Tải bản đầy đủ (.docx) (31 trang)

HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.64 KB, 31 trang )

HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Khái niệm về Ngân hàng thương mại
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là một trung gian tài chính, sẽ huy động vốn nhàn rỗi trong xã
hội và dùng chính số tiền cho các cá nhân và tổ chức vay lại và rất hiếm khi có
tình trạng cùng một một lúc tất cả các chủ tiền gửi đến đòi nợ ngân hàng, đó
chính là nguyên tắc cơ bản đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng Thương mại là tổ chức tín dụng thể hiện nhiệm vụ cơ bản nhất
của ngân hàng đó là huy động vốn và cho vay vốn. NHTM là cầu nối giữa các
cá nhân và tổ chức. Hoạt động của NHTM nhằm mục đích kinh doanh một hàng
hoá đặc biệt đó là “vốn - tiền”, trả lãi huy động vốn thấp hơn lãi suất cho vay
vốn, phần chênh lệch lãi suất đó chính là lợi nhuận của NHTM. Hoạt động của
NHTM phục vụ cho mọi nhu cầu về vốn của mọi tầng lớp dân chúng, loại hình
doanh nghiệp và các tổ chức khác trong xã hội.
Ngân hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực
tiền tệ, là một trung gian tài chính đi vay để cho vay. Qua định nghĩa đơn giản
trên, NHTM đã thể hiện như là một doanh nghiệp thực sự song đó là loại hình
Doanh nghiệp dịch vụ tài chính.
Theo luật Mỹ : Ngân hàng thương mại là các tổ chức tài chính cung cấp
một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm
và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ
một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Tại Việt nam, Theo điều 20 Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm 2004:
“Hoạt động ngân hàng là hoạt đông kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với
nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cung cấp tín
dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
“Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt
động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan như nhận tiền
gửi, sử dụng tiền gửi để cung cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”
“Theo tính chất và mục tiêu hoạt động, các loại hình ngân hàng gồm
Ngân hàng thương mại, Ngân hàng phát triển, Ngân hàng đầu tư, Ngân hàng


chính sách, Ngân hàng hợp tác và các loại hình ngân hàng khác”
Như vậy có rất nhiều khái niệm khác nhau về NHTM nhưng tất cả các
khái niệm đều dựa trên hoạt động và dịch vụ cung cấp của ngân hàng cho khách
hàng.
Sự đa dạng trong các dịch vụ và chức năng của ngân hàng dẫn đến việc
chúng được gọi là các “Bách hoá tài chính”.
Vậy đặc điểm của ngân hàng thương mại là gi? có gì khác so với một
doanh nghiệp kinh doanh khác? Đặc trưng quan trọng nhất của NHTM là trung
gian tài chính, sản phẩm là dịch vụ tài chính nên có tính chất dễ thay đổi, dễ bị
bắt chước, không có bản quyền.
- Nguồn vốn của NHTM có tính thanh khoản cao (do chủ yếu là tiền gửi )
nên hoạt động của NHTM chủ yếu là thị trường tiền tệ.
- Ngân hàng luôn chịu sự kiểm soát chặt chẽ của pháp luật vì nghiệp vụ
ngân hàng luôn tiềm ẩn nhiều rủi ro. Để tiến hành hoạt động kinh doanh tiền tệ,
điều trước tiên là bản thân nhà kinh doanh phải có vốn lớn trong kinh doanh.
Vốn của NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường
nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài. Ngân hàng là nơi
tích trữ tiết kiệm hàng đầu của công chúng - đặc biệt là tiết kiệm của cá nhân và
hộ gia đình. Việc thất thoát các khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng phá
sản sẽ trở thành thảm hoạ cho rất nhiều cá nhân và gia đình. Nhưng hầu hết
người gửi tiết kiệm lại thiếu kiến thức chuyên môn về tài chính và thiếu thông
tin cần thiết để đánh giá chính xác. Vì vậy, các cơ quan quản lý phải có trách
nhiệm tập hợp và đánh giá những thông tin cần thiết để xác định tình hình tài
chính thực sự của ngân hàng nhằm bảo vệ người gửi tiền.
- Các NHTM đòi hỏi phải có tính chuyên môn hoá, chuyên nghiệp hoá
cao, tính tập trung hoá trong hoạt động.
- Các NHTM phải có hệ thống chi nhánh rộng khắp, cơ sở vật chất kỹ
thuật cao, đầu tư lớn.
- Đội ngũ nhân sự phải chuyên nghiệp, thân thiện với khách hàng. Các
nhà quản lý phải có năng lực cao trong việc xử lý nhanh chóng các vấn đề có

khả năng xảy ra trước khi nó gây nên ảnh hưởng tiêu cực đến với ngân hàng.
- Kinh doanh (KD) trong lĩnh vực tiền tệ là lĩnh vực KD rất nhạy cảm,
chịu tác động bởi rất nhiều nhân tố về kinh tế, chính trị, xã hội, tâm lý, truyền
thống văn hoá… mỗi một nhân tố này có sự thay đổi dù là nhỏ nhất cũng đều
tác động rất nhanh chóng và mạnh mẽ đến môi trường KD chung. Chẳng hạn:
Chỉ cần một tin đồn thổi dù là thất thiệt cũng có thể gây nên cơn chấn động rất
lớn, thậm chí đe dọa sự tồn vong của cả hệ thống các tổ chức tín dụng. Một
NHTM hoạt động yếu kém, khả năng thanh khoản thấp cũng có thể trở thành
gánh nặng cho nhiều tổ chức kinh tế và dân chúng trên địa bàn…
- Do hoạt động của các NHTM có liên quan đến tất cả các chủ thể, đến
mọi mặt hoạt động kinh tế - xã hội, cho nên, để tránh sự hoạt động của các
NHTM mạo hiểm nguy cơ đổ vỡ hệ thống, tất cả Ngân hàng Trung ương
(NHTW) các nước đều có sự giám sát chặt chẽ thị trường này và đưa ra hệ
thống cảnh báo sớm để phòng ngừa rủi ro. Thực tiễn đã chỉ ra những bài học đắt
giá, khi mà NHTW thờ ơ trước những diễn biến bất lợi của thị trường đã dẫn
đến hậu quả là sự đổ vỡ của thị trường tài chính - tiền tệ làm suy sụp toàn bộ
nền kinh tế quốc dân.
1.1.2.Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính cho công chúng và các tổ chức
trong nền kinh tế, nhưng các Tổ chức tài chính phi Ngân hàng như Công ty
chứng khoán, Công ty Bảo hiểm cũng đều đang cố gắng cung cấp các dịch vụ
của ngân hàng. Ngược lại, Ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh tranh
bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng cả về lĩnh vực bất động
sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ
tương hỗ và thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Dưới đây là một số hoạt động cơ
bản của NHTM.
• Hoạt động Huy động vốn.
Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ, vốn là nguyên liệu đầu vào
cho hoạt động của ngân hàng, trong khi vốn chủ sở hữu của NHTM thì chiếm tỷ
trọng nhỏ, vì vậy ngân hàng phải huy động vốn từ các nguồn trong nền kinh tế:

* Nhận tiền gửi:
Một trong những nguồn quan trọng đó là các khoản tiền gửi, nó luôn
chiếm tỷ trọng lớn trong tổng vốn huy động của ngân hàng. Các Ngân hàng phải
trả lãi cho tiền gửi như phần thưởng cho khách hàng về việc khách hàng hi sinh
nhu cầu chi tiêu trứơc mắt để ngân hàng tạm thời sử dụng vốn trong một thời
gian nhất định cho việc kinh doanh. Ngoài ra để thu hút được nhiều vốn cho
kinh doanh ngân hàng cạnh tranh lãi suất đồng thời có các hình thức khuyến
mại vật chất khác như : Quà tặng, phiếu bốc thăm trúng thưởng…
* Ngoài nhận tiền gửi là nguồn vốn chính thì ngân hàng còn huy động
vốn bằng cách đi vay các tổ chức tín dụng, vay NHTW, phát hành trái phiếu, kỳ
phiếu…
• Hoạt động Sử dụng vốn .
* Ngân quỹ
Ngân quỹ là tài sản có tính thanh khoản cao nhất - bao gồm : Tiền mặt
trong két, tiền gửi tại các ngân hàng khác - để duy trì khả năng chi trả và các
yêu cầu khác trong NHTM. NHTM phải dự trữ bắt buộc tại NHTW theo một tỷ
lệ dự trữ bắt buộc cụ thể. Các Ngân hàng thường duy trì ngân quỹ ở mức thấp
nhất để đảm bảo tính thanh khoản vì tính sinh lời của nó là thấp nhất.
Các Ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp
và nhiều cá nhân. Nhờ đó ngân hàng có nhiều mối liên hệ chặt chẽ với nhiều
khách hàng. Từ kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu
ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ ngân quỹ, trong đó
ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến
hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín
dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Trong khi các ngân hàng có xu hướng chuyên môn hoá vào dịch vụ quản
lý tiền mặt cho các tổ chức, hiện nay có một xu hướng đang gia tăng về việc
cung cấp dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Sở dĩ có khuynh hướng này là
vì các công ty môi giới chứng khoán, các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho
người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan.

* Cho vay
Tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng tài sản, là cơ sở để tạo ra thu
nhập, quyết định đến sự phát triển của ngân hàng.
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ cho vay
chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng có nhu
cầu về vốn trong sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, ngân hàng còn thực hiện cho
vay đối với những cá nhân có nhu cầu tiêu dùng, hướng tới họ như một khách
hàng tiềm năng. Giờ đây tín dụng tiêu dùng là một trong những loại hình tín
dụng đem lại thu nhập khá cao và cũng là lĩnh vực mà các ngân hàng quan tâm
khai thác mở rộng.
* Đầu tư.
Đầu tư là hoạt động trong đó ngân hàng đem nguồn vốn của mình trực
tiếp tham gia vào kinh doanh một lĩnh vực nào đó. Các hình thức đầu tư của
ngân hàng như kinh doanh chứng khoán, góp vốn liên doanh…Ở Việt nam, các
ngân hàng chủ yếu tham gia đầu tư ở mức độ đơn giản, chủ yếu là tham gia vào
kinh doanh chứng khoán vì có khả năng quay vòng vốn nhanh hơn cả so với các
hình thức đầu tư khác. Ưu điểm của nghiệp vụ này là ngân hàng trực tiếp tham
gia kinh doanh, nắm bắt nhanh chóng , chính xác các thông tin để kịp thời có
các biện pháp khi thấy dấu hiệu không tốt, giúp giảm rủi ro cho nguồn vốn. Tuy
nhiên để thực hiện được nghiệp vụ này thì đòi hỏi ngân hàng phải có vốn lớn,
ổn định trong lâu dài.
• Cung cấp các dịch vụ.
Các ngân hàng xu hướng ngày càng mở rộng cung cấp các dịch vụ cho
khách hàng nhằm tăng thu nhập và chiếm thị phần, giúp đẩy nhanh chu chuyển
vốn, tiết kiệm thời gian, của cải cho xã hội…
* Dịch vụ bảo lãnh
Dịch vụ bảo lãnh đang ngày càng phát triển trong các ngân hàng do tính
tiện lợi cho cả ngân hàng và khách hàng. Do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của
các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín sẽ bảo lãnh cho khách hàng của mình

trong việc mua chịu hàng hoá, trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn
của các tổ chức tín dụng khác,…
* Dịch vụ cho thuê két
Ngân hàng thực hiện lưu giữ hộ những tài sản tài chính, bảo quản vàng và
các giấy tờ có giá, các tài sản và các giấy tờ có giá khác cho khách hàng trong
két với nguyên tắc bí mật, an toàn và thuận lợi.
* Dịch vụ uỷ thác
Ngân hàng có rất nhiều chuyên gia trong lĩnh vực tài chính, vì vậy nhiều
cá nhân, doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động
tài chính hộ. Dịch vụ uỷ thác đã phát triển sang cả uỷ thác cho vay hộ, uỷ thác
phát hành, uỷ thác đầu tư…
* Dịch vụ bảo hiểm
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều
đó đảm bảo việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết hay bị tàn phế.
Hiện nay, ngân hàng thường bảo hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh
hoặc các thoả thuận đại lý kinh doanh độc quyền tại một công ty bảo hiểm, qua
đó ngân hàng sẽ nhận một phần thu nhập từ dịch vụ này.
* Dịch vụ môi giới, đầu tư chứng khoán.
Trên thị trường tài chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở
thành một “Bách hoá tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép thoả mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là lý do các ngân hàng cung
cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác.
Hiện nay có rất nhiều ngân hàng có công ty chứng khoán riêng, hoạt động bài
bản với quy mô lớn.
* Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán
Tài khoản tiền gửi giao dịch là tài khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền
viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản
này được xem là một trong những bước đi quan trọng trong công nghiệp ngân
hàng vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán - mở đầu cho
thanh toán không dùng tiền mặt, tạo sự nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi

phí, rút ngắn thời gian kinh doanh, nâng cao thu nhập cho khách hàng. Khi ngân
hàng mở rộng phạm vi thanh toán, tiện ích tạo ra cho khách hàng ngày càng
nhiều khuyến khích khách hàng gửi tiền ngày càng nhiều nhờ thanh toán hộ. Có
nhiều hình thức thanh toán được ngân hàng đưa ra như séc, nhờ thu, nhờ chi, …
* Dịch vụ thông tin tư vấn
Xuất phát từ đặc điểm kinh doanh riêng có của hệ thống ngân hàng đã tạo
cho nó lợi thế hơn hẳn trong việc cung cấp cho khách hàng những lời khuyên tốt
nhất về đầu tư, quản lý tài chính, thành lập, mua bán, sát nhập doanh nghiệp,
qua đó giúp khách hàng giảm thiệt hại và nâng cao thu nhập cho khách hàng.
Thực hiện nghiệp vụ này, ngân hàng không những thu được phí mà còn mở
rộng quan hệ, nắm bắt chính xác tình hình kinh doanh của họ, từ đó đưa ra
quyết định cho vay, ngoài ra còn củng cố, tăng cường vị trí, uy tín của ngân
hàng một cách hiệu quả nhất.
1.2. Hiệu quả huy động vốn của Ngân hàng Thương mại
1.2.1. Vai trò của vốn đối với hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi nước, nguồn vốn huy động luôn có ý
nghĩa quan trọng, giữ vai trò quyết định đến sự phát triển lâu dài và vững chắc,
bởi vì sự chi viện, bổ sung từ bên ngoài dù là viện trợ cho vay hay đầu tư nước
ngoài cũng chỉ là tạm thời. Những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ của các
nước trong khu vực và trên thế giới thời gian qua đã minh chứng rằng không thể
và không nên hoàn toàn mong đợi sự tăng trưởng, phát triển nhanh và vững
chắc nhờ vào nguồn vốn bên ngoài mà phải tích cực mở rộng công tác huy động
vốn từ nội bộ nền kinh tế.
Kinh nghiệm của các nước phát triển cho thấy, để ổn định tiền tệ và đặc
biệt trong điều kiện hiện nay ở nước ta, nhiệm vụ kiềm chế lạm phát đang là yêu
cầu bức thiết, Nhà nước phải sử dụng đồng bộ các giải pháp về kinh tế, tài chính
- tiền tệ, trong đó, tăng cường huy động vốn trong dân qua hệ thống NHTM là
giải pháp khá hữu hiệu. Thực tế cho thấy một nền kinh tế phát triển ổn định và
bền vững khi nguồn tiền để đầu tư chủ yếu phải là từ tiết kiệm của dân chúng,
tiết kiệm của nền kinh tế.

1.2.1.1. Vốn là cơ sở để ngân hàng tổ chức mọi hoạt động kinh doanh.
Vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức và
hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên.
Một ngân hàng mới luôn cần vốn ban đầu để mua đất, xây dựng cơ sở hạ tầng,
trang bị những điều kiện làm việc, thuê nhân viên. Đặc trưng của hoạt động
ngân hàng, vốn không chỉ là phương tiện hoạt động kinh doanh chính mà còn là
đối tượng kinh doanh chủ yếu của ngân hàng thương mại. Ngân hàng là tổ chức
kinh doanh loại hàng hoá đặc biệt trên thị trường tiền tệ (thị trường vốn ngắn
hạn) và thị trường chứng khoán (thị trường vốn dài hạn). Những ngân hàng
trường vốn là những ngân hàng có thế mạnh trong kinh doanh. Chính vì thế, có
thể nói: Vốn là điểm đầu tiên trong chu kỳ kinh doanh của ngân hàng. Do đó,
ngoài vốn ban đầu cần thiết thì ngân hàng phải thường xuyên chăm lo tới việc
tăng trưởng vốn trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh của mình.
1.2.1.2. Vốn quyết định quy mô hoạt động tín dụng và các hoạt động
khác của ngân hàng.
Vốn của ngân hàng quyết định tới việc mở rộng hay thu hẹp khối lượng
tín dụng. Thông thường, nếu so với các ngân hàng lớn thì các ngân hàng nhỏ có
các khoản mục đầu tư và cho vay kém đa dạng, phạm vi và khối lượng cho vay
của các ngân hàng cũng nhỏ hơn. Trong khi các ngân hàng lớn cho vay được thì
tại thị trường trong vùng, thậm chí trong nước và cả quốc tế, các ngân hàng nhỏ
lại bị giới hạn trong phạm vi hẹp, mà chủ yếu là trong cộng đồng. Thêm vào đó,
do khả năng vốn hạn hẹp nên các ngân hàng nhỏ không có phản ứng nhạy bén
được với sự biến động của lãi suất trên thị trường, gây ảnh hưởng đến khả năng
thu hút vốn đầu tư từ các tầng lớp dân cư và các thành phần kinh tế. Vốn tạo
niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo với các chủ nợ về sức mạnh tài chính
của ngân hàng và đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp
ứng các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp
khó khăn.
1.2.1.3. Vốn quyết định năng lực thanh toán, năng lực cạnh tranh và
đảm bảo uy tín của ngân hàng trên thương trường.

Thật vậy, để tồn tại và ngày càng mở rộng quy mô hoạt động trong nền
kinh tế thị trường, đòi hỏi các ngân hàng phải có uy tín. Uy tín đó phải được thể
hiện trước hết ở khả năng sẵn sàng thanh toán chi trả cho khách hàng của ngân
hàng. Khả năng thanh toán của ngân hàng càng cao thì vốn khả dụng của ngân
hàng càng lớn. Vì vậy, loại trừ các nhân tố khác, khả năng thanh toán của ngân
hàng tỷ lệ thuận với vốn của ngân hàng nói chung và với số vốn khả dụng của
ngân hàng nói riêng. Với tiềm năng vốn lớn, ngân hàng có thể hoạt động kinh
doanh với qui mô ngày càng mở rộng, tiến hành các hoạt động cạnh tranh có
hiệu quả nhằm vừa giữ được chữ tín, vừa nâng cao thanh thế của ngân hàng trên
thương trường.
Vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển các hình
thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Khi một ngân
hàng phát triển nó cần vốn bổ sung để thúc đẩy tăng trưởng và chấp nhận rủi ro
gắn với sự ra đời các dịch vụ mới. Bổ sung vốn sẽ cho phép ngân hàng mở rộng
trụ sở, xây dựng thêm những văn phòng chi nhánh để theo kịp sự phát triển của
thị trường và tăng cường chất lượng phục vụ khách hàng.Vốn được xem như
một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của
một ngân hàng có thể được duy trì, ổn định và lâu dài.
1.2.2. Vốn huy động trong Ngân hàng Thương Mại.
Thực tế các năm qua cho thấy, hệ thống ngân hàng thương mại vẫn là
kênh huy động vốn chủ yếu cho đầu tư phát triển. Để có vốn cho vay, các
NHTM đã huy động vốn trong xã hội, vốn trong dân, vốn nước ngoài. Hệ thống
ngân hàng huy động vốn cho đầu tư phát triển bằng đa dạng các phương thức,
như: giải tỏa vốn đọng trong số nợ xấu, phát hành cổ phiếu và trái phiếu tăng
vốn điều lệ, thu hút tiền gửi tiết kiệm và phát triển dịch vụ ngân hàng.
1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu
Vốn chủ sở hữu cung cấp năng lực tài chính cho quá trình tăng trưởng,
mở rộng quy mô, phạm vi hoạt động cũng như cho sự phát triển của các sản
phẩm dịch vụ mới của NHTM. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng thương mại có
các thành phần sau:

- Vốn góp là nguồn được đóng góp chủ yếu bởi những người chủ ngân hàng
dưới hình thức mua cổ phiếu:
Cổ phiếu thường: được đo bằng mệnh giá của tổng số cổ phiếu thường
hiện hành. Loại cổ phiếu này đem lại cho người sở hữu một khoản thu nhập
thay đổi phụ thuộc vào quyết định của Hội đồng quản trị về mức chi trả cổ tức.
Cổ phiếu ưu đãi: có giá trị được xác định bằng mệnh giá của tổng số cổ
phiếu ưu đãi hiện hành. Cổ phiếu này có thể là vĩnh viễn hoặc chỉ tồn tại trong
một thời gian nhất định và nó đảm bảo thanh toán một tỷ lệ thu nhập cố định.
Vốn góp = Tổng Số cổ phần phát hành * Mệnh giá Cổ phiếu
- Thặng dư vốn: thể hiện thị giá của các cổ phiếu vượt quá mệnh giá mà các cổ
đông trả cho ngân hàng.
- Lợi nhuận tích luỹ: là phần thu nhập của ngân hàng được giữ lại trong quá trình kinh
doanh thay vì dùng để chi trả cổ tức. Phần này về bản chất thuộc sở hữu của các cổ
đông, song được “vốn hoá” nhằm mở rộng quy mô của vốn chủ sở hữu.
*Đặc điểm của vốn chủ
-Vốn chủ là nguồn vốn ổn định và luôn tăng trưởng trong quá trình hoạt
động của ngân hàng.
- Vốn chủ của ngân hàng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn kinh
doanh (thông thường từ 8% đến 10%), tuy nhiên nó lại giữ một vai trò rất quan
trọng vì nó là cơ sở để hình thành nên các nguồn vốn khác của ngân hàng đồng
thời tạo nên uy tín ban đầu của ngân hàng.
- Vốn chủ quyết định quy mô hoạt động của ngân hàng, cụ thể vốn chủ là
cơ sở để xác định giới hạn huy động vốn của ngân hàng. Nó còn là yếu tố để các
cơ quan quản lý dựa vào để xác định các tỉ lệ an toàn trong kinh doanh ngân
hàng.
*Chức năng của vốn chủ
- Chức năng bảo vệ:
Trong hoạt đông kinh doanh có rất nhiều rủi ro, những rủi ro này khi xảy
ra sẽ gây ra những thiệt hại lớn cho ngân hàng, đôi khi nó có thể dẫn ngân hàng
đến chỗ phá sản. Khi đó vốn chủ sẽ giúp ngân hàng bù đắp được những thiệt hại

phát sinh và đảm bảo cho ngân hàng tránh khỏi nguy cơ trên.
Trong một số trường hợp ngân hàng mất khả năng chi trả thì vốn chủ sẽ
được sử dụng để hoàn trả cho khách hàng.
Ngoài ra, do mối quan hệ hỗ tương giữa ngân hàng với khách hàng, vốn
chủ còn có chức năng bảo vệ cho khách hàng không bị mất vốn khi gửi tiền tại
ngân hàng.
- Chức năng hoạt động:
Thể hiện ở chỗ vốn chủ có thể được sử dụng để cho vay, hùn vốn hoặc
đầu tư chứng khoán nhằm mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. Tuy nhiên, do vốn
chủ chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng nguồn vốn kinh doanh nên lợi nhuận
mà nó mang lại cũng không cao. Vì vậy chức năng hoạt động ở đây cũng chỉ là
thứ yếu.
- Chức năng điều chỉnh:
Vốn chủ là đối tượng mà các cơ quan quản lý ngân hàng thường hướng
vào đó để ban hành những quy định nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân
hàng, là tiêu chuẩn để xác định tính an toàn (ví dụ như các ngân hàng không
được đầu tư vào tài sản cố định vượt qúa 50% vốn của ngân hàng). Vốn chủ còn
là căn cứ để xác định và điều chỉnh các giới hạn hoạt động nhằm đảm bảo ngân
hàng an toàn trong kinh doanh.
* Huy động vốn tự có
Nguồn bên ngoài:
- Phát hành cổ phiếu thường:
Ưu điểm: Không phải hoàn trả cho người mua cổ phiếu, cổ tức của cổ
phiếu thường không phải là gánh nặng về tài chính cho ngân hàng trong những
năm làm ăn thua lỗ. Phương pháp này làm tăng quy mô vốn nên cũng làm tăng
khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Chi phí cao và có thể làm loãng quyền sở hữu ngân hàng,
giảm mức cổ tức trên mỗi cổ phiếu, làm giảm tỷ lệ đòn bẩy tài chính mà ngân
hàng có thể tận dụng.
Tỷ lệ đòn bẩy tài chính = Vốn cơ bản/Tổng tài sản = (Giá trị sổ sách của

cổ phiếu thường + Cổ phiếu ưu đãi + Thu nhập từ các công ty con)/Tổng tài sản
- Phát hành cổ phiếu ưu đãi :
Ưu điểm: Không phải hoàn trả vốn và không làm phân tán quyền kiểm
soát ngân hàng, tăng khả năng vay nợ của ngân hàng trong tương lai.
Nhược điểm: Cổ tức phải trả cho các cổ đông là gánh nặng tài chính trong
những năm ngân hàng bị thua lỗ, chi phí phát hành cao, giảm mức cổ tức trên
mỗi cổ phiếu.
Ngân hàng còn có thể thực hiện các biện pháp tăng vốn từ nguồn bên
ngoài khác như bán tài sản và thuê lại, chuyển đổi chứng khoán nợ thành cổ
phiếu...
Nguồn bên trong:

×