định
tại Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã có những chuyển biến rõ rệt. Sau hơn ba
năm thi hành, có thể nói Bộ luật Tố tụng dân sự đã góp phần quan trọng trong việc
bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cho
đến nay, nhiều quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự vẫn còn phù hợp và đang phát
huy tác dụng tích cực. Tuy nhiên qua tổng kết thực tiễn cho thấy cũng có nhiều quy
định của Bộ luật Tố tụng dân sự đã bộc lộ những hạn chế, bất cập; không đáp ứng
đầy đủ nhu cầu của người dân trong việc giải quyết các tranh chấp nảy sinh trong
đời sống dân sự; tăng cường quyền và trách nhiệm của VKSND để họ chủ động
trong thực thi nhiệm vụ, bảo vệ được quyền và lợi ích của các đương sự; bảo đảm
các quyền, lợi ích chính đáng của cơ quan, tổ chức, cá nhân; góp phần vào sự phát
triển lành mạnh của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như:
VKSND không kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của Tịa án; VKSND khơng thực hiện
thẩm quyền khởi tố (khởi kiện) vụ án dân sự; VKSND không yêu cầu áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời và không thực hiện quyền phản đối bằng văn bản đối với
biên bản hòa giải thành của Tòa án đối với đương sự; theo quy định Bộ luật Tố tụng
dân sự 2015 thì VKSND chỉ tham gia phiên tòa trong một số trường hợp nhất định:
Đối với những vụ án do Tòa án thu thập chứng cứ mà đương sự có khiếu nại về việc
thu thập chứng cứ đó, các việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, các
vụ, việc dân sự mà VKSND kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án hoặc đã tham
gia phiên tòa sơ thẩm vụ án đó, trường hợp sau phiên tịa sơ thẩm mà đương sự có
khiếu nại về việc thu thập chứng cứ của Tòa án cấp phúc thẩm; phiên tòa xét xử

giám đốc thẩm, tái thẩm.


19

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Trong Chương 1, tác giả đã tập trung phân tích, luận giải một số vấn đề lý
luận về chức năng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự như khái niệm, địa vị
pháp lý, phạm vi cũng như nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
trong tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu những vấn đề lý luận nêu trên giúp luận giải
được vai trò của VKSND trong tố tụng dân sự, từ đó rút ra được chức năng của cơ
quan này trong từng giai đoạn tố tụng, cụ thể là:
Thứ nhất, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự là một trong
những nội dung của kiểm sát hoạt động tư pháp và được quy định xuyên suốt trong
lịch sử hình thành, phát triển của VKSND. Kiểm sát viên thực hiện hoạt động kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự thông qua các hoạt động khác
nhau, ở các giai đoạn tố tụng khác nhau. Qua thời gian, phạm vi kiểm sát hoạt động
tố tụng dân sự của VKSND có thể mở rộng hay thu hẹp nhưng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng dân sự luôn được coi là nguyên tắc của tố tụng dân sự
và ngày nay đã được quy định tương đối cụ thể trong Bộ luật Tố tụng dân sự.
Thứ hai, những vấn đề đã được nghiên cứu về chức năng của Viện kiểm sát
nhân dân trải qua lịch sử hình thành và phát triển về lĩnh vực kiểm sát hoạt động tư
pháp trong tố tụng dân sự từ khi thành lập Ngành năm 1960 đến nay giúp cho ta có
cái nhìn tồn diện hơn và cụ thể hơn về chức năng của Viện kiểm sát nhân dân tại
phiên tòa dân sự. Và nó cũng là cơ sở, tiền đề cho việc phân tích và đánh giá những
quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân, từ đó đưa ra được giải pháp, phương hướng nhằm hồn thiện những
thiếu sót của pháp luật cũng như việc thi hành pháp luật trên thực tiễn sao cho hiệu
quả.
Như vậy, với những nội dung được trình bày ở Chương 1 sẽ là cơ sở, tiền đề

cho việc phân tích, đánh giá luật thực định, thực tiễn về các chức năng của Viện
kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự và đề xuất các giải pháp áp dụng có hiệu quả
các quy định của pháp luật nhằm hoàn thiện các quy định này.


×