Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Khái quát chung về công tác phân tích tài chính doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (230.32 KB, 30 trang )

Khái quát chung về công tác phân tích tài chính doanh
nghiệp.
1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính của
doanh nghiệp.
1.1.1. Khái niệm về tài chính doanh nghiệp và phân tích tài chính của
doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp được hiểu là những quan hệ giá trị giữa doanh
nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế.
Hoạt động tài chính của doanh nghiệp là một trong những nội dung cơ bản
của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối
quan hệ kinh tế phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình
thái tiền tệ gắm trực tiếp với việc tổ chức huy dộng, phân phối, sử dụng và quản
lý vốn trong quá trình kinh doanh.
Để tiến hành sản xuất kinh doanh nhà doanh nghiệp phải xử lý các quan hệ
tài chính thông qua phương thức giải quyết 3 vấn đề quan trọng sau đây:
- Thứ nhất : Nên đầu tư dài hạn vào đâu và bao nhiêu cho phù hợp với
các loại hình sản xuất kinh doanh lựa chọn. Đây chính là chiến lược đầu tư dài
hạn của doanh nghiệp và là cơ sở để dự toán vốn đầu tư
- Thứ hai: Nguồn vốn đầu tư từ đâu mà nhà doanh nghiệp có thể khai thác
là nguồn nào?
- Thứ ba: Nhà doanh nghiệp sẽ quản lý hoạt động tài chính hàng ngày
như thế nào? Đây là các quyết định tài chính ngắn hạn và chúng liên quan chặt
chẽ đến quản lý tài sản lưu động ngắn hạn của doanh nghiệp.
Ba vấn đề trên không phải tất cả mọi vấn đề về tài chính doanh nghiệp,
nhưng đó là ba vấn đề lớn nhất và quan trọng nhất. Nó liên quan đến dự toán
vốn đầu tư dài hạn, cơ cấu vốn và quản lý vốn lưu động.
Muốn sản xuất và tiêu thụ 1 loại hàng hóa nào đó doanh nghiệp phải mua
sắm các yếu tố vật chất cần thiết như máy móc, thiết bị, dự trữ, đất đai, lao
động…là những yếu tố đầu vào hay nói cách khoác doanh nghiệp cần phải đầu
tư vào các tài sản. Các tài sản của DN được phản ánh bên trái của bảng cân đối
tài khoản kế toán và bao gồm 2 phần: Tài sản lưu động và tài sản cố định. Tuy


nhiên việc DN nên đầu tư vào những tài sản nào? …. Giải đáp câu hỏi này là
vấn đề dự toán vốn đầu tư là quá trình kế hoạch hóa và quản lý vống đầu tư dài
hạn của DN hay quá trình các nhà quản lý tài chính DN phải tìm kiếm cơ hội
đầu tư sao cho thu nhập do việc đầu tư mang lại lớn hơn chi phí đầu tư. Điều đó
có nghĩa là giá trị các dòng tiền tệ do các tài sản đó tạo ra lớn hơn chi phí của
các tài sản đó.
Nhà quản lý không chỉ quan tâm đến nhận được bằng tiền( dòng tiền tệ do
các tài sản tạo ra) mà còn cần quan tâm đến việc khi nào thì nhận được và nhận
được như thế nào? Giải đáp câu hỏi này là vấn đề quy mô, thời hạn và rủi ro của
các dòng tiền trong tương lai. Đây là vấn đề cốt lõi của quá trình dự toán vốn
đầu tư.
Muốn đầu tư vào các tài sản ban đầu, DN cần phải có nguồn tài trợ, nguồn
tài trợ của DN được thể hiện ở phía bên phải của bảng cân đối tài khoản và bao
gồm 2 phần chính: Vốn chủ sở hữu và Nợ. Song, DN có thể tăng quỹ tiền mặt
bằng cách nào để thực hiện chi tiêu cho đầu tư dài hạn? Giải đáp câu hỏi này là
vấn đề cơ cấu vốn của DN, cơ cấu vốn của DN được thể hiện thông qua tỷ trọng
của các nguồn tài trợ. Các nhà quản lý tài chính phải tính toán cân nhắc nên vay
bao nhiêu? Cơ cấu của nợ và vốn tự có như thế nào là bảo đảm? Nguồn vốn nào
là thích hợp cho việc đầu tư của DN?....
Khi đã có các câu trả lời về đầu tư vào đâu, nguồn tài trợ như thế nào, các
nhà quản lý phải trả lời cho câu hỏi là làm sao để quản lý được vốn lưu động?
quản lý bằng cách nào? Như thế nào? Hoạt động tài chính ngắn hạn gắn liền với
các dòng tiền vào ra của DN, nhà quản lý phải xử lý sự chêch lệch giữa các
dòng tiền của DN. Quản lý ngắn hạn các dòng tiền tệ không tách rời với vốn lưu
động ròng. Vốn lưu động ròng được xác định là khoản chêch lệch giữa tài sản
lưu động và nợ ngắn hạn của DN. Quản lý vốn lưu động ròng là giải quyết việc
DN nên giữ bao nhiêu tiền và dự trữ của DN có nên bán chịu không? Nếu bán
chịu hay vay ngắn hạn hay trả tiền mặt? nếu vay ngắn hạn thì DN nên vay ở
đâu? và vay như thế nào?....
1.1.2. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa, yêu cầu của phân tích hoạt động tài

chính DN.
1.1.2.1. Khái niệm.
Phân tích hoạt động tài chính DN là quá trình thu thập sử dụng một tập
hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép xử lý các thông tin kế
toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của 1
DN, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của DN đồng
thời cũng đưa ra những đánh giá về tiềm năng , hiệu quả kinh doanh cũng như
những rủi ro trong tương lai.
1.1.2.2. Mục đích, ý nghĩa.
Trong điều kiện hiện nay, nền kinh tế đang phát triển rất nhanh chóng và
năng động nhất trong nền kinh tế không ai khác chính các doanh nghiệp,vì thế
có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của DN như chủ DN, nhà
cho vay, nhà cung cấp, khách hàng, bảo hiểm,… kể cả các cơ quan nhà nước, cơ
quan thuế và những người lao động. Mỗi đối tượng quan tâm dưới những góc
độ khác nhau chẳng hạn như đối với chủ DN thì mục đích tối ưu của họ la tối đa
hóa lợi nhuận, tìm kiếm khách hàng, nhà tài trợ,… Đối với các ngân hàng và
các nhà cho vay tín dụng thì mối quan tâm chủ yếu của họ lại là khả năng trả
nợ, thanh toán các khoản vay của DN trong điều kiện hiện tại và tương lai. Đối
với các nhà đầu tư vào DN thì mối quan tâm của họ là các yếu tố rủi ro, thời
gian hoàn vốn, mức sinh lãi và khả năng thanh toán vốn,… Nhưng nhìn chung
họ đều quan tâm đến khả năng tạo ra dòng tiền mặt, khả năng sinh lời và khả
năng thanh toán của DN.
Việc phân tích tài chính DN có ý nghĩa rất quan trọng quyết định sự thành
bại của một DN do đó việc phân tích hoạt động tài chính DN không nằm ngoài
các mục tiêu như:
- Cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích, xác thực cho các nhà đầu tư, các
tín chủ và những người sử dụng thông tin khác nhau để giúp họ có các quyết
định đúng đắn khi ra các quyết định trong việc đầu tư, cho vay, sản xuất,….
- Phân tích hoạt động tài chính DN phải cung cấp đầy đủ thông tin cho
việc đánh giá khả năng và tính chắc chắn của các dòng tiền mặt vào, ra và hiệu

quả trong việc sử dụng vốn kinh doanh, tình hình và khả năng thanh toán của
DN.
- Việc phân tích phải cung cấp thông tin về nguồn vốn chủ sở hữu, các
khảo nợ, kết quả của quá trình, sự kiện và các tình huống làm biến đổi nguồn
vốn và các khoản nợ của DN.
Các báo cáo kế toán, báo cáo tài chính là những báo cáo phản ánh một cách
tổng hợp và toàn diện về tình hình tài sản của DN nguồn vốn, dòng tiền vào ra,
kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh thu, chi phí,… của DN trong từng
thời kỳ song những thông tin đó chỉ là những thông tin riêng biệt và chưa thể
hiện được nhiều ý nghĩa cũng như các yêu cầu, nội dung mà những người sử
dụng thông tin quan tâm do đó họ thường dùng các công cụ kỹ thuật cơ bản
cũng như phức tạp để phân tích tình hình tài chính của DN nhằm thuyết minh
các mối quan hệ chủ yếu trong báo cáo tài chính cũng như nghiên cứu tình hình
tài chính hiện tại của DN và từ đó đưa ra những quyết định tài chính trong
tương lai để thực hiện các mục đích của họ.
1.2. Nội dung hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.1. Những việc tiến hành trước khi phân tích.
1.2.1.1. Tài liệu phục vụ cho phân tích tài chính.
Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục
tiêu dự đoán tài chính. Từ khi pháp lệnh kế toán tài chính được ban hành, hệ
thống các báo cáo tài chính đã được thống nhất và là tài liệu cơ sở quan trọng
cho các nhà phân tích tài chính. Ngoài các báo cáo tài chính các nhà tài chính
còn phải khai thác một số số liệu không có trong báo cáo tài chính chẳng hạn
như: tiền lãi phải trả trong kỳ, phân phối lợi nhuận, sản phẩm tiêu thụ… Những
số liệu này giúp cho nhà phân tích có cái nhìn sâu hơn và đưa ra những nhận xét
,kết luận, chính xác hơn.
Hệ thống báo cáo tài chính ở nước ta hiện nay bao gồm
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.

- Bản thuyết minh báo cáo tài chính
• Bảng cân đối kế toán:
Là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp
tại một thời diểm nhất định nào đó dưới hình thức tiền tệ. Đây là một báo cáo tài
chính có ý nghiaxa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có quan hệ sỡ hữu,
quan hệ kinh doanh và quan hệ quản lý đối với DN. Thông thường Bảng cân đối
kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: Một
bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của DN.
Bảng cân đối kế toán là tài liệu quan trọng bậc nhất giúp cho nhà phân tích
nghiên cứu đánh giá một cách khái quát tình hình và kết quả kinh doanh, khả
năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn cũng như
và những triển vọng kinh tế, tài chính của DN.
• Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
Là báo cáo phản ánh kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và phản ánh
tình hình tài chính của DN trong một thời kỳ nhất định. Báo cáo kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết
quả sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và trình độ quản lý sản
xuất kinh doanh của DN phản ánh tóm lược các khoản thu chi, kết quả hoạt
động sản xuất kinh doanh toàn DN, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh theo
từng hoạt động kinh doanh( Sản xuất kinh doanh, đầu tư tài chính, hoạt động bất
thường). Bên cạnh đó nó cũng cho biết tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà
nước của DN trong thời kỳ đó.
Dựa vào báo cáo kết quả kinh doanh, người sử dụng thông tin có thể kiểm
tra, phân tích, đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh của DN trong kỳ, so sánh
với kỳ trước hoặc với các DN khác để nhận biết khái quát hoạt động trong kỳ và
xu hướng vận động.
• Báo cáo lưu chuyển tiền tệ.
Là báo cáo tài chính phản ánh dòng tiền vào ra thực sự trong DN, thể hiện
tình hình trả nợ, đầu tư bằng tiền của DN trong từng thời kỳ.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ cung cấp những thông tin về những luồng vào ra

của tiền và coi như tiền, những khoản đầu tư ngắn hạn có tính lưu động cao, có
thể nhanh chóng và sẵn sàng chuyển đổi thành một khoản tiền biết trước ít chịu
rủi ro lỗ về giá trị do những thay đổi vê lãi suất. Những luồng vào ra của tiền và
những khoản coi như tiền được tổng hợp thành ba nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ
hoạt động kinh doanh, lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, lưu chuyển tiền tệ
từ hoạt động tài chính và lập theo phương pháp trực tiếp, gián tiếp.
Trên cơ sở dong tiền thu nhập quỹ và dòng tiền xuất quỹ, nhà phân tích
thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân
quỹ cuối kỳ, từ đó có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho DN
nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả.
• Thuyết minh báo cáo tài chính.
Là báo cáo nhằm cung cấp các thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh
chưa có trong hệ thống các báo cáo tài chính, đồng thời giải thích một số chỉ
tiêu mà trong các báo cáo tài chính chưa được trình bày, giải thích thêm một
cách cụ thẻ, rõ ràng.
Các báo cáo tài chính trong DN có mối quan hệ mật thiết với nhau, mỗi sự
thay đổi của một chỉ tiêu trong báo cáo này trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởng
đến các báo cáo kia. Để phân tích tình hình tài chính của một DN, các nhà phân
tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được
và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích
của họ. Tất nhiên, muốn được như vậy, các nhà phân tích cần phải tìm hiểu
thêm nội dung chi tiết các khoản mục của báo cáo tài chính.
1.2.1.2. Các bước tiến hành phân tích tài chính DN.
Phân tích tài chính có thể được ứng dụng theo nhiều chiều hướng khác
nhau: Với mục tiêu tác nghiệp khác nhau, với mục đích nghiên cứu , thông tin
hoặc theo vị trí của nhà phân tích tuy nhiên trình tự phân tích và dự đoán tài
chính đều phải tuân theo các nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn
dự đoán.
- Giai đoạn dự đoán: là giai đoạn mà ở đó các nhà phân tích chuẩn bị và
xử lý các nguồn thông tin, thông tin bao gồm thông tin kế toán nội bộ và thông

tin bên ngoài. Nghiệp vụ phân tích trong giai đoạn này là xử lý các thông tin kế
toán, tính toán các chỉ số và tập hợp các biểu mẫu.
- Giai đoạn xác định biểu hiện đặc trưng: là giai đoạn xác định các điểm
mạnh, yếu của DN. Nhiệm vụ chủ yêu trong giai đoạn này là giải thích và đánh
giá các chỉ số và bảng biểu, các kết quả về cân bằng tài chính, năng lực hoạt
động tài chính, cơ cấu vốn và chi phí vốn, cơ cấu đầu tư và doanh lợi.
- Giai đoạn phân tích thuyết minh: là giai đoạn xác định các nguyên nhân
khó khăn, thuận lợi, các nguyên nhân thành công,…nhiệm vụ phân tích trong
giai đoạn này là tổng hợp đánh giá, quan sát
- Giai đoạn tiên lượng và chỉ dẫn: là giai đoạn xác định cũng như dự đoán
về tình hình tương lai của DN. Nghiệp vụ phân tích trong giai đoạn này là xác
định rõ hướng phát triển, nêu ra các giải pháp tài chính hoặc các giải pháp khác.
1.2.1.3. Phương pháp phân tích.
Để tiến hành phân tích hoạt động kinh doanh hay các hoạt động tài chính
của DN người ta không chỉ dùng một phương pháp riêng lẻ nào mà sử dụng
tổng hợp các phương pháp phân tích với nhau nhằm đánh giá tình hình hoạt
động cũng như tình hình tài chính của DN một cách chính xác và nhanh nhất.
Phương pháp phân tích hoạt động tài chính DN là hệt thống các phương
pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, quan hệ, các luồng
dịch chuyển và biến đổi tài chính trong hoạt động của DN, song phương phaps
chủ yếu là phương pháp so sánh và phương pháp tỷ lệ.
• Phương pháp tỷ lệ.
Phương pháp truyền thống được áp dụng phổ biến trong phân tích tài chính
là phương pháp tỷ số. Phương pháp tỷ số là phương pháp trong đó các tỷ số tài
chính được sử dụng để phân tích. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu
này so với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp có tính hiện thực cao với các điều
kiện áp dụng ngày càng được bổ xung hoàn thiện. Bởi lẽ, thứ nhất: Nguồn thông
tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ hơn. Đó là cơ sở
để hình thành những tham chiếu tin cậy cho việc đánh giá một tỷ số của một
doanh nghiệp hay một nhóm doanh nghiệp, thứ hai: Việc áp dụng công nghệ tin

học cho phép phân tích khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một
cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai
đoạn.
Về nguyên tắc, với phương pháp tỷ số, cần xác định được các ngưỡng, các
tỷ số tham chiếu. Để đánh giá tình trạng tafichisnh của một doanh nghiệp cần so
sánh các tỷ số của doanh nghiệp với các tỷ số tham chiếu. Như vậy, phương
pháp so sánh luôn được sử dụng kết hợp với các phương pháp phân tích tài
chính khác. Khi phân tích, nhà phân tích thường so sánh theo thời gian( so sánh
kỳ này với kỳ trước) để nhận biết xu hướng thay đổi tình hình tài chính doanh
nghiệp, theo xu hướng không gian( so sánh với mức trung bình của ngành) để
đánh giá vị thế của doanh nghiệp trong ngành.
• Phương pháp so sánh.
Để áp dụng phương pháp này cần phải đảm bảo các điều kiện có thể so
sánh được các chỉ tiêu (phải thống nhất về nội dung, phương pháp, thời gian và
đơn vị tính toán của các chỉ tiêu so sánh) và theo mục đích phân tích mà xác
định gốc so sánh. Gốc so sánh có thể chọn là gốc về mặt thời gian hoặc không
gian. Kỳ( điểm) được chọn để phân tích gọi là kỳ phân tích( điểm phân tích).
Các trị số của chỉ tiêu tính ra ở từng kỳ tương ứng gọi là trị số tiêu kỳ gốc, kỳ
phân tích. Và để phục vụ mục đích phân tích người ta có thể so sánh bằng cách:
so snahs bằng số tuyệt đối, so sánh bằng số tương đối, so sánh bằng số bình
quân.
Phương pháp so sánh sử dụng trong phân tích tài chính DN là:
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ
xu hướng thay đổi về tài chính của DN, thấy được sự cải thiện hay kém đi để có
biện pháp khắc phục trong kỳ tới.
So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy mức độ phấn đấu của DN.
- So sánh giữa số thực hiện kỳ này với trung bình ngành để thấy được
tình hình tài chính của DN đang ở tình trạng tốt hay xấu, được hay chưa được so
với các DN cùng ngành.
- So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng

hợp ở mỗi bản báo cáo. So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến đổi về
cả số tương đối lẫn số tuyệt đối của một khoản mục nào đó qua niên độ kế toán
liên tiếp.
Bên cạnh đó, các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích tài
chính DUPONT. Với phương pháp này, các nhà phân tích sẽ nhận biết được các
nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp.
Bản chất của phương pháp này là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi
của doanh nghiệp như thu nhập trên tài sản( ROA), thu nhập sau thuế trên vốn
chủ sở hữu (ROE) thành tích số của chuỗi các tỷ số có mối quan hệ nhân quả
với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó đối với tỷ số
tổng hợp.
1.2.1.4. Yêu cầu của phân tích tài chính doanh nghiệp.
• Dự báo doanh thu.
Doanh thu bán hàng là khởi đầu của hầu hết các dự báo tài chính. Có nhiều
biến số khác nhau được dự kiến thể hiện trong mối liên hệ với mức doanh thu
bán hàng ước tính. Do đó, tính chính xác của dự báo tổng thể phụ thuộc rất lớn
vào sự chính xác của mức doanh số bán ước tính.
Trong hoạch định có khá nhiều phương pháp dự báo đã được tạo ra, sử
dụng những kỹ năng khá tinh vi hoặc đánh giá theo trực giác của người làm dự
báo. Tất cả những phương pháp này đều có những điểm mạnh và điểm yếu
riêng và chúng thường xuyên có những khác biệt lớn về cả chi phí và cách thức
tiến hành.
- Phương pháp dự báo bình quân di động: Khi muốn dự báo doanh số của
kỳ tiếp theo chúng ta có thể sử dụng số liệu của các kỳ quá khứ gần nhất để lập
dự báo. Để tăng tính khách quan và loại bỏ những số liệu không cần thiết, số
liệu xa thời điểm báo cáo. Cứ sau mỗi kỳ chúng ta lại thêm vào tiếp sau một số
liệu của kỳ tiếp theo và loại bỏ một số liệu của kỳ quá khứ.
- Phương pháp dự báo san bằng số mũ giản đơn: Trong phương pháp nà
dự báo bình quân di động không có trọng số ứng với mỗi điểm dữ liệu. Do đó
để tăng chính xác, chúng ta có thể sử dụng trọng số trong tính toán với nguyên

tắc là chọn giá trị trọng số càng gần thời điểm dự báo thì giá trị trọng số càng
lớn và ngược lại.
- Phương pháp Brown: Phương pháp này sử dụng phương pháp san bằng
số mũ với sự thừa nhận khuynh hướng đi lên của dữ liệu.
- Phương pháp Holt: Phương pháp này được áp dụng cho cả xác lập dữ
liệu và độ nghieepng của khuynh hướng.
Tất cả các phương pháp trên đều dựa trên cơ sở toán học, có thể được tính
toán nhanh chóng và dễ dàng bằng phần mềm tin học Microsoft Excell.
• Dự đoán nhu cầu ngân quỹ.
Dự đoán nhu cầu ngân quỹ là một bộ phận của tài chính ngắn hạn. tài chính
ngắn hạn là những vấn đề tài chính phát sinh hàng ngày, hàng tuần, hàng tháng
và nói chung là những vấn đề tài chính phát sinh trong vòng 1 năm. Do đó phân
tích tài chính là cơ sở để đưa ra cách thức làm thể nào để bố trí được một lưu
lượng vốn lưu động hợp lý lại vừa đáp ứng được nhu cầu của việc sản xuất kinh
doanh mà vẫn đảm bảo được việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm và có hiệu
quả.
Dự kiến tiền mặt: Phải đảm bảo và dự toán được các nguồn và việc sử dụng
các nguồn tiền mặt. Việc dự đoán này nhằm mục đích là dự đoán về nhu cầu
tiền mặt trong tương lai và đưa ra khả năng về tiền sẽ thu được để đáp ứng các
nhu cầu trên.
Có nhiều cách khác nhau để dự kiến tiền mặt. Trong các công ty lớn thường
sử dụng các chương trình máy tính để dự toán. Trong các công ty vừa và nhỏ
thường dự kiến tiền mặt theo cách lập bẳng dự kiến thu chi tiền mặt trong từng
quý, từng tháng và từng năm.
Bảng 1.1. Bảng dự kiến tiền mặt trong DN
Chỉ tiêu Quý I Quý II Quý III Quý IV
I. Các nguồn tiền mặt
1. Nguồn tiền thu từ bán hàng
2. Từ các nguồn khác
Tổng các nguồn

II. Sử dụng tiền mặt
1. Thanh toán các khoản phải trả
2. Tiền lương và chi khác
3. Chi đầu tư cơ bản
4. Thuế, lợi tức và trả lãi cổ phần
Tổng số sử dụng tiền mặt.
III. Các nguồn trừ đi sử dụng nguồn
1. Tiền mặt ở đầu quý.
2. Sự thay đổi về cân đối tiền mặt.
(Nguồn trừ đi sử dụng nguồn)
3. Tiền mặt cuối quý
IV. Lượng tiền hoạt động tối ưu
V. Nhu cầu tài trợ ngắn hạn cộng dồn
Dựa vào bảng tính toán trên nhà phân tích có thể đưa ra các quyết định tài
chính như vay ngân hàng theo mức tín dụng thế nào thì phù hợp, trì hoãn các
khoản trả tiền…. để phù hợp với các quyết định cân đối ngân quỹ.
• Dự báo tình tình hình tài chính.
Dự báo tình hình tài chính là một yêu cầu cần thiết trong việc lập kế hoạch
tài chính ngắn hạn và có hiệu quả. Thay cho việc phán quyết, các dự báo dựa
vào các nguồn dữ liệu và các phương pháp dự báo khác nhau nhưng nhìn chung
thì các dự báo vẫn sử dụng các mô hình kinh tế lượng là chính, các tính toán qua
lại của các biến số kinh tế. Trong các trường hợp khác, nhà dự báo tài chính có
thể sử dụng các phương pháp thống kê trong việc phân tích các chuỗi thời gian.
Nội dung dự kiến bao gồm:
- Phân tích các lựa chọn về tài trợ và đầu tư của DN.
- Dự tính các hiệu ứng tương lai của các quyết định trong hiện tại.

×