Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.81 KB, 39 trang )

Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với
DNVVN của NHTM
1.1 NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm NHTM
Có nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại.
Theo quan điểm của K. Marx, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc
biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thì quy định rằng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch
vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này
để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được coi là công ty kinh doanh tiền tệ,
chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch
vụ tài chính.
Ở Pháp, ngân hàng thương mại được quan niệm là xí nghiệp thường xuyên
nhận tiền gửi của công chúng và sử dụng số tiền đó vào nghiệp vụ chiết khấu,
tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ, thì ngân hàng thương mại được định nghĩa là: cơ sở nhận các
khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Tóm lại có thể nói rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng- đặc biệt là tiết kiệm, tín dụng,
dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ
chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay,
đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo
nguồn vốn cho ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng, ảnh
hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân
hàng bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ:
a) Vốn chủ sở hữu


Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một khối
lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài,
hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành
và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở
hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển
của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể được hình thành từ các nguồn
như nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình
hoạt động, các quỹ, nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
b) Vốn nợ
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân
hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là
mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách
đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền
của ngân hàng. Nguồn tiền gửi bao gồm có tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kỳ
hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền
gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và
để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và
thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
Tiền vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên,
khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả
năng huy động bị hạn chế. Ngân hàng có thể huy động bằng cách vay ngân hàng
nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn.
c) Vốn nợ khác
Loại này bao gồm nguồn vốn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn
khác.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn

phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có mức sinh lời lớn nhất. Sử dụng vốn như
thế nào không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế.
Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm: dự trữ, cho vay, đầu
tư.
Dự trữ
Dự trữ hay còn gọi là ngân quỹ. Dự trữ của NHTM là những tài khoản có
tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu
cầu khác của NHTM; bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW và tiền
gửi tại các tổ chức tài chính khác. Dự trữ của NHTM là tài sản không sinh lời,
song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của
NHTM, đồng thời giúp cho nền kinh tế ổn định, tránh cho nền kinh tế không bị
rối loạn khi mà các NHTM không đáp ứng được yêu cầu chi trả.
Cho vay
Cho vay là việc mà ngân hàng sẽ đưa cho khách hàng một khoản tiền với
cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là một
hoạt động rất quan trọng của tín dụng. Ngân hàng không thể huy động vốn rồi
để yên đó mà phải làm cho số vốn đó sinh lãi. NHTM có nhiều hoạt động để tạo
ra lợi nhuận nhưng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu nhất. Trong hoạt động cho
vay bao gồm các phương thức cho vay như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần,
cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.
Đầu tư
Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cho nên NHTM là người nắm vững
những thông tin cũng như tình hình kinh tế rõ nhất nên có thể nói các NHTM là
người đầu tư có hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn sở hữu của ngân
hàng và các vốn dài hạn để đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự án…; trở
thành cổ đông của công ty cổ phần. Ở Việt Nam thì các NHTM chỉ được nắm
giữ dưới 10% cổ phiếu của công ty.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian
Ngoài hoạt động cho vay các NHTM còn thực hiện một số nghiệp vụ trung
gian nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Các nghiệp vụ trung gian như

chuyển tiền, tư vấn đầu tư, môi giới đầu tư, uỷ thác, giải ngân…
1.2.3 Vai trò của NHTM
Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn
định và phát triển của nền kinh tế.
1.2.3.1 Tích tụ, tập trung vốn và phân phối vốn hiệu quả
Các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian tài chính của
mình tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, nâng cao
đời sống xã hội, góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục
và ổn định. Đặc biệt đối với các nước mà thị trường chứng khoán chưa phát
triển thì vai trò này của ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Ngân hàng
tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính. Ngay cả những
nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì của ngân hàng cũng góp phần
vào sự phát triển của thị trường tài chính thông qua các dịch vụ tư vấn đầu tư,
cung cấp thông tin.
1.2.3.2 Chuyển thời hạn vốn
NHTM có vai trò chuyển thời hạn vốn. Ngân hàng huy động vốn
trong nền kinh tế, bao gồm nhiều loại vốn có thời hạn khác nhau như
vốn ngắn hạn, trung và dài hạn. Sau đó khi cho vay trong nền kinh tế
ngân hàng sẽ có những điều chỉnh linh hoạt về thời hạn để cho vay theo
nhu cầu của nền kinh tế. Đây là một vai trò quan trọng của ngân hàng
trong việc giải quyết sự lệch pha về các nguồn vốn trong nền kinh tế.
1.2.3.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng
NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng. Các dịch vụ tài
chính mà NHTM thực hiện bao gồm dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ
môi giới đầu tư chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý. Đó là
những dịch vụ đem lại rất nhiều lợi ích và giúp cho nền kinh tế năng
động hơn.
1.2.3.4. Nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hóa
NHTM nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông
qua các hoạt động của mình như nhận gửi, cho vay, thanh toán ... ngân

hàng cung cấp toàn bộ thông tin cho nền kinh tế. Thông tin từ phía ngân
hàng là những thông tin chính xác nhất. Do đó, ngân hàng đã tham gia
vào việc kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm cho quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá đươc nâng cao.
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1 Khái niệm DNVVN
- Khái niệm doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao
dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục
đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Theo Luật Doanh Nghiệp Việt Nam
năm 2005)
- Khái niệm DNVVN:
Có thể nói, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan trọng trong nền
kinh tế Việt nam, đóng góp một phần đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải
quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tạo tốc độ tăng trưởng kinh
tế…Các DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình
doanh nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư
nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…kinh doanh trên nhiều
lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ở nước ta DNVVN chiếm tỷ trọng tương đối
cao, chiếm hơn 90% tổng số Doanh nghiệp của cả nước. Mặc dù chiếm tỷ trọng
ưu thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn và lao động.
Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất tương đối vì nó chịu tác
động của các yếu tố như trình độ phát triển của một nước, tính chất ngành nghề
và điều kiện phát triển của một vùng lãnh thổ nhất định hay mục đích phân loại
doanh nghiệp trong từng thời kì nhát định. Tuy nhiên, DNVVN được định nghĩa
một cách chung nhất là: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư
cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp
trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh
thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia.
Ví dụ như Đài Loan, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo có

từ 1 tới 200 lao động được coi là DNVVN, trong khi các doanh nghiệp trong
ngành thương mại- dich vụ có từ 1-50 lao động. Ở Nhật Bản, các DNVVN
trong ngành sản xuất chế tạo có từ 1- 300 lao động và số vốn kinh doanh không
vượt quá 300 triệu Yên, còn các DNVVN trong ngành thương mại - dịch vụ có
số lao động không quá 100 người với số vốn kinh doanh không quá 100 triệu
Yên. Ngược lại ở Mỹ chỉ có một tiêu chí xác định chung cho các DNVVN là số
lao động không quá 500 người
DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách
pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao
động tuỳ theo quy định của Chính Phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với
từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001: DNVVN
là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật
hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình
hàng năm không quá 300 người.
1.2.2 Đặc điểm của DNVVN ở Viêt Nam
Các DNNVV là các DN có quy mô vốn nhỏ và hầu hết hoạt động trong các
ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình DN
khác, DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát
triển. Có thể nhận thấy DNNVV có một số đặc điểm cơ bản sau:
* Về các điểm mạnh:
- DNNVV dễ khởi sự. Các DNNVV thường chỉ cần một lượng vốn ít, số
lao động không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc giản
đơn đã có thể bắt đầu kinh doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh. DNVVN
gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Khó
khăn lớn đối với các DN là làm sao tạo được nguồn vốn kinh doanh, nhưng do
tốc độ quay vòng vốn nhanh nên DNNVV có thể huy động vốn từ nhiều nguồn
không chính thức khác nhau như bạn bè, người thân để đáp ưng cho nhu cầu
vốn của mình.
- Tính linh hoạt cao. Do hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các

DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của
môi trường. Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc
đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội
cũng như các biến động trên thị trường. Nhờ tính năng động này mà các
DNNVV dễ dàng tìm kiếm và gia nhập thị trừơng khi nhận thấy việc kinh
doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi các thị trường khi công việc kinh
doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trong đối với
các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển như nước
ta.
- Có lợi thế trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống.
So sánh hai loại hình doanh nghiệp lớn và DNVVN thì DNNVV có lợi thế
hơn trong việc khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, khả
năng khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn lực đầu vào như lao động,
tài nguyên hay vốn tại chỗ của từng địa phương. Từ đó DNVVN từng bước
trưởng thành và lớn mạnh. Mặt khác các DNVVN còn có nhiều lợi thế hơn các
DN lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi
của người tiêu dùng, kết hợp với phương châm đa dạng hóa sản phẩm đã tạo ra
nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của
người tiêu dùng.
- DNVVN có lợi thế về sử dụng lao động. Quan hệ lao động trong các
DNVVN thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh nghiệp
lớn. Do đó người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến
khích hơn trong công việc. Đặc biệt là mối quan hệ gần gũi, thân thiện đó rất
phù hợp với văn hóa của người Việt Nam.
Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương,
DNVVN có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng
cao đời sống vật chất và tình thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và
bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các
DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo,
giảm sự các biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần làm giảm tệ

nạn trong xã hội.
* Về các điểm yếu:
_ Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hầu hểt các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-20
năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám
ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị, công nghệ
lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng
nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường…
Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ thuật
tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện đại là
rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả năng
huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công
nghệ và cũng hiếm có các chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao
động của doanh nghiệp.
_Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó
lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài
chính có hạn, DNVVN thường gặp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận
thông tin thị trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng
như ít có khả năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác phần lớn các
DNVVN được thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản
lý của họ có hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường.
Các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về
quản lý doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do
quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể
trả lương cao cho người lao động nên khó có khả năng thu hút được những
người lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành
doanh nghiệp.
_ Các DNVVN có năng lực tài chính thấp
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi

mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà
đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này
bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được
khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo
dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh
nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Vì thế
DNVVN khó tiếp cận được vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Muốn
vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại thì các DNVVN
phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do trình độ, khả năng quản
lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng dự báo trước những biến
động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây dựng các kế hoạch tài chính,
phương án sản xuất kinh doanh khả thi của không ít DNVVN còn yếu trong khi
dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác không ít các
DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về
quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu.
Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ
quan Thuế nên đã cố tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ…Một số doanh
nghiệp còn làm trái chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan
quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…
Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng
xây dựng các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh
theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao,
trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt
công tác kế toán thống kê, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ
nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp
cận vốn tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như
vậy với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính lại khó khăn
nên tiềm lực tài chính của các DNVVN đã thấp lại càng thấp hơn, do đó khả
năng cạnh tranh của các DNVVN trên thị trường rất thấp.
Với những đặc điểm nổi bật của các DNVVN ở Việt Nam như trên, cộng

với môi trường canh tranh gay gắt như hiện nay thì việc hỗ trợ phát triển
DNVVN là nhiệm vụ hết sức cần thiết đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của nền
kinh tế.
1.2.3 Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
Các DNVVN đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và có vai trò quan trọng trong mạng sản xuất toàn cầu và chuỗi cung ứng
hàng hóa và dịch vụ. Các DNVVN có khả năng tạo ra nhiều việc làm với chi
phí thấp; cung cấp cho xã hội khối lượng đáng kể hàng hóa và dịch vụ và làm
tăng GDP cho nền kinh tế; tăng cường kỹ năng quản lý và đổi mới công nghệ;
góp phần giảm bớt chênh lệch về thu nhập trong xã hội, xóa đói nghèo; tăng
nguồn tiết kiệm và đầu tư của dân cư địa phương làm cho nền kinh tế năng động
và hiệu quả hơn, cải thiện mối quan hệ giữa các khu vực kinh tế khác nhau.
Mức độ đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia của DNVVN được thể hiện
ở mức độ thu hút lao động, vốn đầu tư, tạo ra giá trị gia tăng trong nền kinh tế.
Theo số liệu thống kê của các nước, tỷ trọng thu hút lao động tạo ra giá trị gia
tăng của các DNVVN rất đáng kể. Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt như hiện
nay, để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, các nước đặc biệt là các nước đang phát
triển cần có các chính sách hỗ trợ phát triển DNVVN, có như vậy mới huy động
được tối đa nguồn lực xã hội, góp phần hỗ trợ các doanh nghiệp lớn phát triển,
tăng sức cạnh tranh trên thị trường… Vai trò đó của DNVVN thể hiện cụ thể
như sau:
o Thu hút vốn và khai thác nguồn lực sẵn có trong dân cư.
DNVVN có vai trò quan trọng trong việc khai thác nguồn tài chính của dân
cư trong vùng và sử dụng tối ưu nguồn lực tại chỗ của các địa phương. Với việc
thành lập một doanh nghiệp loại này chỉ cần một số vốn nhỏ do đó đã tạo điều
kiện cho dân cư tham gia đầu tư góp vốn vào DNVVN. Như vậy thông qua các
DNVVN, những nguồn vốn nhỏ, tạm thời nhàn rỗi đã có khả năng được sinh
lời. Hơn nữa việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng của các DNVVN rất
hạn chế, nguồn vốn hoạt động chủ yếu được huy động từ những người thân
quen vì thế DNVVN được tiếp xúc trực tiếp với người cho vay, người cho vay

có khi là chủ sở hữu doanh nghiệp, trực tiếp điều hành hoạt động của doanh
nghiệp nên việc sử dụng vốn sẽ hiệu quả hơn. Bên cạnh đó các DNVVN có thể
tận dụng được nguồn lao động và nguyên vật liệu với giá rẻ do đó làm giảm chi
phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, tạo lợi thế cạnh tranh cho các doanh nghiệp
trong việc tiêu thụ sản phẩm. Như vậy sự phát triển của các DNVVN đã tận
dụng được tối đa các nguồn lực của xã hội, tạo công ăn việc làm cho nhiều lao
động có trình độ, tay nghề thấp góp phần làm ổn định và phát triển xã hội.
Về tiềm lực vốn: Vốn đầu tư là một yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất.
Vốn là yếu tố cơ bản để khai thác và phối hợp các yếu tố sản xuất khác như lao
động, đất đai, công nghệ và quản lý để tạo ra lợi nhuận cho các chủ doanh
nghiệp. Vốn có vai trò to lớn trong việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ,
đào tạo nghề, nâng cao trình độ tay nghề cho công nhân cũng như trình độ quản
lý của chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên một nghịch lý hiện nay là trong khi có
nhiều doanh nghiệp đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhàn rỗi trong dân
cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi chính sách tài chính tín dụng
của Chính phủ và các Ngân hàng chưa thực sự gây được niềm tin đối với những
người có vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư thì nhờ sự đa dạng hoá trong
các loại hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp
DNVVN thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do đó, nguồn vốn nhàn rỗi
trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không
sinh lợi, nhiều DNVVN đã tiếp xúc trực tiếp với người dân và huy động được
vốn để kinh doanh, thành lập doanh nghiệp. Dưới khía cạnh đó, DNVVN có vai
trò to lớn trong việc huy động vốn để phát triển kinh tế.
Về lao động: Đặc điểm chung của các DNVVN là ít vốn và hoạt động chủ
yếu trong các ngành sử dụng nhiều lao động. Do đó, DNVVN ở tất cả các nước
có thể tạo công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động. Ở nhiều nước
trên thế giới, kể cả các nước phát triển, DNVVN là nơi tạo ra nhiều việc làm
nhất. Hiện nay, DNVVN chiếm 90-99% trong tổng số lượng các doanh nghiệp
các nước, ở Việt Nam con số này là 90%. Mặc dù số lượng lao động trong các
doanh nghiệp không nhiều nhưng tổng số lao động làm việc trong các DNVVN

chiếm tỷ lệ đáng kể từ 50-80%, khi các DNVVN phát triển sẽ tạo nhiều cơ hội
tăng việc làm, thu hút lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh tế.
DNVVN thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu
dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, vốn ít với chi phí thấp nên phần lớn
lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào
tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc là người lao động có thể tham
gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công
nghệ tự động hóa, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với
doanh nghiệp lớn giảm mạnh. DNVVN là nơi thu hút tiếp nhận và đảm bảo thu
nhập cho họ. Như vậy có thể thấy rằng DNVVN có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc tạo ra và tăng thêm việc làm cho nền kinh tế, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp và ổn định xã hội bằng cách thu hút nhiều lao động với chi phí thấp và
chủ yếu bằng vốn của dân.
Trong tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, một bộ
phận lao động không nhỏ dư thừa, với những kinh nghiệm tích luỹ được trong
lao động họ có thể tự thành lập hay tìm kiếm công việc tại các DNVVN góp
phần quan trọng vào việc đẩy mạnh sự phát triển của các DNVVN.
Về khoa học kỹ thuật: Với quy mô hoạt động nhỏ, DNVVN thường lựa
chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động và khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ
thuật thủ công với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và
làm chủ trong sản xuất.
o Đóng góp quan trọng vào tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Sự phát triển nhanh các DNVVN về cả số lượng và chất lượng đã đóng góp
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập cho các nước.
Cũng như DNVVN ở tất cả các nước, DNVVN ở Việt Nam cung cấp ra thị
trường nhiều loại hàng hóa khác nhau đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng
trong nước như trang thiết bị và linh kiện cần thiết cho các ngành sản xuất hàng
tiêu dùng và các ngành thủ công nghiệp cũng như các hàng hóa tiêu dùng khác.
Theo số liệu thống kê trong những năm vừa qua DNVVN đã đóng góp 25-28%

GDP của cả nước, vốn kinh doanh của khu vực DNVVN chiếm 2% so với vốn
kinh doanh của tất cả các doanh nghiệp. Ngoài ra, DNVVN Việt Nam còn cung
cấp hầu hết sản phẩm trong nhiều ngành công nghiệp truyền thống thu hút nhiều
lao động như giầy dép, chiếu cói… việc mở rộng và phát triển các DNVVN sẽ
góp phần không nhỏ trong việc làm tăng GDP, đóng góp đáng kể vào nguồn thu
ngân sách Nhà nước.
Phát triển DNVVN làm số lượng các doanh nghiệp tăng lên rất lớn, tăng
tính cạnh tranh giảm bớt mức độ rủi ro. Các DNVVN cung cấp nguyên liệu, sản
xuất và tiêu thụ hàng hoá thâm nhập vào ngõ ngách thị trường những nơi doanh
nghiệp lớn không làm được.
Các DNVVN tham gia tích cực vào hoạt động xuất khẩu, số lượng
DNVVN tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu chiếm 80,6%, nhập khẩu chiếm
84,2% tổng số doanh nghiệp tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu trên cả nước.
DNVVN thường không có tình trạng cạnh tranh độc quyền, họ dễ dàng và sẵn
sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát
huy mọi tiềm lực. sự phát triển của DNVVN trong giai đoạn đầu là phương thức
tốt nhất để sản xuất thay thế nhập khẩu với mức chi phí đầu tư thấp, kỹ thuật
không phức tạp, sản phẩm phù hợp với sức mua của dân, từ đó tăng năng lực
sản xuất và sức mua của thị trường.
Quá trình phát triển của DNVVN cũng là quá trình cải tiến máy móc thiết
bị, nâng cao năng lực sản xuất và chất lượng sản phẩm đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của thị trường. từ đó đổi mới công nghệ, làm quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá diễn ra ở cả chiều rộng và chiều sâu.
Với những ưu thế về ngành nghề, tính nhạy cảm của thị trường cao, các
DNVVN có nhiều ưu thế trong việc sản xuất và cung ứng các sản phẩm đáp ứng
nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu. ở một số nước DNVVN tham gia
xuất khẩu chiếm tỷ trọng đáng kể trong kim ngạch xuất khẩu từ 30-50%.
o Tạo sự phát triển giữa các vùng, ngành góp phần phát triển quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong quá trình kinh doanh, nhiều DNVVN có thể hỗ trợ cho các

doanh nghiệp lớn kinh doanh một cách hiệu quả hơn như làm đại lý và
vệ tinh cho các doanh nghiệp lớn, cung cấp những bán thành phẩm hay
nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp lớn hoặc thâm nhập vào mọi
ngõ ngách thị trường mà doanh nghiệp lớn khó có thể với tới để phân
phối các sản phẩm của doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân
bằng giữa các vùng. Mục tiêu hoạt động của DNVVN là phục vụ nhu cầu
tiêu dùng của nhân dân là chủ yếu, sử dụng nhiều lao động do đó giải
quyết được tình trạng thất nghiệp ở các địa phương. Bên cạnh đó, khi
số DNVVN tăng lên sẽ kéo theo sự gia tăng nnhanh chóng số lượng các
sản phẩm và dịch vụ mới trong nền kinh tế. Nhờ hoạt động với quy mô
nhỏ và vừa, các DNVVN có ưu thế là chuyển hướng kinh doanh nhanh
từ những ngành nghề kém hiệu quả sang các ngành khác hiệu quả hơn,
thoả mãn nhu cầu linh hoạt của dân cư. Chính sự phát triển đó của các
DNVVN đã làm tăng tính cạnh tranh, tính linh hoạt và giảm bớt mức độ
rủi ro trong nền kinh tế.

×