LUẬN VĂN:
Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố,
kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm sát
nhân dân ở tỉnh Thái Bình
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tư pháp là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện
Nhà nước pháp quyền Việt Nam đã được Đảng và Nhà nước quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo.
Theo yêu cầu của cải cách tư pháp thì vấn đề đổi mới, cải cách hệ thống các cơ quan tư
pháp từ công tác tổ chức đến cơ chế hoạt động và nâng cao năng lực của cán bộ đã được
quán triệt và đặt ra là nhiệm vụ cấp bách nhằm xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững
mạnh, hoạt động có hiệu quả, hướng tới xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân. Yêu cầu của cải cách tư pháp đã đặt ra nhiệm vụ khách quan phải xây dựng mô hình tổng
thể của hệ thống các cơ quan tư pháp, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền và hoàn
thiện tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp.
VKSND là cơ quan Nhà nước nằm trong hệ thống các cơ quan tư pháp có vị trí, vai
trò rất quan trọng trong việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ pháp
chế XHCN. Trong những năm gần đây có khá nhiều các quan điểm khác nhau về vai trò,
vị trí, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức của ngành kiểm sát nhân dân nhưng Đảng và Nhà nư-
ớc ta vẫn khẳng định VKSND tiếp tục thực hiện chức năng Thực hành quyền công tố và
Kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Trên địa bàn tỉnh Thái Bình, ngay sau khi có Nghị quyết 08-NQ/TW ngày
02/01/2002 của Bộ Chính trị về “một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới”; Nghị quyết 49- NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị (khóa IX) về “Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020” ngành Kiểm sát tỉnh Thái Bình đã thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp và đạt được những kết quả đáng kể trong tất cả các lĩnh vực hoạt động
như: chọn cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ lý luận chính trị và chuyên
môn nghiệp vụ; chuẩn bị tốt các điều kiện cơ sở vật chất; tuyển chọn, bố trí, sắp xếp cán
bộ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ; đẩy mạnh sự phối hợp với các cơ quan bảo vệ pháp luật của
tỉnh hoàn thành việc tăng thẩm quyền xét xử cho Toà án cấp huyện theo lộ trình đề ra; tăng
cường công tác sơ kết, tổng kết, thông báo rút kinh nghiệm nghiệp vụ; tăng cường tổ chức
các phiên toà mẫu để rút kinh nghiệm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Thông qua
các phiên toà mẫu đã bồi dưỡng kinh nghiệm thực tiễn cho Thẩm phán, KSV về kỹ năng
tranh tụng tại phiên toà nhằm nâng cao chất lượng trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
Kết quả đã phát hiện và đưa ra xử lý nghiêm minh nhiều vụ án lớn và nghiêm trọng xâm
phạm trật tự quản lý kinh tế, xâm phạm trật tự trị an xã hội, các vụ án về an ninh, ma
tuý…, góp phần thiết thực tăng cường kỷ cương phép nước, củng cố lòng tin của nhân dân
đối với Đảng, Nhà nước nói chung và đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật nói riêng.
Tuy nhiên, hiện nay vẫn còn có những vấn đề mà Nghị quyết 08, 49 của Bộ Chính
trị đề cập tới vẫn cần phải được tiếp tục tổ chức nghiên cứu quán triệt nhằm nâng cao hơn
nữa về sự thống nhất trong nhận thức để triển khai thực hiện có hiệu quả phương hướng,
nhiệm vụ cải cách tư pháp đặt ra. Chẳng hạn như vấn đề:
Coi trọng việc hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề
cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội.
Giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền, hình phạt cải tạo không
giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp dụng hình phạt tử hình theo h-
ướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng [6].
Trên thực tế việc thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong công cuộc cải
cách tư pháp hiện nay ở địa phương có nơi, có việc vẫn chưa được nhận thức, quán triệt và
vận dụng đầy đủ, thống nhất. Nghiên cứu số liệu thống kê số bị cáo đã bị xét xử trong một
số năm gần đây cho thấy, số bị cáo bị xét xử hình phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án
treo vẫn thường chiếm tỷ lệ rất cao so với các loại hình phạt khác. Các hình phạt cảnh cáo,
cải tạo không giam giữ hoặc phạt tiền đối với một số loại tội phạm chưa được Toà án các
cấp quan tâm áp dụng. Công tác thực hành quyền công tố, KSXX các vụ án hình sự của
VKS chưa có biện pháp hữu hiệu làm chuyển biến nhận thức về áp dụng và kiểm sát việc
áp dụng hình phạt đối với người phạm tội theo tinh thần cải cách tư pháp đặt ra.
Việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật là những yêu cầu
quan trọng nhất của công tác tư pháp. Trong đó, công tác thực hành quyền công tố và kiểm
sát việc tuân theo pháp luật, đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật…là trách nhiệm của VKSND được quy định tại điều 23
BLTTHS.
Để làm rõ vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định của tố tụng
hình sự trong công tác thực hành quyền công tố, KSXX hình sự (trong đó có kiểm sát việc
áp dụng hình phạt) thì việc hệ thống về mặt lý luận những căn cứ pháp luật và làm rõ chủ
trương của Đảng, chính sách hình sự của Nhà nước ta đối với người phạm tội không chỉ có
ý nghĩa trong công tác nghiên cứu, mà còn có ý nghĩa rất quan trọng với người làm công
tác thực tiễn trong ngành Kiểm sát nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về vấn đề áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội, nhưng cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ
thống dưới góc độ một Luận văn khoa học về nâng cao chất lượng thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Toà án đối với người phạm tội - nhìn nhận dưới
góc độ áp dụng chính sách hình sự của Nhà nước trong việc áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái Bình.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc học viên chọn đề tài " Nâng cao chất
lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hỡnh phạt của Viện Kiểm sỏt
nhõn dõn ở tỉnh Thỏi Bỡnh " để nghiên cứu trong Luận văn Thạc sĩ của mình, nhằm
nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội trên địa bàn tỉnh Thái Bình, góp phần nâng cao nhận thức việc áp dụng
hình phạt đối với người phạm tội trong hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng và
người tiến hành tố tụng ở tỉnh Thái Bình phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay,
phù hợp với thực tế của địa phương, đáp ứng yêu cầu của lý luận và thực tiễn. Trên cơ sở
nghiên cứu, tác giả xác định nguyên nhân, đề xuất các giải pháp khắc phục tồn tại, hạn chế
của việc thực hiện chính sách hình sự trong áp dụng hình phạt đối với người phạm tội trên
địa bàn tỉnh Thái Bình thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong các hoạt động khác nhau của lĩnh vực Tư pháp đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả. Có thể nêu một số công trình cơ bản thành các nhóm sau:
- Những nghiên cứu về áp dụng pháp luật
+ Luận án Tiến sĩ Luật học của tác giả Lê Xuân Thân, (2004): “áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử của TAND ở Việt Nam hiện nay”.
+ Luận văn Cao học Luật của Nguyễn Mạnh Toàn, (2008): “áp dụng pháp luật
trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của TAND tỉnh Thái Nguyên”; của Lê Việt
Dũng, (2008), “áp dụng pháp luật trong xét xử hình sự sơ thẩm của Toà án quân sự các cấp
ở Việt Nam hiện nay”…
- Nghiên cứu những vấn đề liên quan đến nâng cao chất lượng công tác xét xử và
KSXX hình sự
+ Luận văn Cao học luật của Phạm Thị Bình (2008): “Cơ sở lý luận và thực tiễn về
THQCT của VKSND trong xét xử các vụ án hình sự ở tỉnh Thanh Hoá”; của Trần Thị
Đông (2008): “Chất lượng THQCT trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự của
VKSND tỉnh Hà Nam”…
Ngoài các tác giả trên còn có rất nhiều các công trình khoa học, các bài viết của nhiều tác
giả khác tập trung nghiên cứu liên quan đến các vấn đề: áp dụng pháp luật trong xét xử các vụ
án hình sự; nâng cao chất lượng THQCT và KSXX các vụ án hình sự; nâng cao vai trò, trách
nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong xét xử và KSXX các
vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp… Các công trình khoa học kể trên là nguồn tài liệu
tham khảo vô cùng quan trọng giúp cho tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích: Đánh giá đúng thực trạng và đề xuất được các giải pháp nhằm thống
nhất nhận thức việc áp dụng hình phạt trong thực tiễn xét xử và KSXX các vụ án hình sự
trên địa bàn tỉnh Thái Bình, đảm bảo chính sách hình sự của Nhà nước theo tinh thần cải
cách tư pháp trong giai đoạn hiện nay.
- Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích nêu trên, Luận văn có những nhiệm vụ:
Nghiên cứu cơ sở lý luận liên quan đến công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp
dụng hình phạt được quy định trong BLHS; Nghiên cứu một cách có hệ thống chủ trương
của Đảng về thực hiện nhiệm vụ cải cách tư pháp và chính sách hình sự của Nhà nước đối
với việc xử lý người phạm tội; Nghiên cứu thực trạng thực hành quyền công tố, kiểm sát
việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của VKS hai cấp trên địa bàn tỉnh Thái
Bình trong những năm gần đây.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tượng nghiên cứu của luận văn là công tác THQCT, kiểm sát việc áp dụng
pháp luật về hình phạt của VKSND ở tỉnh Thái Bình.
- Phạm vi nghiên cứu của luận văn là hoạt động của VKS trong thực hành quyền
công tố, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND hai cấp ở tỉnh Thái
Bình. Thời gian thu thập số liệu để nghiên cứu tính từ năm 2005 đến 2008.
Do khuôn khổ của Luận văn Thạc sỹ nên đề tài chỉ tập trung nghiên cứu sâu bốn
loại hình phạt chính là: Cải tạo không giam giữ, phạt tiền, tù có thời hạn, tử hình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng về đổi mới cải cách bộ máy Nhà
nước, cải cách tư pháp, về xây dựng pháp luật và thực hiện pháp luật, nâng cao vai trò
trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong hoạt động
xét xử và KSXX các vụ án hình sự. Luận văn còn dựa trên cơ sở lý luận của khoa học Luật
chuyên ngành là Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật, khoa học Luật Hình sự, Luật Tố
tụng hình sự.
- Tác giả luận văn vận dụng phương pháp luận của Triết học Mác - Lênin về chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cùng các phương pháp nghiên cứu
như: phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phân tích và tổng hợp, lịch sử cụ thể.
Ngoài ra còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của bộ môn khoa học khác như so
sánh, thống kê, trực tiếp trao đổi, tọa đàm với một số người tiến hành tố tụng
6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu chuyên sâu về thực hành
quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND ở tỉnh Thái Bình.
Từ kết quả nghiên cứu mà Luận văn đạt được có một số đóng góp mới như: góp phần làm
rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hành quyền công tố, KSXX hình sự nói
chung và kiểm sát áp dụng hình phạt nói riêng của VKSND ở tỉnh Thái Bình theo tinh thần
cải cách Tư pháp hiện nay. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, Luận văn xác định nguyên
nhân chủ quan và khách quan của những thiếu sót, tồn tại, từ đó đề xuất xây dựng các giải
pháp về hoàn thiện pháp luật hình sự và tố tụng hình sự; những giải pháp trong việc nâng
cao chất lượng thực hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng pháp luật về hình phạt của
VKSND giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn góp phần vào việc hoàn thiện những cơ sở lý luận của công tác thực
hành quyền công tố, kiểm sát áp dụng pháp luật về hình phạt của VKSND ở phạm vi toàn
quốc nói chung và trên từng địa phương nói riêng. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả
đề xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố,
kiểm sát áp dụng hình phạt của VKSND ở địa phương nơi tác giả công tác. Điều đó cũng
hoàn toàn phù hợp với yêu cầu nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng, người tiến hành tố tụng và việc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam
nói chung. Đồng thời cũng đáp ứng với những đòi hỏi trong thực tiễn công tác xét xử, thi
hành án hình sự hiện nay ở các địa phương.
Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho các cơ sở đào tạo và bồi dưỡng cán bộ
của các ngành tư pháp; cho các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng như
Thẩm phán, KSV, Thư ký, Luật sư bào chữa
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 7 tiết.
Chương 1
cơ sở lý luận về chất lượng công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc áp dụng
hình phạt
của viện kiểm sát nhân dân
1.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích áp dụng hình phạt
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, pháp luật XHCN là tổng hợp các quy
tắc xử sự chung thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản, được cơ quan nhà nước và người có thẩm quyền ban hành theo một trình
tự nhất định, với các hình thức nhất định, nhằm điều chỉnh các mối quan hệ xã hội trong quá
trình xây dựng CNXH.
Hình thức thể hiện của pháp luật XHCN chính là các quy phạm pháp luật được các
chủ thể có thẩm quyền ban hành với các loại văn bản có tên gọi và hiệu lực pháp lý khác
nhau. Nhà nước XHCN căn cứ vào các quy phạm pháp luật để quản lý các lĩnh vực của
đời sống xã hội như chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, an ninh quốc
phòng Các quy phạm pháp luật là cơ sở pháp lý của việc tôn trọng và thực thi các quyền
tự do, dân chủ của công dân và là chuẩn mực, thước đo chung để xem xét, đánh giá một
hành vi hợp pháp luật hay vi phạm pháp luật. Các quy phạm pháp luật đòi hỏi phải được
tôn trọng, tuân thủ và thi hành trong đời sống xã hội. Nói cách khác, các quy tắc xử sự
chung được Nhà nước XHCN ban hành dưới dạng các quy phạm pháp luật phải trở thành
những quy tắc xử sự của mọi cá nhân và tổ chức trong đời sống xã hội. Đó cũng là mục
đích quan trọng của Nhà nước XHCN mong muốn khi ban hành các văn bản có chứa đựng
quy phạm pháp luật. Một văn bản quy phạm pháp luật có chất lượng tốt phải là một văn
bản quy phạm pháp luật có khả năng đi vào cuộc sống xã hội và trở thành những quy tắc
ứng xử, những khuôn mẫu trong xử sự giữa người với người trong đời sống xã hội. Các
quy phạm pháp luật sau khi ban hành phải được thẩm thấu trong đời sống xã hội thường
ngày qua công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và thực hiện pháp luật. Khi các quy
phạm pháp luật được các thành viên trong xã hội nhận thức và tự giác thực hiện một cách
nghiêm chỉnh sẽ tạo nên sức mạnh của một nền pháp chế: sống có kỷ cương và tuân thủ
phép nước.
Trên phương diện lý luận, thực hiện pháp luật là những hoạt động, những phương
cách, những quá trình làm cho những quy tắc xử sự chung chứa đựng trong các quy phạm
pháp luật điều chỉnh hành vi, cách xử sự thực tế của các chủ thể pháp luật. Các quy phạm
pháp luật rất phong phú, cho nên cách thức thực hiện chúng cũng rất khác nhau. Căn cứ
vào tính chất của việc thực hiện pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp
luật thành những hình thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật; sử dụng
pháp luật; áp dụng pháp luật.
- Tuân thủ pháp luật, còn gọi là tuân theo pháp luật, là hình thức các chủ thể quan
hệ pháp luật không thực hiện những hành vi mà pháp luật đã ngăn cấm. Đây là hình thức
các chủ thể pháp luật không thực hiện những điều mà pháp luật không cho phép làm.
Thông qua hình thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể quan hệ pháp luật, các quy phạm
pháp luật ngăn cấm được tôn trọng và thực hiện trên thực tế. Chủ thể thực hiện hình thức
tuân thủ pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các tổ chức, cá nhân
và mọi công dân trong xã hội.
- Thi hành pháp luật, còn gọi là chấp hành pháp luật là hình thức các chủ thể quan
hệ pháp luật phải thực hiện những hành vi mà pháp luật quy định được thực hiện trong
những hoàn cảnh, những quan hệ pháp luật mà pháp luật đã dự liệu cụ thể. Đây là hình
thức thực hiện pháp luật chủ động và tích cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan
hệ pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức thi hành pháp luật này là tất cả các cơ quan nhà
nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
- Sử dụng pháp luật, là hình thức các chủ thể thực hiện pháp luật sử dụng các
quyền mà pháp luật cho phép. Đây cũng là hình thức thực hiện pháp luật chủ động và tích
cực bằng các hành vi cụ thể của các chủ thể quan hệ pháp luật. Do hình thức thực hiện
pháp luật này là việc sử dụng các quyền năng pháp lý được pháp luật trao quyền, nên các
chủ thể quan hệ pháp luật có quyền thực hiện hoặc không thực hiện các quyền của mình,
pháp luật không bắt buộc các chủ thể phải thực hiện như hai hình thức tuân thủ pháp luật
và chấp hành pháp luật. Chủ thể thực hiện hình thức sử dụng pháp luật là tất cả các cơ
quan nhà nước, nhân viên nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.
Có thể nói, áp dụng pháp luật là hoạt động diễn ra hàng ngày trong các cơ quan
Nhà nước và chỉ do nhân viên cơ quan Nhà nước có thẩm quyền thực hiện. Trong hoạt
động tố tụng hình sự, áp dụng pháp luật thường được Điều tra viên, KSV, Thẩm phán, Hội
thẩm tiến hành theo một thủ tục tố tụng nhất định để thu thập chứng cứ, xác minh, điều
tra làm rõ các tình tiết vụ án nhằm xác định sự thật khách quan; truy cứu trách nhiệm pháp
lý; xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật.
Tính chất tổ chức thực hiện quyền lực của Nhà nước trong hoạt động áp dụng
pháp luật thể hiện ở chỗ: Hoạt động này chỉ do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến
hành, không theo ý chí của các chủ thể mà là theo quy định của pháp luật. Việc tiến
hành áp dụng pháp luật và ra văn bản áp dụng quy phạm pháp luật hoàn toàn theo quy
định của pháp luật. Quyết định áp dụng quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý thi
hành và được Nhà nước bảo đảm thi hành. Do hoạt động áp dụng pháp luật gắn liền với
quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hành pháp và tư pháp nên nó có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước. Chính vì vậy, áp dụng pháp luật còn là
một hình thức thực hiện quyền lực nhà nước trong các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nếu quy phạm pháp luật là những khuôn mẫu chung, những tiêu chuẩn chung cho xử
sự giữa người với người trong các mối quan hệ xã hội thì hoạt động áp dụng pháp luật luôn
luôn mang tính cụ thể. Tính cụ thể của hoạt động áp dụng pháp luật thể hiện ở chỗ, các địa chỉ
để áp dụng pháp luật là xác định, gồm cả sự việc, con người, thời gian, không gian; quy phạm
pháp luật cần áp dụng và quyết định áp dụng pháp luật được ban hành luôn luôn mang tính cá
biệt.
Do đặc trưng này nên quyết định áp dụng pháp luật phải thỏa mãn các yêu cầu cụ
thể, áp dụng một lần cho một đối tượng nhất định, trong đó quyết định phải nêu rõ tình tiết
sự việc; các điều khoản văn bản quy phạm pháp luật được viện dẫn để làm căn cứ pháp lý;
tên đối tượng phải thi hành; quyền được thực hiện và nghĩa vụ phải hoàn thành của các chủ
thể đã được xác định.
Việc ban hành một quyết định áp dụng quy phạm pháp luật phải được thực hiện
thông qua các thủ tục nhất định. Tính đơn giản hay phức tạp của các thủ tục tùy thuộc rất
lớn vào tính chất nội dung của sự việc cần phải áp dụng. Trong hoạt động tư pháp, các thủ
tục được quy định khá rõ ràng và cụ thể trong các văn bản luật. Cho đến nay, các thủ tục tố
tụng hình sự được Nhà nước tập hợp khá đầy đủ và chi tiết trong BLTTHS. Việc tập hợp,
pháp điển hóa các quy phạm pháp luật tố tụng là việc làm hết sức cần thiết nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho các chủ thể áp dụng pháp luật trong hoạt động tố tụng được chính xác
và đúng pháp luật.
Thực tế áp dụng pháp luật luôn luôn sinh động và phong phú, vừa áp dụng cái
chung vào cái cụ thể và vừa đặt ra các yêu cầu cụ thể bổ sung hoàn chỉnh các quy phạm
pháp luật để phục vụ cho cái chung, cái phổ biến. Tính thực tiễn và tính sinh động của hoạt
động áp dụng pháp luật còn thể hiện rõ nét khi phải áp dụng pháp luật tương tự để giải
quyết các tình huống cụ thể. Trong những trường hợp sự việc cụ thể không có quy phạm
pháp luật điều chỉnh trực tiếp, hay nói cách khác, pháp luật chưa có dự liệu trước thì người
áp dụng pháp luật tiến hành áp dụng pháp luật tương tự.
áp dụng pháp luật tương tự có thể gồm áp dụng tương tự quy phạm pháp luật và áp
dụng tương tự pháp luật: áp dụng tương tự quy phạm pháp luật là sử dụng quy phạm pháp
luật của một lĩnh vực, một sự việc khác, tương tự để giải quyết cho một sự việc, một lĩnh
vực cụ thể chưa có quy phạm pháp luật điều chỉnh trực tiếp. áp dụng tương tự pháp luật là
sử dụng các nguyên tắc chung của pháp luật XHCN và ý thức pháp luật để giải quyết một
vụ việc cụ thể chưa có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh và cũng không có quy
phạm pháp luật tương tự để áp dụng. áp dụng pháp luật tương tự thường dễ phạm sai lầm
và dễ lạm dụng pháp luật nên cần được tiến hành chỉ trong những điều kiện cần thiết và
phải tuân thủ nguyên tắc pháp chế XHCN một cách nghiêm ngặt.
Mặt khác, để giúp cho việc áp dụng pháp luật được tiến hành chính xác và thống
nhất thì công tác giải thích pháp luật cũng được quan tâm nhằm làm sáng tỏ nội dung của
các quy phạm pháp luật, bảo đảm cho nhận thức và áp dụng pháp luật được thống nhất.
Giải thích pháp luật bao gồm giải thích chính thức và giải thích không chính thức. Giải
thích chính thức do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền tiến hành bằng văn bản và có tính
bắt buộc khi áp dụng quy phạm pháp luật. Giải thích pháp luật không chính thức là giải
thích của các nhà nghiên cứu pháp luật và của các cá nhân, tổ chức trong xã hội thông qua
bình luận, trao đổi trực tiếp hoặc qua sách báo pháp lý và các phương tiện thông tin đại
chúng. Giải thích pháp luật không chính thức không có giá trị bắt buộc áp dụng nhưng lại
có tác động rất lớn đến việc nâng cao ý thức pháp luật, hiểu và sử sự đúng theo quy định
của pháp luật.
Trên cơ sở nghiên cứu, tác giả khái quát như sau: áp dụng pháp luật là một hoạt
động mang tính thực tiễn, cụ thể và sinh động do các cơ quan Nhà nước, nhân viên Nhà
nước được giao quyền tiến hành theo một thủ tục nhất định do pháp luật quy định. Nó là
hình thức thực hiện pháp luật, là thủ tục bắt buộc để các cơ quan Nhà nước thực hiện các
biện pháp cưỡng chế khi có hành vi vi phạm pháp luật và tội phạm; khi phải giải quyết các
tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các chủ thể hoặc khi Nhà nước cần
phải can thiệp, cần phải tham gia để bảo đảm việc thực thi trên thực tế các quyền của chủ
thể trên các lĩnh vực của đời sống xã hội theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt và áp dụng hình phạt
1.1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, mục đích của hình phạt
* Khái niệm hình phạt:
Theo Từ điển tiếng Việt năm 2007, hình phạt là "cách phạt kẻ có tội từ việc
cảnh cáo, cấm túc đến tù đày, tử hình" [31, tr.487]. Theo Từ điển Luật học năm 1999,
hình phạt là "biện pháp cưỡng chế do nhà nước quy định trong luật hình sự, được Toà
án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm” [32, tr.185].
Nghiên cứu lịch sử lập pháp của nước ta thấy, khái niệm hình phạt lần đầu tiên
được quy định tại điều 26 BLHS năm 1999 [30, tr.219]. “Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người
phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định” [15, tr.27].
Qua nghiên cứu lý luận và hoạt động thực tiễn, tác giả Luận văn thống nhất quan
điểm về khái niệm hình phạt được quy định tại điều 26 BLHS năm 1999 nêu trên.
* Đặc điểm của hình phạt:
Để đạt được mục đích của hình phạt, Điều 28 BLHS năm 1999 quy định một hệ
thống đầy đủ các hình phạt bao gồm hình phạt chính và hình phạt bổ sung. Các hình phạt
trong hệ thống hình phạt được sắp xếp theo thứ tự từ nhẹ đến nặng, trên cơ sở đó Toà án có
thể vận dụng các chế định trong luật hình sự.
Tội phạm có nhiều loại khác nhau, với những tính chất và mức độ nguy hiểm nhất
định cho xã hội. Xuất phát từ yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm, BLHS đã quy định
hệ thống hình phạt thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước. Hệ thống hình phạt là “một
chỉnh thể bao gồm những hình phạt được quy định trong luật hình sự, có phương thức liên
kết với nhau theo một trật tự nhất định do tính chất nghiêm khắc của từng hình thức (loại)
hình phạt quy định” [32, tr.185].
Hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập. Đối với người phạm tội, phải
áp dụng và chỉ có thể áp dụng một trong những hình phạt chính được quy định tại
điều 28 BLHS năm 1999. Trong Phần các tội phạm của BLHS, hình phạt chính được
quy định trong điều luật về một tội phạm cụ thể. Đối với một tội phạm cụ thể có nhiều
hình phạt chính khác nhau để Toà án lựa chọn. Toà án không thể áp dụng các hình
phạt không được quy định trong BLHS về một tội phạm cụ thể, trừ trường hợp chuyển
sang hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn theo điều 47 BLHS năm 1999 trong trường
hợp có nhiều tình tiết giảm nhẹ. Hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải
tạo không giam giữ; Trục xuất; Tù có thời hạn; Tù chung thân; Tử hình.
Theo Từ điển Luật học năm 1999 thì “hình phạt bổ sung là hình phạt không thể
được tuyên độc lập mà chỉ được tuyên kèm theo hình phạt chính phù hợp với tính chất và
đặc điểm của một số loại tội phạm và nhân thân người phạm tội” [30, tr 205 - 206].
Các hình phạt bổ sung theo quy định tại điều 28 BLHS năm 1999 gồm: Cấm đảm
nhận những chức vụ; Cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Cấm cư trú; Quản
chế; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản; Phạt tiền khi không áp dụng là hình
phạt chính; Trục xuất, khi không áp dụng là hình phạt chính. Đối với một tội phạm cụ thể,
TA có thể chỉ tuyên hình phạt chính mà không kèm theo một hình phạt bổ sung nào, nhưng
cũng có thể có một hoặc nhiều hình phạt bổ sung, nếu trong điều luật có ghi rõ có thể
tuyên phạt hình phạt bổ sung. Việc quy định hình phạt bổ sung trong hệ thống hình phạt có
tác dụng hỗ trợ, tăng sức mạnh cưỡng chế và giáo dục của hình phạt chính, làm cho hình
phạt được thực hiện một cách triệt để, đạt được mục đích của hình phạt, giúp cho các cơ
quan có thẩm quyền thực hiện nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt,
đảm bảo công bằng xã hội và pháp chế XHCN.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra đặc điểm của hình phạt:
- Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước thể hiện ở chỗ người bị
kết án có thể bị tước bỏ hoặc bị hạn chế quyền tự do, quyền về tài sản, về chính trị, thậm
chí cả quyền sống. Bên cạnh đó hình phạt cũng để lại hậu quả pháp lý là án tích cho người
bị kết án trong thời hạn nhất định theo quy định của pháp luật.
- Hình phạt được luật hình sự quy định và do TA quyết định. Trong Phần chung
của BLHS quy định những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến hình phạt như: Mục
đích của hình phạt; hệ thống hình phạt; căn cứ quyết định hình phạt; quyết định hình phạt
trong trường hợp phạm nhiều tội; tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; miễn chấp hành
hình phạt; giảm mức hình phạt đã tuyên… Phần các tội phạm của BLHS quy định các loại
hình phạt và mức hình phạt cho từng loại tội phạm cụ thể.
Các dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi; tính trái pháp luật và sự có
lỗi của người phạm tội luôn gắn liền với tính chịu hình phạt. Do vậy cùng với việc xác
định hành vi nguy hiểm cho xã hội là tội phạm thì cũng đòi hỏi phải quy định loại và mức
hình phạt áp dụng cho người có hành vi phạm tội đó trong luật.
Trong mọi trường hợp không được áp dụng hình phạt đối với những hành vi
không được BLHS quy định là tội phạm và cũng không được áp dụng một loại hình phạt
nào đó nếu hình phạt ấy không được quy định trong hệ thống hình phạt hoặc không được
quy định trong chế tài của điều luật mà hành vi bị xử phạt thỏa mãn. Ngoài TA - cơ quan
có quyền nhân danh Nhà nước tuyên một người có tội và phải chịu hình phạt thì không có
cơ quan nào khác có quyền quyết định hình phạt [17].
- Hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người có hành vi phạm tội. Một trong những
nguyên tắc cơ bản của luật hình sự Việt Nam là trách nhiệm hình sự chỉ đặt ra đối với cá nhân
người phạm tội. Do đó hình phạt chỉ có thể áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị coi là tội phạm.
Ngoài những đặc điểm cơ bản nêu trên, hình phạt còn thể hiện nội dung giai cấp.
Hình phạt trong luật hình sự Việt Nam thể hiện bản chất dân chủ XHCN- dân chủ với nhân
dân, chuyên chính với kẻ thù của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, cải tạo, giáo
dục người phạm tội trở thành người có ích cho xã hội…
* Mục đích của hình phạt: Theo quy định tại điều 27 BLHS năm 1999 thì:
Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm cải tạo
họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục
người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm [15,
tr.27].
Nghiên cứu quy định trên chúng ta thấy hình phạt có mục đích phòng ngừa riêng
và phòng ngừa chung. Nội dung cơ bản của mục đích phòng ngừa riêng chính là sự tước
bỏ, hạn chế những quyền và lợi ích hợp pháp theo quy định của pháp luật hình sự đối với
người bị áp dụng hình phạt. Mức độ của việc tước bỏ và hạn chế những quyền và lợi ích
hợp pháp của họ phụ thuộc vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, vào
nhân thân người phạm tội và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự. Mục
đích chủ yếu trong phòng ngừa riêng của hình phạt chính là cải tạo, giáo dục người phạm
tội để họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc
của cuộc sống XHCN, ngăn ngừa họ phạm tội mới.
Trong mục đích phòng ngừa riêng, trừng trị và cải tạo, giáo dục người phạm tội,
ngăn ngừa họ phạm tội mới là hai mục đích song song tồn tại và có mối quan hệ chặt chẽ.
Chỉ có thể đạt được mục đích cuối cùng và chủ yếu là cải tạo, giáo dục người phạm tội nếu
hình phạt áp dụng đối với họ tương xứng với hành vi phạm tội mà họ đã gây ra. Trong mối
quan hệ giữa trừng trị và cải tạo thì trừng trị là mục đích nhưng đồng thời cũng là phương
tiện để đạt mục đích cuối cùng và chủ yếu của hình phạt đối với người phạm tội là giáo
dục, cải tạo họ.
Ngoài phòng ngừa riêng, hình phạt còn có mục đích phòng ngừa chung thể hiện ở
việc ngăn ngừa người khác phạm tội, nhằm giáo dục, nâng cao ý thức pháp luật cho các
thành viên khác trong xã hội, động viên họ, khuyến khích đông đảo quần chúng nhân dân
tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh, ngăn ngừa và chống tội phạm.
Để đạt được mục đích phòng ngừa chung thì phải tiến hành đồng bộ nhiều biện
pháp, trong đó biện pháp tuyên truyền, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật trong
nhân dân là biện pháp hết sức quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Mục đích phòng ngừa
chung của hình phạt chỉ đạt kết quả tốt khi quần chúng nhân dân hiểu biết pháp luật, thấy
được sự cần thiết của việc tuân thủ pháp luật cũng như ý nghĩa xã hội của hình phạt.
Mục đích phòng ngừa riêng và phòng ngừa chung là hai mặt của thể thống nhất
(hình phạt). Nếu chỉ coi trọng mặt này hay mặt kia đều có thể dẫn đến vi phạm nguyên tắc
pháp chế XHCN khi quyết định hình phạt và làm cho mục đích của hình phạt bị triệt tiêu.
1.1.2.2. Khái niệm áp dụng hình phạt
Điều 127 Hiến pháp năm 1992 nước ta quy định "TAND Tối cao, các TAND địa
phương, các Tòa án quân sự và các TA khác do luật định là những cơ quan xét xử của
nước Cộng hòa XHCN Việt Nam" [20, tr.68].
Trong quá trình xét xử một vụ án hình sự, việc tuyên bố một người là có tội và
phải chịu hình phạt nhất thiết phải thông qua hoạt động xét xử của TA, theo đó “Không
ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của TA đã có hiệu lực pháp luật” chính là
một trong những nguyên tắc cơ bản của BLTTHS” [19, tr.12].
Một người chỉ bị coi là có tội khi người đó đã bị TA xét xử và kết án theo các quy
định của pháp luật bằng một bản án của TA đã có hiệu lực pháp luật. Thông qua bản án kết
tội có hiệu lực pháp luật thì người phạm tội phải chịu một hình phạt tương ứng với hành vi
phạm tội do người đó gây ra. Như vậy, việc áp dụng hình phạt của Toà án đối với người
phạm tội là hậu quả tất yếu do người phạm tội phải gánh chịu từ hành vi phạm tội người đó
thực hiện và cũng là kết quả cuối cùng trong hoạt động xét xử của Toà án.
Việc xét xử hình sự và áp dụng hình phạt đối với người phạm tội của TA phải tuân
thủ nghiêm ngặt các quy định của pháp luật tố tụng hình sự và phải trải qua các giai đoạn
cụ thể như: Chuẩn bị xét xử, nghiên cứu hồ sơ, tổ chức phiên tòa xét hỏi, tổ chức và điều
khiển việc tranh luận, việc nghị án và ban hành bản án. Các giai đoạn của việc xét xử hình
sự, áp dụng hình phạt của TA có mối quan hệ chặt chẽ với công tác THQCT, kiểm sát áp
dụng hình phạt của VKS. Chính vì vậy, công tác THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt của
VKS cũng phải trải qua các giai đoạn ban hành cáo trạng truy tố bị can trước Tòa, xây
dựng bản luận tội bị cáo tại tòa, chuẩn bị nội dung tranh luận và thực hiện việc tranh luận
tại phiên tòa, kháng nghị khi phát hiện bản án có vi phạm trong áp dụng hình phạt…
Trên cơ sở nghiên cứu, chúng ta có thể rút ra khái niệm: áp dụng hình phạt của
TAND là việc thực hiện pháp luật của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân trong quá trình
xác định sự thật khách quan của vụ án hình sự tại phiên toà công khai để ban hành các
bản án nhân danh Nhà nước phán xét một hành vi là tội phạm, phải chịu hình phạt.
* Vai trò áp dụng hình phạt của Tòa án
áp dụng pháp luật trong hoạt động xét xử của TAND nói chung và áp dụng hình
phạt của Tòa án nói riêng có vai trò rất quan trọng trong việc xây dựng và bảo vệ pháp chế
XHCN, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các cá nhân và tổ chức, góp phần to lớn
vào việc xây dựng một Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
áp dụng pháp luật nói chung và áp dụng hình phạt nói riêng trong hoạt động xét xử
của TA là việc thực thi trên thực tế nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN; bảo vệ chế độ
XHCN, quyền tự do, dân chủ của công dân; bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm của con người dưới chế độ XHCN. Do đó, áp dụng pháp luật (áp dụng hình phạt)
trong hoạt động xét xử hình sự của TA có vai trò to lớn trong việc bảo đảm an ninh chính
trị, trật tự an toàn xã hội; gìn giữ "kỷ cương, phép nước" trong các lĩnh vực của đời sống
xã hội. Những hành vi xâm phạm nghiêm trọng đến các quan hệ xã hội XHCN mà pháp
luật bảo vệ đều được xem xét, xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật qua hoạt động
xét xử của TA bằng một bản án kết tội và một hình phạt tương ứng…
Như vậy áp dụng hình phạt của TA có vai trò quan trọng trong việc xử lý người
phạm tội. TA là cơ quan trực tiếp nhân danh Nhà nước xử lý người phạm tội, buộc họ phải
chịu trách nhiệm pháp lý bằng một bản án quy kết tội danh và quyết định hình phạt nhất
định buộc người phạm tội phải chấp hành. Ngoài ra, áp dụng pháp luật (áp dụng hình phạt)
trong hoạt động xét xử hình sự của TA còn có vai trò rất quan trọng trong việc góp phần
phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật; nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân bằng
những vụ việc cụ thể, đặc biệt là thông qua các phiên tòa xét xử công khai.
Phân tích vai trò áp dụng hình phạt của TA như nêu trên đã gián tiếp nói lên vai
trò của VKS trong THQCT, KSXX nói chung cũng như kiểm sát áp dụng hình phạt của
TA nói riêng. Điều đó cũng có nghĩa là chất lượng áp dụng hình phạt của TA có liên quan
đến chất lượng kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS. Nếu chất lượng áp dụng hình phạt
đối với người phạm tội trong xét xử các vụ án hình sự của TAND đang cần được quan tâm,
chấn chỉnh kịp thời, thì chất lượng và trách nhiệm của VKSND trong công tác THQCT,
kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS các cấp cũng cần phải được nâng cao.
1.2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò, chất lượng công tác thực hành quyền công
tố, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của Viện Kiểm Sát
1.2.1. Khái niệm, đặc điểm, vai trò công tác thực hành quyền công tố, kiểm
sát việc áp dụng hình phạt của Viện kiểm sát
Để hiểu rõ về công tác THQCT, kiểm sát việc áp dụng hình phạt của VKS, trước
hết chúng ta cần tìm hiểu về Quyền công tố, THQCT như khái niệm, nội dung, phạm vi và
đối tượng của nó trên cả phương diện lý luận và thực tiễn ở Việt Nam.
* Về Quyền công tố
ở nước ta, Quyền công tố là một chức năng rất quan trọng của Nhà nước được giao
cho VKSND thực hiện. Hiến pháp năm 1980 tại điều 138 quy định: “VKSND … thực
hành quyền công tố, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Luật tổ chức VKSND năm 1981 quy định tại điều 1: “VKSND tối cao… thực hành quyền
công tố bảo đảm cho pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất”.
Trong lý luận cũng như trong thực tiễn chưa có sự hiểu thống nhất và đầy đủ về
khái niệm, nội dung và phạm vi của Quyền công tố. Đã có một số tác giả nghiên cứu vấn đề
này và đưa ra khái niệm về Quyền công tố, song cách hiểu cũng chưa thống nhất và chưa
được cơ quan lập pháp ghi nhận, giải thích.
Nghiên cứu lịch sử lập pháp ở nước ta thấy rằng, trước khi Quốc hội thông qua Hiến
pháp nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà năm 1959 và Luật tổ chức VKSND năm 1960, thì đã
có Viện Công tố. Theo Nghị quyết ngày 29/4/1958 của Quốc hội về việc thành lập Viện Công
tố và hệ thống Viện Công tố, thì Quyền công tố của Viện Công tố là giám sát việc tuân thủ và
chấp hành pháp luật Nhà nước, truy tố theo Luật hình sự kẻ phạm pháp để bảo vệ chế độ, giữ
gìn trật tự an ninh, bảo vệ tài sản của công, bảo vệ quyền và lợi ích của công dân… Về nhiệm
vụ của Viện Công tố được quy định trong Nghị định số 256/TTg ngầy 01/7/1959 của Thủ
tướng Chính phủ là: Điều tra, truy tố trước TA những kẻ phạm pháp về hình sự, giám sát việc
chấp hành pháp luật trong công tác điều tra của Cơ quan điều tra; giám sát việc chấp hành
pháp luật trong công tác xét xử của Toà án; giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác
thi hành án.
Viện Công tố thời kỳ năm 1958 tuy đã xác định được phần nào chức năng của Viện
Công tố là giám sát các hoạt động tư pháp. truy tố kẻ phạm pháp theo pháp luật hình sự.
Nhưng về mặt lập pháp, thuật ngữ Quyền công tố chính thức được ghi nhận từ Hiến pháp năm
1980 (điều 138) và Luật tổ chức VKSND năm 1981. Cho đến nay vẫn chưa có văn bản pháp
luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội chính thức giải thích nội dung của Quyền công tố [13,
tr.13, 14].
Theo Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp
năm 1992, thì chức năng của VKSND đã có sự thay đổi. Điều 137 của Hiến pháp quy định
“VKSND THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp” [20, tr.71]. Trên cơ sở Hiến pháp,
Luật tổ chức VKSND năm 2002 cũng có sự thay đổi về chức năng. Điều 1: “VKSND
THQCT và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” [20,
tr.195].
Nghị quyết 08 của Đảng về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời
gian tới đã nhấn mạnh:
VKS các cấp thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tư pháp. Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay
từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt
tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội [5, tr.2].
Theo chúng tôi, Quyền công tố chỉ thực hiện trong lĩnh vực hình sự như quy định ở
Luật tổ chức VKSND năm 2002 là đúng. Phạm vi của nó trong TTHS bắt đầu từ khi phát
hiện tội phạm, khởi tố vụ án đến truy tố bị can ra Toà và kết thúc bằng một bản án của Toà
án có hiệu lực pháp luật.
Với những lý do phân tích ở trên về Quyền công tố, tác giả đồng nhất với quan
điểm của Tiến sĩ Luật học Lê Thị Tuyết Hoa : Quyền công tố là quyền của VKSND nhân
danh Nhà nước thực hiện trên cơ sở các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật tố tụng
hình sự để tiến hành việc khởi tố vụ án, truy tố và buộc tội người phạm tội trước Toà án;
nhằm góp phần ra được bản án có căn cứ, công minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật, đồng thời bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân cũng như các lợi ích
hợp pháp của Nhà nước, của xã hội.
* Công tác thực hành quyền công tố nói chung và thực hành quyền công tố trong
xét xử các vụ án hình sự nói riêng
Điều 137 Hiến pháp 1992 (sửa đổi) quy định “VKSND Tối cao THQCT và kiểm sát
các hoạt động tư pháp, góp phần đảm bảo cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và
thống nhất. Các VKSND địa phương, các VKS Quân sự THQCT và kiểm sát các hoạt
động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định” [20, tr.71].
Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định “VKSND THQCT trong TTHS,
quyết định việc truy tố người phạm tội ra trước TA”.
Điều 13 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định:
Khi THQCT trong giai đoạn điều tra, VKSND có những nhiệm vụ và
quyền hạn sau đây: 1. Khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can, yêu cầu cơ quan
điều tra khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can;
2. Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu cơ quan điều tra tiến hành điều tra; trực tiếp
tiến hành một số hoạt động điều tra theo quy định của pháp luật; 3. Yêu cầu thủ
trưởng cơ quan điều tra thay đổi điều tra viên theo quy định của pháp luật; nếu
hành vi của điều tra viên có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; 4. Quyết
định áp dụng thay đổi, huỷ bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện
pháp ngăn chặn khác. Phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của cơ quan
điều tra theo quy định của pháp luật; 5. Huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của
cơ quan điều tra; 6. Quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm
đình chỉ điều tra, đình chỉ, hoặc tạm đình chỉ vụ án [20, tr.202].
Điều 16 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định “Trong giai đoạn xét xử các vụ
án hình sự, VKSND có trách nhiệm THQCT, bảo đảm việc truy tố đúng người đúng tội,
đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội; kiểm sát việc xét xử các vụ án
hình sự nhằm đảm bảo việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh, kịp thời” [20, tr.204,
205].
Điều 17 Luật tổ chức VKSND 2002 quy định:
Khi THQCT trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự, VKSND có những
nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Đọc cáo trạng, quyết định của VKSND liên
quan đến việc giải quyết vụ án tại phiên toà; 2. Thực hiện việc luận tội đối với bị
cáo tại phiên toà sơ thẩm. Phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên
toà phúc thẩm; tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng
khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm; 3. Phát biểu quan điểm của VKSND về việc
giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc thẩm [20, tr.205].
Như vậy, có thể hiểu THQCTlà việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý
thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Việc THQCT của VKSND tại phiên toà chỉ là một bộ phận của Quyền công tố nói
chung và hoạt động công tố của VKSND nói riêng. Thực hiện tốt Quyền công tố trong giai
đoạn điều tra có ý nghĩa quan trọng quyết định đến chất lượng THQCT trong giai đoạn xét xử
các vụ án hình sự cũng như chất lượng kiểm sát việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội
trong xét xử. VKSND là cơ quan duy nhất có trách nhiệm, quyền hạn THQCT với yêu cầu
truy tố đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội
Quyền công tố của VKSND giai đoạn xét xử được thực hành trong các phiên toà
sơ thẩm, phúc thẩm. Quyền công tố tại các phiên toà hình sự là việc sử dụng tổng hợp
những quyền năng pháp lý do luật định (thuộc nội dung quyền công tố) để buộc tội bị
cáo một cách công khai và bảo vệ sự buộc tội đó, góp phần cùng TA đảm bảo việc xét
xử, nhằm đảm bảo việc truy tố của VKSND được đúng người đúng tội, không để lọt tội
phạm và người phạm tội.
Việc xác định giới hạn, phạm vi hoạt động THQCT trong giai đoạn xét xử các vụ
án hình sự bắt đầu từ khi nào và đến khi nào kết thúc là vấn đề có ý nghĩa về lý luận và
thực tiễn. Xuất phát từ chức năng, nhiệm vụ của VKSND được quy định trong Luật tổ
chức VKSND năm 2002 và BLTTHS năm 2003 thì khi VKSND hoàn thành bản cáo
trạng, được người có thẩm quyền ký tên, đóng dấu ghi ngày tháng, bản cáo trạng được
tống đạt cho bị can một cách hợp pháp và chuyển hồ sơ sang TA thì khi đó kết thúc giai
đoạn quyết định truy tố của VKSND. Đồng thời chuẩn bị mở ra một giai đoạn mới - giai
đoạn xét xử của TA. ở giai đoạn này, VKSND sẽ thực hiện quyền năng do luật định là
THQCT và kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự. Khi đã có quyết định truy tố thì
trong thời hạn 3 ngày kể từ ngày ra quyết định, VKS phải thực hiện các quyền năng của
mình là kiểm sát việc tuân theo pháp luật của TA, từ việc nhận hồ sơ đến các hoạt động
chuẩn bị xét xử…
Đồng thời với các hoạt động đó thì VKS phải có các hoạt động chuẩn bị cho việc
THQCT tại phiên toà như: Chuẩn bị đề cương thẩm vấn, luận tội, ý kiến phát biểu, dự kiến các
tình huống xét hỏi, tranh luận tại phiên toà, dự kiến mức án đối với bị cáo và các vấn đề liên
quan khác… Như vậy, để THQCT tố tại phiên toà thì VKSND phải có hàng loạt các hoạt
động để chuẩn bị theo đúng các quy định của quy chế KSXX các vụ án hình sự nhằm đảm
bảo sự liên tục cũng như yêu cầu nghiệp vụ trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
- Về nội dung THQCT tại phiên toà hình sự của VKS
Luật tổ chức VKSND 2002 và BL TTHS năm 2003 đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền
hạn cụ thể của VKSND tại các phiên toà sơ thẩm, phúc thẩm. ở mỗi phiên toà khác nhau
thì nhiệm vụ, quyền hạn và nội dung hoạt động THQCT của VKS khác nhau do tính chất
pháp lý của từng loại phiên toà sơ thẩm hoặc phúc thẩm hình sự.
Tại phiên toà sơ thẩm: Theo quy định tại điều 17 Luật tổ chức VKSND 2002, các
điều 206, 207, 217 BLTTHS 2003 thì tại phiên toà hình sự sơ thẩm VKSND có quyền:
1. Đọc cáo trạng, quyết định của VKSND có liên quan đến việc giải quyết vụ án tại
phiên toà. Đây là sự cáo buộc một cách công khai của VKS về hành vi phạm tội của bị
cáo. Hoạt động này là cơ sở để HĐXX bắt đầu tiến hành các hoạt động xét xử tại phiên
toà.
2. Thẩm vấn để làm rõ những vấn đề có liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.
Đây là hoạt động điều tra công khai tại phiên toà của VKS. Hoạt động này nhằm củng cố
những tài liệu chứng cứ, khẳng định quyết định truy tố của VKS là có căn cứ và đúng các
quy định của pháp luật.
3. Thực hiện việc luận tội bị cáo: Đây là hoạt động hết sức quan trọng của VKSND,
là sự thể hiện quan điểm đánh giá của VKSND đối với hành vi phạm tội của bị cáo đã
phạm tội gì, mức hình phạt, hành vi phạm tội đó đã gây ra những tác hại như thế nào về
mặt kinh tế, chính trị xã hội. Đây cũng chính là sự lên án của Nhà nước với những người
đã thực hiện hành vi phạm tội.
4. Tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác: Đây là
việc đưa ra những chứng cứ, lý lẽ, lập luận nhằm bảo vệ quan điểm của VKSND đã được
nêu trong cáo trạng, luận tội. Đồng thời cũng phải có những chứng cứ, lập luận để bác bỏ
những ý kiến khác đưa ra nhằm gỡ tội cho bị cáo. Trên cơ sở đó một lần nữa khẳng định
với HĐXX việc truy tố của VKS đối với các bị cáo là đúng người, đúng tội, đúng pháp
luật.
Tại phiên toà phúc thẩm hình sự:
Việc thẩm vấn bị cáo giống với hoạt động của phiên toà sơ thẩm. Song phần phát
biểu quan điểm của VKS ở phiên toà phúc thẩm khác với phiên toà sơ thẩm ở chỗ: Không
luận tội bị cáo mà phát biểu quan điểm của VKS về việc giải quyết vụ án tại toà bằng bản
kết luận- là sự xác định tính có căn cứ và tính hợp pháp của bản án sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị.
Phần tranh luận với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác là hoạt
động giống với hoạt động tại phiên toà sơ thẩm. Tuy nhiên phạm vi và cách thức tiến hành
có sự khác nhau.
* Kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ án hình sự là một trong
những công tác thực hiện chức năng của VKSND các cấp để thực hiện chức năng, nhiệm
vụ kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Theo quy định tại điều 18 Luật tổ chức VKSND 2002:
Khi thực hiện công tác KSXX các vụ án hình sự, VKSND các cấp có
những nhiệm vụ và quyền hạn: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động xét xử của TAND; Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người
tham gia tố tụng; Kiểm sát các bản án, quyết định của TAND theo quy định của
pháp luật; Yêu cầu TAND cùng cấp và cấp dưới chuyển hồ sơ những vụ án
hình sự để xem xét quyết định việc kháng nghị [20, tr 205, 206].
Điều 19 Luật tổ chức VKSND quy định:
Khi thực hiện quyền công tố, KSXX các vụ án hình sự, VKSND có quyền
kháng nghị theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết
định của TAND theo quy định của pháp luật; kiến nghị với TAND cùng cấp và
cấp dưới khắc phục vi phạm trong việc xét xử; kiến nghị với cơ quan, tổ chức,
đơn vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp
luật; nếu có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố hình sự [20, tr 206].
Như vậy, theo quan điểm của chúng tôi thì: kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS
chính là kết quả của KSXX các vụ án hình sự của VKS và là hoạt động thuộc nội dung của
kiểm sát bản án, là một trong những nhiệm vụ quyền hạn của VKSND khi thực hiện chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự của
TAND nói riêng và trong kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung. Thông qua kiểm sát
bản án của TA, VKSND thực hiện kiểm sát áp dụng hình phạt của TA đối với người phạm
tội trong xét xử các vụ án hình sự, nhằm đảm bảo việc áp dụng pháp luật hình sự được
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đảm bảo chính sách hình sự của Nhà nước được
thực hiện cũng như yêu cầu của pháp chế XHCN trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Thông
qua kiểm sát bản án, VKS các cấp có quyền xem xét quyết định việc kháng nghị theo thẩm
quyền.
Để làm tốt việc kiểm sát bản án mà kết quả cuối cùng là kiểm sát áp dụng hình phạt
của TA đã tuyên đối với người phạm tội thì VKSND phải làm tốt tất cả các nhiệm vụ
quyền hạn được quy định trong suốt quá trình thực hành quyền công tố, KSXX các vụ án
hình sự. Bởi vì bản án là kết quả cuối cùng của hoạt động áp dụng pháp luật trong các giai
đoạn của TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử của TA nói riêng.
1.2.2. Khái niệm, đặc điểm chất lượng Thực hành quyền công tố, kiểm sát áp
dụng hình phạt của Viện kiểm sát
1.2.2.1. Khái niệm
Đối với hoạt động THQCT, KSXX nói chung và kiểm sát áp dụng hình phạt nói
riêng của VKSND trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự thì việc đánh giá chất lượng
của hoạt động này có thể xem xét dưới các góc độ sau:
Chất lượng THQCT, KSXX các vụ án hình sự và kiểm sát áp dụng hình phạt với
người phạm tội của VKSND được thể hiện thông qua số lượng vụ án, bị cáo đã được đưa
ra xét xử, đảm bảo đúng thời hạn tố tụng, bảo đảm đúng người, đúng tội, đúng pháp luật về
điều khoản và mức hình phạt, không có bị cáo VKS đã truy tố, bị TA tuyên không phạm
tội, hạn chế đến mức thấp nhất số vụ án TA hoàn hồ sơ để điều tra bổ sung cũng như án
tồn đọng, án bị hủy để xét xử lại do kháng cáo, VKS không kháng nghị (tức là bảo đảm
không quá chênh lệnh tỷ lệ án đã xét xử so với tổng số án TA đã thụ lý, và hạn chế mức
thấp nhất án hoàn hồ sơ, án bị hủy, án TA tuyên không phạm tội).
Chất lượng THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt của VKS được đánh giá dưới góc
độ phát hiện chính xác để kịp thời kháng nghị phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm đối với
bản án sơ thẩm, phúc thẩm của TA có vi phạm pháp luật về nội dung, và tỷ lệ số kháng
nghị được chấp nhận.
Chất lượng THQCT, kiểm sát áp dụng hình phạt là chỉ tiêu tổng hợp chất lượng của
từng nội dung cụ thể của các giai đoạn tố tụng (gồm: cáo trạng, luận tội, tranh luận, kết
luận xác định tính có căn cứ, hợp pháp của bản án không bị kháng cáo, kháng nghị ), bảo
đảm truy tố, buộc tội đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khách quan, dân chủ, nghiêm
minh, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không để xảy
ra trường hợp TA tuyên không tội; bảo đảm được đường lối, chính sách xử lý hình sự của
Đảng và Nhà nước ta; phát huy tác dụng tuyên truyền, giáo dục pháp luật không những đối
với bị cáo, mà còn cả những người tham gia phiên tòa và đối với xã hội; đồng thời xem xét
cả đến sự đồng tình của dư luận xã hội đối với hình phạt của bản án đã tuyên và hiệu quả
công tác thi hành hình phạt với người phạm tội.