Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Nhung danh gia ve Bac Ho tu cac nha nghien cuu ongoai nuoc Ho Chi Dunggui len

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.69 KB, 28 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Lời giới thiệu của Hồ Chí Dũng:</b>



Giáo sư Trần Ngọc Chung là một cây viết chính luận nổi tiếng ở hải


ngoại.

Ơng hiện nay đang định cư ở Mỹ.Là người tốt nghiệp tiến sỹ


chuyên ngành Vật lý và giảng dạy về Vật lý tại nhiều trường đại học Hoa


Kỳ nhưng ông lại là người có những bài viết chuyên sâu về các vấn đề


chính trị,xã hội và lịch sử hết sức sắc bén,khách quan và thuyết



phục.Trong các bài viết của mình ơng cho người đọc có đựoc những cái


nhìn hết sức khách quan và đúng đắn về nhiều vấn đề mang tính thời


sự.Cùng với Giáo sư Nguyễn Mạnh Quang,

ơng là người đã có những bài


viết hết sức sắc bén với những luận chứng thuyết phục để “đập “lại những


bài viết có tính “hàm hồ”,”hằn học và thù hận” của những kẻ mang danh


là học giả ở hải ngoại.Giáo sư Trần Ngọc Chung theo Đạo Phật,từng là sỹ


quan trong quân đội Việt Nam cộng hoà,từng cơng tác trong lĩnh vực văn


hố giáo dục của chính quyền Việt Nam cộng hồ trước đây.

Đọc các bài


viết của Giáo sư ta sẽ thấy được những điều mà mình cịn khiếm khuyết


và nó cũng giúp ta có được những kinh nghiệm khi bước chân vào cơng


việc nghiên cứu các vấn đề chính trị, xã hội.Qua đó giúp chúng ta có


niềm tin vào cuộc sống mà ta đang sống.



<i><b> - Hồ Chí Dũng ( THCS Diễn </b></i>



<b>Đồi)-TẢN MẠN VỀ PHONG TRÀO CHỐNG CỘNG Ở HẢI NGOẠI</b>



Trần Ngọc Chung ( 28/10/2011)



Kể từ ngày tôi “tự cưỡng bách di tản” khỏi Saigon vào mấy ngày cuối tháng 4, 1975,
nay đã hơn 30 năm sống trên đất Mỹ. Cuộc chiến Việt Nam đã đưa đẩy nhiều người
đến những số phận không ai muốn. Nhưng dù muốn hay không, với bản năng sinh
tồn, con người vẫn phải tiếp tục sống, và tự chọn cho mình một lối sống.



Hơn 30 năm sống trên đất Mỹ nhưng lối sống của tôi chẳng phải là lối sống Mỹ, mà
cũng chẳng phải là lối sống Việt.. Không xem football, không xem “soap” trên TV,
không ăn gà tây nhân dịp lễ người Da Đỏ “không tạ ơn”, không la cà quán rượu,
không ly dị [không Mỹ]; không hút thuốc lá, không uống rượu, chưa từng đặt chân
đến những buổi nhạc hội ca vũ, chưa từng dự một cuộc biểu tình nào, chưa từng bỏ
tiền ra mua Thúy Nga Paris, và không chống Cộng [không Việt], và từ năm 1985, sau
khi đọc vài cuốn sách về cách nuôi súc vật và gia cầm ở Mỹ, đến nay đã 21 năm, chưa
từng có một miếng thịt nào, bất kể là thịt gì, cịn đi vào trong người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Về Ki Tô Giáo, sau khi đọc một số sách nghiên cứu về Ki Tơ Giáo trong vịng 200
năm gần đây của một số vị lãnh đạo cũng như một số học giả trong Ki Tô Giáo, cùng
những khám phá trong vũ trụ học, sinh học, sinh hóa học, di truyền học v..v.., cuối
cùng tơi khám phá ra rằng, chẳng làm gì có Thiên Chúa để mà có “hồng ân thiên
chúa”, đúng như Richard Dawkins đã nhận định trong cuốn sách mới xuất bản của
ông, “The God Delusion”: Thiên Chúa chỉ là một ảo tưởng, ảo tưởng của những
người tin là Thiên Chúa thực sự hiện hữu..


Về Phật Giáo, tơi nghĩ có lẽ tôi đã tu từ nhiều kiếp trước nên nay tơi mới có thể có
một cuộc sống như vậy, và tôi tin rằng thuyết “duyên sinh” cộng với thuyết “nghiệp
báo” của nhà Phật là cách giải thích hợp lý nhất về những thiên sai vạn biệt trên thế
giới.


Cịn về chiến tranh Việt Nam, tơi đã viết một bài nhan đề “Chiến Tranh Nhìn Từ Một
<i>Phía: Phía Của Khơng Phía”.</i>


Có người cho rằng đã mang danh là một người “di cư tị nạn CS” thì tất nhiên phải
tham gia việc chống Cộng ở hải ngoại. Không hẳn vậy, tuyệt đại đa số thầm lặng
không muốn dính dáng đến những hoạt động chống Cộng trong những vùng “gió tanh
mưa máu” [mượn từ của Tú Gàn] rải rác ở ngoại quốc, các vùng Bolsa, San Jose ở


California và vùng Sydney ở Úc là những vùng nổi tiếng nhất. Tôi không thuộc đa số
thầm lặng trên mà lại thuộc thiểu số không thầm lặng. Không thầm lặng trước những
hành động chống Cộng làm nhục lây đến những người Việt Quốc Gia chân chính. Tơi
khơng có nói chỉ để mà nói, mà vì những lý do sau đây.


<b>1) Hiện Tượng Chụp Mũ Cộng Sản Bừa Bãi.</b>


Có một sự kiện khá ngộ nghĩnh trên một số trang nhà hải ngoại là bất cứ ý kiến nào,
của bất cứ ai, mà không thuộc loại Chống Cộng Cực Đoan hay Chống Cộng Cuồng
Điên [CCCĐ], hay Chống Cộng Chết Bỏ [CCCB], hay Chống Cộng Cho Chúa
[CCCC], hoặc là đụng đến Ki Tô Giáo dù rằng chỉ là những sự thật, được dẫn chứng
đàng hồng từ những tài liệu do chính những học giả Tây phương trong Ki Tơ Giáo
viết, thì y như rằng ý kiến đó bị một số người có vẻ như thiếu moron ở trong óc chụp
mũ đó là của Cộng Sản, nằm trong chính sách chống Thiên Chúa Giáo [Thiên Chúa ở
đây nên hiểu là Thiên Chúa của Ki Tô Giáo, một trong số hàng trăm Thiên Chúa khác
nhau trên thế giới], nếu sự thực ở trên cõi đời này có một Thiên Chúa như người Ki
Tô thường tin, và những người viết ra những sự thực về Ki Tô Giáo đương nhiên phải
là tay sai của Cộng Sản Việt Nam. Hiện nay, Cộng Sản có chống Thiên Chúa Giáo
hay khơng, đó là một câu hỏi lớn (a big question).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

phóng khỏi ách thực dân, giải phóng khỏi mưu đồ Cơng Giáo hóa Việt Nam của các
con chiên của Ngài, thì Ngài đã đi chuyến tàu suốt về chầu Chúa nơi Thiên Đường
(mù), nơi mà chính Ngài đã phủ nhận sự hiện hữu. Vì vậy, một bạn trẻ đã viết trên
Đàn Chim Việt: “CS chết rồi nhưng chưa chôn”. Thật vậy, chúng ta thử về Việt Nam
xem có cịn cái gì là CS khơng? Tất nhiên chỉ cịn trên hình thức và sách vở. Bởi vì
nếu thực sự cịn là Cộng sản Mao hay Cộng sản Xít-Ta-Lin thì chẳng làm gì còn các
“nhà dân chủ” ngày ngày liên lạc với những tổ chức chống Việt Nam ở Hải Ngoại, ra
tuyên ngôn nọ kia, lập hội lập hè v..v..


Điều này khơng lấy gì làm lạ. Khai thác tâm cảnh thù hận Quốc-Cộng của một thiểu


số ở hải ngoại, thế lực đen, alias Cơng Giáo, một tơn giáo có mối thù truyền kiếp với
CS, đã nắm hầu hết những phương tiện truyền thông ở hải ngoại, và vô cùng tích cực
trong việc xử dụng hai thứ vũ khí mà Công Giáo thường dùng: vu khống và gây thù
hận, khi Cơng Giáo khơng cịn khả năng xử dụng thanh gươm và bó củi như trong
thời Trung Cổ, đúng như John Remsburg đã nhận định trong cuốn “False Claims”.
Bất cứ người nào nói đụng đến Cơng Giáo, dù tất cả chỉ là sự thật, cũng đều bị họ vu
khống chụp cho cái mũ “chống Công Giáo” cộng với “làm tay sai cho Cộng Sản” để
gây thù hận đối với những tín đồ Cơng Giáo và đối với những người chống Cộng. Họ
làm như chống Công Giáo là một điều cấm kỵ, không được phép làm, hay là một việc
vơ đạo đức vì đã vạch ra những điều vô đạo đức trong Công Giáo, tuy rằng những
nghiên cứu lịch sử về Ki Tô Giáo nói chung, Cơng Giáo nói riêng, đã là những điều
rất thông thường và tràn ngập trong thế giới Âu, Mỹ..


Bất cứ người nào không đồng ý với những hành động chống Cộng một cách thiếu
trình độ văn hóa, giáo dục, và cuồng tín như họ cũng đều bị họ vu khống cho là Cộng
Sản qua những cụm từ đã trở thành lố bịch: “ăn cơm quốc gia thờ ma cộng sản”, “ăn
cháo đá bát”, “đón gió trở cờ”, “mong được ăn cơm thừa canh cặn của CS”, “làm tay
sai cho CS”, “nịnh bợ CS”. Nhưng có một điều mà ai cũng thấy rõ, đó là, những
người đi chụp mũ vu khống người khác là Cộng Sản không bao giờ đưa ra bất cứ một
chứng cớ nào, cũng như không bao giờ nói rõ những lý do nào đã khiến cho cá nhân
bị chụp mũ đó đi “làm tay sai cho CS”, hay đi “nịnh bợ CS” trong thời buổi này. Vì
danh? Danh gì? Vì lợi? Lợi gì? Vì chức tước? Chức tước gì? Có thực tế khơng?
Có thích hợp với tuổi tác, địa vị, tình trạng kinh tế gia đình của người bị vu khống
không? Lẽ dĩ nhiên những người đi bn nón cối và đi bn thù hận này không bao
giờ cần để ý đến những chi tiết quan trọng này. Đối với họ, sự lương thiện trí thức
khơng phải là vấn đề đáng để ý, vì bản tính của họ đã thuộc loại bất lương rồi, chủ
đích của họ chỉ cần gây thù hận là đủ.


Một sự kiện khá ngộ nghĩnh khác là dân chống Cộng hải ngoại thường có thái độ “độc
tôn”, cho nên bất cứ ai không chống Cộng theo ý ta cũng là Cộng Sản cả. Bởi vậy


mới có cảnh tượng bát nháo, hội đồn này chụp mũ hội đoàn kia là Cộng Sản, cá nhân
này chụp mũ cá nhân kia là Cộng Sản, Công giáo chụp mũ Phật Giáo là Cộng Sản để
chạy tội bán nước, và người ngoại đạo cũng lên án Công Giáo là Cộng Sản, hay ít ra
cũng là thân Cộng, vì những thủ đoạn chính trị nhơ bẩn “stoop to conquer” của
Vatican v..v…


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

của Beatrice Hall, bí danh là S.G. Tallentyre, nói năm 1907, câu mà người ta thường
lầm lẫn cho là của Voltaire. [???] Cái mũ “Cộng Sản” đã được xử dụng như là một vũ
khí để giữ độc quyền ăn nói và bịt miệng những người khơng đồng quan điểm với
mình, nhưng càng ngày càng trở nên lố bịch vì ngày nay mọi người đều coi nó như
một trị hề chính trị của những kẻ hạ căn, cho nên không gây nên một tác dụng nào.
Cộng Sản bất chiến tự nhiên thành, vì bỗng nhiên càng ngày càng có nhiều đồng
minh: cá nhân, hội đồn, Phật giáo, Cơng giáo, và đặc biệt, theo một vài bạn trẻ trên
trang nhà Đàn Chim Việt, những nhân vật nổi danh như Giám Mục Peter de Rosa, tác
giả cuốn Những Đại Diện Của Chúa Ki-Tô: Cái Mặt Đen Tối Của Những Triều
<i>Chính Giáo Hồng (Vicars of Christ: The Dark Side of The Papacy); Giám Mục John </i>
Shelby Spong, tác giả cuốn Tại Sai Ki Tơ Giáo Phải Thay Đổi Khơng Thì Chết (Why
Christianity Must Change or Die); Helen Ellerbe, tác giả cuốn Cái Mặt Đen Tối Của
<i>Ki Tô Giáo (The Dark Side of Christianity); Douglas Lockhart, tác giả cuốn Cái Mặt </i>
<i>Đen Tối Của Thượng Đế [Của Ki Tô Giáo] (The Dark Side of God); và hàng trăm tác </i>
giả khác gồm các bậc lãnh đạo trong Ki Tô Giáo, các giáo sư đại học, chuyên gia về
tơn giáo trong thế giới Tây Phương, chỉ vì những nhân vật này cũng “chống Ki Tơ
Giáo” vì đã viết ra những sự thật về Ki Tô Giáo, do đó là… “thành viên của Giao
Điểm”. Nếu chúng ta có dịp ghé qua trang nhà Đàn Chim Việt, chúng ta sẽ thấy
“Giao Điểm” đã trở thành cái mũ để đội lên đầu bất cứ người nào không cùng ý kiến
chống Cộng, hay nói ra vài sự thực về Cơng Giáo, hay trích dẫn tài liệu từ Giao Điểm,
dù rằng Giao Điểm không hề biết những người này là ai. <b>Tơi đã đích thân hỏi Giao </b>
<b>Điểm và các thân hữu Giao Điểm có ai viết trên Đàn Chim Việt không. Ai cũng </b>
<b>cười và trả lời Đàn Chim Việt không phải là chỗ để họ viết bài hay góp ý kiến </b>
<b>trên đó. </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

Thứ nhì, có một số người chống Cộng cho rằng Giao Điểm là “cánh tay nối dài của
CS” ở hải ngoại, tuy rằng một trong những người sáng lập tổ chức Giao Điểm, anh
Hồng Quang, cách đây ít năm, khi về Việt Nam đã hơn một lần được Công An ưu ái
mời lên “làm việc” vì cho rằng Giao Điểm có mục đích chính trị nào đó. Nhưng dần
dần Giao Điểm đã chứng tỏ là theo đúng chủ trương đặt ra: Trừ Tà [Giải hoặc], Hiển
Chánh [Chấn Hưng Phật Giáo], Độ Sinh [Làm việc từ thiện] cho nên ngày nay Giao
Điểm tạm gọi là dễ thở đối với Nhà Nước. Mặt khác, họ chỉ nói lên vậy thôi để gây
thù hận chứ tuyệt đối họ không biết gì về tổ chức Giao Điểm cũng như những người
cộng tác với Giao Điểm, và nhất là họ không bao giờ dám lên tiếng thảo luận về các
lập luận trong các chủ đề mà Giao Điểm viết lên, bởi vì, như trên đã nói, tất cả những
bài viết trên Giao Điểm đều thuộc loại nghiên cứu với đầy đủ tài liệu dẫn chứng.
Thứ ba, có một số Phật tử cho rằng Giao Điểm là nhóm Phật tử q khích vì viết ra
những sự thực về Cơng giáo tuy rằng những người đóng góp trí tuệ cho Giao Điểm
không phải tất cả đều là Phật tử, và <b>khơng có một tác giả nào trên Giao Điểm nhân </b>
<b>danh Phật Tử hay Phật Giáo để viết về những sự thực lịch sử về Công Giáo, hay </b>
<b>về thời sự, chính trị v..v…. Tất cả đều chỉ là những nghiên cứu trí thức trong </b>
<b>lãnh vực học thuật với đầy đủ tài liệu dẫn chứng, nằm trong chủ trương “giải </b>
<b>hoặc” và mở mang kiến thức của người dân, một điều vô cùng cần thiết trong </b>
<b>thời đại mới.</b> Những Phật tử này còn khuyên rằng Giao Điểm nên thể hiện đức từ bi
của Đạo Phật, chỉ nên ngồi hít vào thở ra cho thoải mái tâm thân, và chỉ nên dùng “ái
ngữ” dù rằng ái ngữ nhiều khi chỉ có tính cách mị dân, che dấu hay sai sự thật. Khi
dẫn chứng một tài liệu tiếng ngoại quốc thì phải dịch cho sát nghĩa, không thể dịch sai
để phù hợp với chủ trương dùng “ái ngữ”. Đây là vấn đề lương thiện trí thức trong
lãnh vực học thuật.


Thứ tư, có người nhờ uy tín, tiền, và tình của Giao Điểm nên cũng tạo được đôi chút
tiếng tăm, nhưng rồi lại muốn chiếm Giao Điểm làm của riêng để lái Giao Điểm đi
sang đường khác, tự tung tự tác đi nghịch lại với chủ trương của Giao Điểm, rồi trở
mặt coi bạn thành thù, đem tâm thù ghét và đả kích, xuyên tạc Giao Điểm bằng những


loại văn chưa từng có trên Giao Điểm. Nhưng thật là khơi hài, chỉ vì cái tiếng và uy
tín của Giao Điểm, nên vẫn phải bám vào hai chữ “Giao Điểm” để câu độc giả cho
những mục đích riêng tư. Nhưng giới độc giả tất nhiên biết rõ Giao Điểm nào là Giao
Điểm chính gốc, và Giao Điểm nào là “Ngụy Giao Điểm.” Giao Điểm mua được một
kinh nghiệm đắt giá: đành mang chút tai tiếng, và để cho tình, tiền của thân hữu si
theo chiều gió. Lịng người thật là khó lường.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Có một chuyện ngộ nghĩnh khác là, sau khi chụp mũ CS, có người đặt câu hỏi, một
câu rất ngớ ngẩn, là tại sao những người mà họ chụp mũ là thân Cộng không về Việt
Nam sống với Cộng Sản. Chỉ có kẻ đần độn mới đặt một câu hỏi xâm phạm vào đời
tư của người khác như vậy, nhất là khi đặt trên một giả định vu vơ là họ thân Cộng
Sản mà không đưa ra bất cớ một bằng chứng nào. Hỏi như vậy thì tốt hơn là nên hỏi 7
triệu người Công Giáo Việt Nam, những người mê mẩn làm nô lệ cho Vatican, nhất
nhất đều tuân theo lệnh của Vatican, sao khơng sang Vatican mà ở, ở đó có “Đức
Thánh Cha” là đại diện của Chúa trên trần, có rất nhiều “Cha cũng như Chúa thứ hai”,
cho nên chắc chắn là đường lên thiên đường gần hơn và mau hơn là ở Việt Nam.
Riêng tơi, nếu có ai hỏi vậy thì tơi sẽ trả lời: Tơi muốn sống ở đâu là quyền của tơi,
đâu có phải việc của các người mà xía vào chuyện này. Hơn nữa, ở Mỹ tơi mới có đủ
tự do, đủ tài liệu để “chống Công Giáo”, “chống Mỹ”, như các người thường vu
khống, và nhất là, “chống những người như các người.”


<b>2) Những Cảnh Chống Cộng Vơ Trí Ở Hải Ngoại.</b>


Tơi có thể nói rằng chính những cảnh chống Cộng bát nháo, thấp kém, vơ trí tuệ ở hải
ngoại đã làm tôi không thể đứng chung hàng ngũ với những người thuộc loại [CCCĐ]
hay [CCCB] hay [CCCC] mà phần lớn thuộc thế lực đen, chống Cộng với tâm cảnh
cuồng tín tơn giáo. Điều khôi hài nhất là mấy ông linh mục ở bên nhà, sống trong một
định chế tôn giáo thần trị (theocracy) phi dân chủ, phi nhân quyền v..v.., chỉ có quyền
“Tịa Thánh có đánh r…. cũng khen thơm”, hay quyền “hôn nhẫn hôn chân đức thánh
cha” v..v.., thế mà lại họp bè họp đảng tranh đấu cho dân chủ và nhân quyền. Đang


cam tâm tự nguyện sống trong cảnh nô lệ, dù là nô lệ tâm linh, mà lại đi tranh đấu cho
nhân quyền thì thật là điều khơng tưởng. Trong thời Ngơ Đình Diệm chẳng thấy ông
Linh Mục nào đòi đa nguyên, đa đảng hay dân chủ, nhân quyền. Tại sao? Vì các
Ngài cịn đang hưởng ơn mưa móc của một đầy tớ Chúa, ở địa vị các lãnh chúa, hối
mại quyền thế, độc quyền bn lậu và bóc lột, cướp đất của dân, và kiếm linh hồn cho
Chúa.


Sau đây là một số hành động thiếu trình độ văn hóa, giáo dục những người nhân danh
chống Cộng. Một nghệ sĩ cải lương Bạch Tuyết cũng làm cho các người ùn ùn kéo
đến Chùa biểu tình phản đối. Một đồn trình diễn văn nghệ, hay một cuộc triển lãm
tranh ảnh cũng làm cho các người ra công biểu tình la ó chửi rủa ngăn chận hành hung
những người đi coi. Một vị sư sang chữa bệnh cũng làm cho các người xông xáo vào
Chùa thốt ra những lời hỗn hào vô lễ. Một vài chương trình TV tiếp vận từ bên nhà
cũng làm cho các người biểu tình phản đối, địi xóa bỏ. Các người cho rằng một nghệ
sĩ, một vài màn trình diễn văn nghệ cổ truyền, một vài vị sư sang chữa bệnh, một vài
bức tranh, một vài chương trình TV ở bên nhà v..v.. có thể làm cho lý tưởng quốc gia
của các người, những người đã chạy bán sống bán chết khỏi Cộng Sản, bị chao đảo.
Và còn nhiều nữa, làm sao kể ra cho hết. Như vậy, các người đã coi người Việt tỵ nạn
tồn như các người, sợ bóng sợ gió ảnh hưởng của một nghệ sĩ, của một ông sư, của
một chương trình TV v..v. từ trong nước ra. Các người đã làm nhục những người
quốc gia chân chính như đa số thầm lặng vì khơng muốn dây với hạng người như các
người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

những sự phản đối hung hăng của các người. Vậy những sự phản đối, những hành
động chống Cộng ấu trĩ của các người có tác dụng gì trong cộng đồng? Các người
hãy vắt tay lên trán suy nghĩ xem người quốc gia như các người có làm cái gì để vinh
danh người Việt Quốc Gia hay chỉ làm nhục thêm họ vì những hành động chống Cộng
vô lối của các người mà đã nhiều lần làm cho báo chí Mỹ phải lên tiếng dè bỉu. Các
người áp dụng y chang sách lược của Cơng Giáo: cấm tín đồ khơng được đọc thánh
kinh, không được đọc sách báo nào giáo hội không chấp thuận, khơng được đọc


sách…Giao Điểm, sợ tín đồ mất lòng tin. Nhưng sự bất lương của các người là chống
Cộng theo chính sách lưỡng chuẩn: Sư Phật Giáo từ Việt Nam sang thì chống phá,
ngược lại mấy ông đầy tớ Chúa rầm rập từ Việt Nam sang quyên tiền, cấm treo cờ
vàng ba sọc đỏ trong nhà thờ, thì các người im thin thít. Đó là quan niệm về tự do,
nhân quyền, đa nguyên đa đảng của các người đấy. Thật là xấu hổ. Thử hỏi, nếu các
người lên cầm quyền, thì quan niệm về tự do, nhân quyền, đa nguyên đa đảng của các
người sẽ đi xuống đâu, và đất nước sẽ trở nên thế nào? Nhưng lịch sử khó có thể tái
diễn với một Ngơ Đình Diệm thứ hai và một lũ quạ đen nhân danh tôn giáo để mà tự
tung tự tác, hà hiếp, bóc lột người dân.


<b>3. Hiện Tượng Chống Cộng Bằng Chiến Thuật “Mách Bu” Của Trần Ích Tắc:</b>


Trên trang nhà Chuyển Luân, tháng 11, 2006, có bài “Chuyện Xưa, Chuyện Nay” của
Quảng Thiện, trong đó có câu: “Yêu nước vốn là bổn phận thiêng liêng của bất cứ
<i>người dân của một dân tộc nào. Vì yêu nước nên giả sử có một cách nhìn, một chính </i>
<i>kiến, một chính sách khác đối lập với Nhà Nước cũng là chuyện bình thường. Tuy </i>
<i><b>nhiên yêu nước kiểu Trần Ích Tắc yêu cầu ngoại bang can thiệp vào nước mình là </b></i>
<i><b>một hành động khơng u nước chút nào, nếu khơng nói đó là hành động phản </b></i>
<i><b>quốc.” Ngồi ra cũng cịn bài ‘Vọng ngoại tắc ngu’ của </b></i><b>Trần Đình Hồng</b> cũng nói
lên cùng một ý tưởng. Thảm thay, ở hải ngoại không thiếu gì những Trần Ích Tắc
thời đại như vậy. Sau đây xin đơn cử vài sự kiện đậm mùi Trần Ích Tắc.


Những điều hoang tưởng vọng ngoại như “Cha đã tiên phong góp phần giải phóng
<i>quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con” (Bước Qua Ngưỡng Cửa Hi </i>
Vọng, trang 11), hoặc “Ủy ban Nhân Quyền Quốc Tế cho rằng…” hay “Tổ Chức Ân
<i>Xá Hoa Kỳ tố cáo rằng..”, “Dư luận cả thế giới và nhất là Quốc Hội Mỹ đều tập </i>
<i>trung xoáy vào điểm…” , hay ca tụng “Nghị Quyết của Hạ Viện Mỹ”, “Luật về tự do </i>
<i>tôn giáo thế giới của Mỹ” v..v.. để ép Việt Nam, đều nói lên “lịng u nước” của </i>
Trần Ích Tắc, đồng thời tỏ rõ sự yếu kém của những tổ chức tranh đấu hải ngoại, tự
mình khơng thể làm nên trị trống gì, cứ phải dựa hơi những tổ chức, cơ quan ngoại


quốc mà thực chất chẳng có ảnh hưởng gì trên quốc tế, nhất là đối với các nước Á
Đông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

says many remember the early pro-Christian rhetoric and believe the United States is
only interested in aiding American missionaries abroad.), và J. Paul Martin, Giám đốc
trung tâm nghiên cứu nhân quyền tại đại học Columbia còn đi xa hơn nữa. Ơng nói:
<i>“Ở các nước như Nga sô, Pháp, Bỉ, và Đức, nhiều người coi đạo luật về tự do tôn </i>
<i>giáo của quốc hội Hoa Kỳ là một phần của chủ nghĩa đế quốc rộng lớn hơn của Mỹ” </i>
(J. Paul Martin, executive director of Columbia University’s Center for the study of
Human Rights, goes further. In such countries as Russia, France, Belgium, and
Germany, he says, many see Congress’ action as “part of a larger American


imperialism”.) Nhưng người Việt chống Cộng lại coi đạo luật này như là một khuôn
vàng thước ngọc có ảnh hưởng đến tình trạng tơn giáo ở Việt Nam, hay nói đúng hơn,
có ảnh hưởng đến vài vị lãnh đạo tơn giáo chống chính quyền ở Việt Nam.


Người ta cũng còn tin tưởng ở hiệu quả của cái nghị quyết số 1481 mà nội dung là
<i>“Về sự cần thiết lên án của quốc tế đối với tội ác của các chế độ cộng sản độc tài” </i>
của một số nghị viên trong Quốc hội Âu Châu đưa ra, số nghị viên này quên cả sự cần
thiết lên án cái lịch sử đầy những tội ác vơ tiền khống hậu của Âu Châu đối với nhân
loại. Theo Christopher Caldwell thì cái gọi là Quốc Hội Âu Châu, có tổng hành dinh ở
Strasbourg, thường bị chế nhạo là “một tiệm phát ngôn vô hiệu quả và là nhà hưu trí
<i>cho những chính trị gia khơng bao giờ có thể được bầu vào trong quốc hội ở những </i>
<i>quốc gia của họ.” [The European Union's 25-country parliament, which sits in </i>
Strasbourg, is often ridiculed as a feckless talking shop and a retirement home for
politicians who could never get elected to their national parliaments.]


Vô thượng thiên tài “mách bu” là Võ Văn Ái: Chuyên viên ngụy tạo văn kiện, thông
tin giả từ trong nước theo đơn đặt hàng của NED để trình chủ và thế giới, từ đó kiếm
được gần trăm ngàn đô-la mỗi năm từ ông chủ NED. Những Trần Ích Tắc thời đại


cũng cịn thành lập phái đoàn nọ kia đến xin với Thủ Tướng Úc John Howard và Tổng
Thống Bush của Mỹ để làm áp lực với Nhà Nước khi đến Việt Nam tham dự Hội
Nghị APEC. Nhưng kết quả ra sao thì ai cũng biết. Bush và Howard không coi các
Trần Ích Tắc vào đâu, và đặc biệt, Mỹ đã bỏ Việt Nam ra khỏi danh sách những nước
cần quan tâm về vấn đề tự do tôn giáo. Bây giờ họ bèn quay ra lên án Bush là đã phản
bội, không ủng hộ họ, không làm theo ý họ, mà khơng hiểu rằng kẻ phản bội [quốc gia
của họ] chính là họ, chứ không phải là Bush. Họ tự coi mình là những nhân vật quan
trọng mà khơng hiểu rằng Bush khơng hề coi họ là cái gì. Thật vậy, họ có cái gì? trí
tuệ, uy tín, hậu thuẫn của quần chúng? v..v.. đáng để cho Bush phải quan tâm đến.
Thật ra thì Mỹ có bỏ hay khơng bỏ cũng chẳng nhằm nhị gì, vì đáng quan tâm hay
khơng đáng quan tâm thì Mỹ cũng chỉ lập danh sách đó với tính cách giai đoạn chính
trị và kinh tế mà thơi. Những người chống Cộng cực đoan hầu như đều có đầu óc của
những con bò mộng Tây Ban Nha, cứ thấy màu đỏ là húc, chẳng còn biết trời đất nào
nữa. Khi ngoại trưởng Condoleezza Rice tuyên bố một câu có ý khen tặng sự tiến bộ
của Việt Nam là “Bắc Hàn và Myanmar nên thay đổi, lấy Việt Nam làm một bài học
mà bắt chước” thì những người Việt Nam có tinh thần dân tộc đều thấy đó làm niềm
hãnh diện. Nhưng đối với những người chống Cộng đến chiều thì lại khác, họ lên án
bà Rice là thiển cận. Họ khơng biết rằng Bắc Hàn cịn đóng kín khơng mở cửa đi vào
cộng đồng thế giới như Việt Nam (Hội Nghị APEC đã chứng tỏ như vậy), và


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

về chính trị của Mỹ, cứ tưởng Mỹ gọi mình đến cho uống sâm banh là hết lịng ủng hộ
sát cánh với mình trong cuộc đấu tranh cho dân chủ của mình, khơng biết rằng Mỹ chỉ
dùng mình như cái bàn đạp trong những cuộc thương thuyết về kinh tế với Việt Nam.
Kinh nghiệm Mỹ dùng Diệm Thiệu khi xưa không làm mở mắt những người vẫn cịn
thích đi làm đầy tớ.


Vì khơng hiểu rõ tinh thần dân tộc của người dân Việt Nam, không nghiên cứu về
thực chất của vấn đề nhân quyền và tự do tôn giáo, không biết rằng Mỹ cũng là nước
vi phạm nhân quyền vào bậc nhất trong cộng đồng quốc tế, không thuộc lịch sử Việt
Nam, yếu kém về chính trị, và khơng rõ chính sách đối ngoại của Mỹ v..v.. cho nên


tới bây giờ mà vẫn cịn những tổ chức chính trị, lực lượng tôn giáo đi “mách bu”
mong rằng “bu” sẽ can thiệp vào nội bộ Việt Nam. Thật là đáng buồn. Thử nghĩ xem
Việt Nam có người nào tơn sùng những thứ người như Trần Ích Tắc hay Lê Chiêu
Thống? Những Trần Ích Tắc thời đại khơng những thiếu hiểu biết về chính trường
quốc tế, lại cũng không biết rằng đã từ lâu Á Đông không chấp nhận quan niệm về
nhân quyền của Tây phương, vì ngồi những bất đồng về văn hóa, xã hội, nhân sinh
v..v.. giữa những nền văn minh khác nhau, Á Đơng cịn coi sách lược lưỡng chuẩn
(double standard) về nhân quyền của Tây phương như là một sự áp đặt để đạt những
mục đích kinh tế, tôn giáo. Tây phương, với bản chất đế quốc, chưa bao giờ tôn trọng
nhân quyền ở các nơi khác trên thế giới. Noam Chomsky, một học giả lừng danh của
Mỹ, đã viết rõ:


<i>“Thật ra chính sách ngoại giao của Mỹ là đặt căn bản trên nguyên tắc khơng liên </i>
<i>quan gì đến nhân quyền, mà là liên quan nhiều đến sự tạo ra một bầu khơng khí </i>
<i>thuận lợi cho ngoại thương” (James Speck, Editor, The Chomsky Reader, p. 331: </i>
U.S. foreign policy is in fact based on the principle that human rights are irrelevant,
but that improving the climate for foreign business operations is highly relevant.)
Mơ tưởng ở sự hữu hiệu của chiến thuật “mách bu”, giới chống Cộng bây giờ mới ngã
ngửa người ra thất vọng, và các nhà bình luận nổi tiếng là bình luận láo trên các diễn
đàn truyền thơng hải ngoại, đã quay ra bình luận tiêu cực về chuyến đi Việt Nam của
ông Bush. Trước kinh nghiệm này, không hiểu họ đã chịu mở mắt ra chưa hay vẫn
còn hi vọng vào Hạ Viện Mỹ, Dân Biểu Mỹ, Quốc Hội Mỹ, Quốc Hội Âu Châu hay
vào vài cái nghị quyết, đạo luật ấm ớ mà thực chất chẳng có tác dụng là bao nhiêu.
Bây giờ tôi xin sang đến vấn đề cá nhân: chống hay không chống Cộng? Tôi không
ngần ngại mà khẳng định một điều: “Tôi không chống Cộng”. Tại sao? Tơi có bổn
phận phải giải thích cho bất cứ ai là tại sao không? Tuyệt đối là không. Nhưng đã
viết về chống hay không chống thì có lẽ tơi cũng nên có vài nhận xét về chủ đề này.
Trước hết, chúng ta cần phải nhận rõ một điều: “không chống Cộng” và “là Cộng” là
hai điều hoàn toàn khác nhau. Hai chữ “Cộng Sản” thực ra chỉ là cái mũ của những
người không đủ khả năng thảo luận trên các chủ đề, hoặc không thể chấp nhận những


quan điểm khác với quan điểm chống Cộng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

Thứ nhất, về cuộc chiến chống Pháp trở lại Đông Dương thì khơng có gì đáng nói, vì
cuộc chiến đó hầu như là của tồn dân, trừ số người đã phục vụ cho Pháp, trong đó có
tơi, vì hồn cảnh đã đưa đẩy tơi phải nhập trường Sĩ Quan Trừ Bị Nam Định, và sau
đó phục vụ trong quân đội Quốc Gia, dưới cái dù của quân đội Pháp, và sau này, trong
QLVNCH.. Có đáng nói hay không là kết quả đã đưa đến Hiệp Định Genève.


Một luận điệu bóp méo lịch sử thường thấy ở hải ngoại là: “Cộng sản cưỡng chiếm
<i>miền Nam”, hay “Cộng sản xâm lược miền Nam”. Những lời nói vơ trí này đặt trên </i>
giả định là hai miền Nam Bắc là hai quốc gia riêng biệt, độc lập. Muốn biết những
luận điệu này có khớp hay khơng, chúng ta cần trở lại vài điều khoản chính yếu trong
Hiệp Định Genève. Hiệp định Genève có hai phần: phần “Thỏa Hiệp” và phần
“Tuyên Ngôn cuối cùng” [Final Declaration]


Phần “Thỏa Hiệp…”, gồm 47 điều khoản, được ký kết giữa Tướng Pháp Henri
Delteil, Quyền Tổng Tư Lệnh Lực Lượng Liên Hiệp Pháp ở Đông Dương, và ông Tạ
Quang Bửu, Thứ Trưởng Quốc Phòng của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hịa. Có vài điều
khoản chính như sau:


Điều khoản 1 (Article 1) nói về sự thiết lập “một đường ranh giới quân sự tạm thời”
(A provisional military demarcation line) [Vĩ tuyến 17] để quân đội hai bên rút quân
<i><b>về: Lực lượng quân đội nhân dân Việt Nam ở phía Bắc, và lực lượng Liên Hiệp </b></i>
<i><b>Pháp (French Union) ở phía Nam làn ranh giới.</b></i>


Điều khoản 8 ấn định quyền kiểm sốt hành chánh ở phía Bắc Vĩ Tuyến 17 thuộc
<i><b>Việt Minh và ở phía Nam thuộc Pháp (Civil administration in the regroupment zone </b></i>
to the North of the 17th<sub> parallel was to be in the hands of the Vietminh, and the area to </sub>


the South of the parallel was to be in the hands of the French)



Điều khoản 14, đoạn (a) [Article 14, Paragraph (a)] viết rõ: “Trong khi chờ đợi cuộc
<i><b>Tổng Tuyển Cử để Thống Nhất Việt Nam, quyền hành chánh dân sự trong mỗi </b></i>
<i><b>vùng rút quân nằm trong tay các phe có quân đội rút quân (nghĩa là Pháp và Việt </b></i>
<i><b>Minh) theo tinh thần của bản Thỏa Hiệp.” (Pending the general elections which </b></i>
will bring about the Unification of Vietnam, the conduct of civil administration in
each regrouping zone shall be in the hands of the party whose forces are to be
regrouped there in virtue of the present Agreement). Bản “Tuyên Ngôn…” gồm 13
đoạn, liên quan đến cả Cambod và Lào, có một đoạn đáng để ý: Đoạn (6) [Paragraph
(6)] nguyên văn như sau:


<i><b> “Hội Nghị nhận thức rằng mục đích chính yếu của Thỏa Hiệp về Việt Nam là dàn</b></i>
<i><b>xếp những vấn đề quân sự trên quan điểm chấm dứt những đối nghịch quân sự và </b></i>
<i><b>rằng ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHƠNG THỂ DIỄN </b></i>
<i><b>GIẢI BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐĨ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ </b></i>
<i><b>CHÍNH TRỊ HAY ĐẤT ĐAI . Hội Nghị bày tỏ sự tin tưởng là thi hành những </b></i>
<i><b>điều khoản trong bản Tuyên Ngôn này và trong Thỏa Hiệp ngưng chiến sẽ tạo nên</b></i>
<i><b>căn bản cần thiết để trong tương lai gần đạt tới một sự dàn xếp chính trị ở Việt </b></i>
<i><b>Nam”</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

ANY WAY BE INTERPRETED AS CONSTITUING A POLITICAL OR
TERITORIAL BOUNDARY. The Conference expresses its conviction that the
execution of the provisions set out in the present Declaration and in the Agrrement on
the cessation of hostilities creates the necessary basis for the achievement in the near
future of a political settlement in Vietnam.)


Qua những văn kiện lịch sử này, chúng ta thấy rõ là “Việt Nam Quốc Gia” vốn nằm
dưới cái dù của Pháp, và phải thi hành Hiệp định Genève dưới cái dù của Pháp.
Nhưng khi Mỹ, dùng cường quyền thắng công lý, nhảy vào thay thế Pháp, đưa con cờ
“Cơng Giáo chống Cộng” Ngơ Đình Diệm về [Xin đọc bài “Vài Nét Về “Cụ Diệm”


trên giaodiemonline.com], dựng lên miền Nam, sống vì viện trợ Mỹ, chịu sự sai khiến
của Mỹ, chạy làng không chịu thi hành cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1956, và cưỡng
ép người dân phải chấp nhận một sự phân chia hai miền độc lập, phản bội điều khoản:
<i><b>“ĐƯỜNG RANH GIỚI QUÂN SỰ LÀ TẠM THỜI VÀ KHÔNG THỂ DIỄN GIẢI </b></i>
<i><b>BẤT CỨ BẰNG CÁCH NÀO ĐĨ LÀ MỘT BIÊN GIỚI PHÂN ĐỊNH VỀ CHÍNH </b></i>
<i><b>TRỊ HAY ĐẤT ĐAI” trong Hiệp định Genève. Đây là những sự kiện lịch sử. Ai có </b></i>
thể phủ bác được xin lên tiếng.


Nói tóm lại, khơng làm gì có chuyện chia nước Việt Nam thành hai miền độc lập về
chính trị và quân sự. Huyền thoại về một miền Nam độc lập như một quốc gia riêng
biệt chỉ là sản phẩm do Mỹ dùng cường quyền thắng công lý tạo ra về sau, tuy trong
bản Tuyên Ngôn Đơn Phương (Unilateral Declaration) của Mỹ về Hội Nghị Genève,
Mỹ không bao giờ nói đến “Nam” hay “Bắc” mà chỉ nói đến một nước Việt Nam
(Kahin & Lewis: <b>Nowhere in its unilateral declaration did the US speak of a </b>
<b>“South” or “North” Vietnam. Every reference of the American representative </b>
<b>was to a SINGLE VIETNAM.</b>). Ngoài ra Mỹ cũng đã hứa sẽ không đe dọa hoặc can
thiệp bằng võ lực vào việc thống nhất đất nước qua cuộc Tổng Tuyển Cử năm 1956.
Thật vậy, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ, Walter Bedell Smith xác định trong bản
Tuyên Ngôn tại Washington D.C. như sau:


<i><b>“Trong trường hợp những quốc gia nay bị chia đơi ngồi ý muốn, chúng ta sẽ tiếp </b></i>
<i><b>tục tìm kiếm giải pháp thống nhất qua bầu cử tự do, giám sát bởi Liên Hiệp Quốc </b></i>
<i><b>để bảo đảm là bầu cử được thi hành nghiêm chỉnh” và“Hoa Kỳ sẽ tự kiềm chế, </b></i>
<i><b>không đe dọa hay dùng võ lực để phá những sự Thỏa Hiệp”</b></i>


(In the case of nations divided against their will, we shall continue to seek to achieve
unity through free elections, supervised by the United Nations to ensure that they are
conducted fairly… The US will refrain from the threat or the use of force to disturb
them)



Trong cuốn The United States In Vietnam: An Analysis In Depth Of The History Of
<i>America’s Involvement In Vietnam, hai Giáo sư đại học Cornell, George McTurnan </i>
Kahin và John W. Lewis, viết, trang 59:


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

(Though the US said it would “refrain from the threat or the use of force to disturb”
the agreements, it soon become evident that it was prepared to use every other means
to back up the Saigon regime in its departure from their central provisions).


[Tưởng chúng ta khơng nên qn là ngay từ sau Hiệp Định đình chiến 1954, Mỹ đã
gửi Lansdale ra ngoài Bắc để phá hoại, tuyên truyền, và cổ võ giáo dân Công giáo di
cư vào Nam làm hậu thuẫn cho Ngơ Đình Diệm với những khẩu hiệu như “Chúa đã
vào Nam” và “Đức Mẹ đã bỏ miền Bắc vào Nam” v..v.. để dụ đám giáo dân thấp
kém. Vì vậy hơn 800 ngàn Giáo dân Cơng Giáo đã ào ào kéo vào Nam, không buồn
để ý đến chuyện những khẩu hiệu lố bịch trên đã chứng tỏ là nếu tin như vậy thì thành
ra Ơng Mác đã đuổi Chúa và Đức Mẹ chạy từ Bắc vào Nam, tuy rằng Chúa và Đức
Mẹ đều là những bậc tồn năng, tồn trí, quyền phép vơ cùng, làm gì cũng được, cùng
lúc chứng minh trình độ và ý thức tôn giáo của giáo dân Công giáo Việt Nam. Thật là
tội nghiệp cho đầu óc của họ.]


Hãy để tâm suy nghĩ một chút. Việt Minh động viên người dân, tốn bao xương máu
trong cuộc kháng chiến chống Pháp, cuối cùng đi đến chiến thắng Điện Biên Phủ,
chấm dứt nền đô hộ của thực dân Pháp, thu hồi độc lập cho đất nước, phải chăng chỉ
để chia nước Việt Nam thành hai miền riêng biệt, để cho miền Nam trù phú thóc gạo,
lâm, ngư sản thuộc quyền những kẻ khơng hề có một cơng trạng gì với đất nước như
Ngơ Đình Diệm, một người thuộc dòng họ Tam Đại Việt Gian như Giáo sư sử


Nguyễn Mạnh Quang đã chứng minh, và nằm yên trong vài Trường Dịng Cơng Giáo
ở ngoại quốc trong khi đa số người dân đang kháng chiến chống Pháp và một số nhỏ
hơn đang chiến đấu cho cái mà họ tin là lý tưởng quốc gia? Nếu khơng tin ở giải pháp
chính trị để tiết kiệm xương máu người dân thay vì theo đuổi giải pháp quân sự, là đất


nước sẽ thống nhất qua cuộc Tổng Tuyển Cử vào năm 1956 theo quy định của Hiệp
định Genève thì Việt Minh có chịu ký Hiệp định Genève không khi đang thắng thế.
Thống nhất đất nước là mục tiêu tối hậu không thể thay đổi của Việt Minh và rất hợp
với lòng dân, với truyền thống dân tộc, và xóa bỏ chính sách chia Việt Nam làm ba
Kỳ để trị của Pháp.. Nhưng Mỹ đã vì những quan niệm chính trị sai lầm về chính trị
nên đã dùng miền Nam làm tiền đồn chống Cộng cho Mỹ, vi phạm Hiệp định Genève,
và đưa Việt Nam vào một cuộc chiến tàn khốc vô ích vì kết cục khơng thay đổi: Việt
Nam vẫn đi đến thống nhất dù bắt buộc phải dùng đến giải pháp quân sự. Người Đại
Hàn rất ngưỡng mộ Việt Nam vì họ khơng biết đường nào để đi đến thống nhất đất
nước của họ, tuy muốn.


Tơi vẫn thường thắc mắc: “Miền Nam có hơn một triệu quân, một thời cộng với hơn
nửa triệu quân Mỹ, với đầy đủ vũ khí, đạn dược, và có ưu thế tuyệt đối về máy bay, xe
tăng, tàu chiến, B52, và cả thuốc khai quang Agent Orange để cho Việt Cộng khơng
cịn chỗ ẩn núp v..v.. nhưng tại sao vẫn không thắng nổi đối phương để rồi Mỹ phải
tìm cách Việt Nam hóa cuộc chiến, “rút lui trong danh dự”, và cuối cùng Việt Cộng
vẫn “cưỡng chiếm” được miền Nam? Vậy ngoài yếu tố quân sự, những yếu tố nào đã
quyết định cuộc chiến? Phải chăng là lịng u nước? Chính Nghĩa? Hợp với lòng
dân và được dân ủng hộ? Ý chí chiến đấu của binh sĩ? Khả năng chỉ huy của các cấp
lãnh đạo? Và cịn gì nữa? Vậy luận cứ “Việt Cộng cưỡng chiếm miền Nam” ở hải
ngoại có một giá trị trí thức nào khơng hay chỉ là nói để mà nói mà khơng biết mình
nói cái gì.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

chiến hậu Genève ở Việt Nam là cuộc chiến chống xâm lăng và thống nhất đất nước,
và Việt Nam có truyền thống chống xâm lăng rất kiên trì và chịu đựng mọi hi sinh.
Nhưng mà ai xâm lăng? Chúng ta hãy đọc vài tài liệu của Mỹ trong số hàng trăm tài
liệu khác:


Daniel Ellsberg trong cuốn Secrets: A Memoir of Vietnam and the Pentagon Papers,
Viking, <b>2002,</b> p.255, viết: Theo tinh thần Hiến Chương Liên Hiệp Quốc và theo


<i><b>những lý tưởng mà chúng ta cơng khai thừa nhận, đó là một cuộc ngoại xâm, sự </b></i>
<i><b>xâm lăng của Mỹ. (In terms of the UN Charter and our own avowed ideals, it was a </b></i>
war of foreign agression, American aggression.); và John Carlos Rowe and Rick Berg
viết trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Và Văn Hóa Mỹ (The Vietnam War and
American Culture, Columbia University Press, New York, <b>1991</b>), cũng viết, trang
28-29: Cho tới năm 1982 – sau nhiều năm tun truyền liên tục mà hầu như khơng có
<i>tiếng nói chống đối nào được phép đến với đại chúng – trên 70% dân chúng vẫn coi </i>
<i>cuộc chiến (ở Việt Nam) “căn bản là sai lầm và phi đạo đức”, chứ khơng chỉ là “một</i>
<i>lỗi lầm.”…Nói ngắn gọn, Mỹ xâm lăng Nam Việt Nam, ở đó Mỹ đã tiến tới việc làm</i>
<i><b>ngơ tội ác xâm lăng với nhiều tội ác khủng khiếp chống nhân lọại trên khắp Đông </b></i>
<i><b>Dương. (As late as 1982 – after years of unremitting propaganda with virtually no </b></i>
dissenting voice permitted expression to a large audience – over 70% of the general
population (but far fewer “opinion leaders”) still regarded the war as “fundamentally
wrong and immoral,’ not merely “a mistake”.. In short, the US invaded South


Vietnam, where it proceeded to compound the crime of aggression with numerous and
quite appalling crimes against humanity throughout Indochina.)


Bây giờ chúng ta hãy nhìn vào những con số tổn thất trong cuộc chiến do Mỹ gây nên
vì chính trị sai lầm như nhiều chính khách và học giả Mỹ đã thú nhận và nhận định.
- Mỹ: Chết 57,702; bị thương 313,616, cộng với hơn 1,000 chết không phải do
chiến trận.


- Nam Việt Nam: Chết 185,528; bị thương 499,026.


- Bắc Việt: Chết 924,048; số bị thương ước tính ít nhất gấp đôi.
- Cả hai miền: 415,000 thường dân chết; 936,000 bị thương.


- Trên 10 triệu tấn bom đã thả xuống Việt Nam, Cam bốt, và Lào (vào khoảng
gấp hơn 2 lần tấn bom mọi phe dùng trong đệ nhị Thế Chiến.)



- Mỹ cũng đã trải trên đất nước Việt Nam 76,954,806 lít hóa chất trong đó có
49,268,937 lít


chất độc màu da cam (Nguyễn Văn Tuấn, Chất Độc Màu Da Cam Và Cuộc Chiến
<i>Việt Nam,</i>


Giao Điểm 2005, trang 52).


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

những người quốc gia ở hải ngoại. Có vẻ như những người đi buôn thù hận này nghĩ
rằng, những người bên phía CS khơng phải là người, khơng có cha mẹ, vợ chồng con
cái, bạn bè thân thuộc v..v.. nên những mất mát tổn thất của họ không đáng kể, chỉ có
những tổn thất của phía chúng ta mới đáng để thù hận. Có vẻ như những người chống
Cộng một chiều này nghĩ rằng trong cuộc chiến chỉ có CS là ác, cịn QG hay Mỹ thì
khơng. Họ lầm to, họ khơng biết gì về những hành động đối với dân, với kẻ thù của
người lính Quốc Gia cũng như của người lính Mỹ.


Cộng Sản có Đặng Thùy Trâm. Chúng ta có ai? Chúng ta đã thua CS về quân sự, nay
chúng ta lại thua về tình người, vì ở trong nước, dư luận có luận điệu thù hận phe
quốc gia thật là hiếm hoi. Nhưng cũng may, những tổ chức CCCĐ, CCCB, CCCC ở
ngoại quốc chung quy chỉ là những tổ chức của đám người hoặc mất gốc, hoặc đã phi
dân tộc thì thể nào cũng phản bội dân tộc, đang nắm những phương tiện truyền thơng
ở hải ngoại nhưng thiếu khả năng, thiếu trí tuệ và giáo dục, nên chỉ có thể đưa ra
những hành động chống Cộng phi lý làm nhục lây đến cả cộng đồng người Việt di cư
như rủ nhau đi biểu tình chống phá Expo, triển lãm tranh ảnh, văn nghệ của Việt
Nam, chống phá phái đoàn các em học sinh về Việt Nam nghiên cứu trao đổi văn hóa
v..v… T<b>uyệt đại đa số người Việt di cư đã bỏ lại đàng sau quá khứ, hướng về </b>
<b>tương lai của dân tộc, bằng chứng là mỗi năm có hàng trăm ngàn “Việt kiều” về </b>
<b>thăm q hương, trong số đó khơng thiếu gì những người khi xưa đã giữ những </b>
<b>chức vị cao cấp ở miền Nam.</b>



Phải chăng vì vậy mà, Phật Giáo, vốn là tôn giáo của dân tộc, đang sửa soạn đi một
bước đi ngoạn mục đầy tình người, đầy tinh thần Phật Giáo, đầy tinh thần dân tộc, mà
đáng lẽ chính quyền Việt Nam đã phải thực hiện từ lâu rồi: Phối hợp Phật Giáo trong
và ngoài nước, trong tương lai gần, Phật Giáo Việt Nam sẽ tổ chức ba<b> Đại Trai Đàn </b>
<b>Chẩn Tế Giải Oan, một tại Sài Gòn, một tại Huế và một tại Hà Nội, để cầu </b>
<b>nguyện và giải trừ oan khổ cho tất cả những ai đã từng gánh chịu hậu quả khắc </b>
<b>nghiệt của cuộc chiến tranh, dù đã qua đời hay cịn tại thế. Các Đại Trai Đàn này</b>
<b>có tên là </b><i><b>Thủy Lục Giải Oan Bình Đẳng Cứu Bạt Trai Đàn. Oan khổ là tất cả những</b></i>
bất hạnh xảy ra ngồi ý muốn và khơng đáng xảy ra.


</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

<i>nước đã được thống nhất, hịa bình đã được tái lập, chúng ta có dịp trở về với nhau, </i>
<i>nắm tay nhau, chấp nhận nhau để cùng cầu nguyện cho nhau, cho những người đã </i>
<i>khuất và những người còn đang tiếp tục gánh chịu oan nghiệt, và để tất cả cùng có cơ</i>
<i>hội chữa lành những vết thương rướm máu lâu ngày chưa lành. Các Đại Trai Đàn </i>
<i>Chẩn Tế Giải Oan là một trong những hình thức thực tập chữa trị thương tích, nối kết</i>
<i>lại tình đồng bào ruột thịt, và làm vơi đi những oan khổ uất ức đã được chứa chất lâu</i>
<i>nay. </i>


<i> Chúng tôi biết, tổ chức những Đại Trai Đàn như vậy không phải là một chuyện dễ. </i>
<i>Sẽ có những người đồng bào khơng đồng ý với cơng việc này. Có thể vì đã từng bị </i>
<i>mất mát khổ đau và thiệt thòi q nhiều trong q khứ hoặc vì cịn sợ hãi khơng dám </i>
<i>nhìn nhận nỗi đau thương vẫn cịn chơn kín ở đáy lịng mình và ở đáy lịng những </i>
<i>người đồng bào mình, cho nên các vị ấy chưa mở trái tim của mình ra được. Tuy </i>
<i>nhiên, trái tim của đại đa số đồng bào ta hiện tại đã mở ra trên chiều hướng tha </i>
<i><b>thứ, chấp nhận; hầu hết đều ước ao có cơ hội chữa lành những thương tích rướm </b></i>
<i><b>máu cịn lại trong tâm hồn. Vì nhận thấy được điều đó nên chúng tơi đã dám đứng ra</b></i>
<i>làm công việc Phật sự này.” </i>


<i> Vậy đến bao giờ số người nhỏ nhoi, sống với dĩ vãng, nuôi dưỡng thù hận, đi ngược </i>


thời gian mới có thể mở được trái tim ra, mở để mà thấy kéo dài sự thù hận là một
điều phi lý, vì tất cả chúng ta đều là nạn nhân của một cuộc chiến không ai muốn, là
nạn nhân của một hồn cảnh lịch sử về chính trị và xã hội của một nước nhỏ, một
hoàn cảnh đã vượt ra khỏi vịng kiểm sốt của quốc gia chúng ta, vì các cường quốc
đã dùng cường quyền thắng công lý để can thiệp vào chuyện nội bộ của nước ta, và bỏ
đi tâm cảnh “mách bu”, trơng ngóng ở sự can thiệp của nước ngoài vào chủ quyền
Việt Nam.. Những bài tường trình về các chuyến về quê của nhiều tác giả, đặc biệt là
của Lý Thái Xuân, Nguyễn Mạnh Quang gần đây, cho thấy đất nước đã khác xưa và
mở mang tiến bộ rất nhiều về mọi mặt, kể cả về mặt tình người, trái hẳn với những
hình ảnh đen tối mà nhiều báo chí hay diễn đàn truyền thơng ở hải ngoại thường mô
tả. Những người về thăm quê, mấy trăm ngàn người một năm, tất nhiên phải thấy rõ
tình trạng đất nước ngày nay ra sao. Ai có thể lừa dối họ bằng những luận điệu xuyên
tạc bịa đặt vô căn cứ.


31 năm qua rồi, ngày nay, hơn 60% người dân Việt Nam sinh sau 1975, tại sao chúng
ta cứ còn đầu độc lớp trẻ bằng những hận thù của lớp trước. Ra công xuyên tạc, mạ lỵ
những người lãnh đạo đảng Cộng Sản bằng những ngôn từ hạ cấp không làm thay đổi
được một sự kiện lịch sử là chính người Cộng Sản đã thành công huy động được dân
chúng đánh đuổi thực dân Pháp và rồi thực hiện được thống nhất đất nước, phù hợp
với sự mong ước của tuyệt đại đa số người dân Việt. Ai không muốn cho đất nước
thống nhất, Trung Nam Bắc là một, xin hãy lên tiếng. Hay là chỉ có thể thống nhất
dưới bóng đen của cây thánh giá? Có chăng chỉ là bọn người vẫn cho rằng “Việt
<i>Cộng cưỡng chiếm miền Nam” hay sống trong tâm cảnh “Cha đã tiên phong góp </i>
<i>phần giải phóng quê hương Cha, và tiếp đến sẽ là quê hương chúng con”. Thật là tội </i>
nghiệp cho những loại đầu óc như vậy của họ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

Xichloviet


Đọc bài viết “ Cách Đối Xữ Giữa Người Thắng Kẻ Thua Trong Cuộc Chiến” của Tác
giả Phan Hoài Nam đăng lại trên kbchn.net tơi chợt nhớ cũng tác giả này từng có bài


viết có ý rằng phải để cho Tàu nó đánh VN thì . . . . dân ta mới phục hồi lại lịng u
nước. Lần này ơng ta lại khuyên người Việt nên học yêu nước theo kiểu … Mỹ. Bó
tay, chỉ có những người sùng Mỹ và rất hận CS mới có thể viết ra được như thế.
Viết lách lưu manh của dân chống cộng kiểu như PHN bao năm qua dù có che đậy thế
nào chăng nữa cũng không thể dấu được cái đi cho thấy họ cịn hận CS ghê lắm
nên viết lách thế nào cũng phải đã giò lái anh CS một cái mới hả dạ. Vòng vo tam
quốc tứ xứ thập phuơng xuyên tạc rồi cũng không nhịn được phải phang anh CS một
cái mới ăn được cơm.


Mở đầu bài viết anh PHN này đã trình làng ngay cái đi mình . PHN viết :


“Ai cũng biết chỉ có lịng u nước mới có thể giúp cho dân tộc VN thoát ra khỏi bế
<i>tắc hiện nay và để được sống đúng với nhân phẩm con người. “ </i>


Anh ta cho rằng dân tộc VN dù đang độc lập thống nhất dù đang phát triển dù thốt
khỏi đói nghèo được Liên hiệp Quốc đề cao, dù nhận được bao nhiêu lời ngợi khen
của thế giới thì vẫn đang “ bế tắc “ và chẳng có nhân phẩm tí nào. ( Tất cả cũng chỉ vì
CS đúng khơng ơng PHN?)


Đối với PHN và những người đang hăng say chống cộng thì suy diễn này rất dễ hiểu.
“Bế tắc” có nghĩa là dân Việt không dám làm cái cách mạng hoa lài hoa hồng như
PHN và các anh cờ vàng mong đợi. Đúng ra là PHN và các anh cờ vàng quá bế tắc
trong việc phát động người dân căm thù CS như mình, người dân không nổi dậy như
các anh kỳ vọng thế là PHN úp cái “bế tắc “ ấy ngay lên đầu người dân và các anh đổ
tại người dân không yêu nước cho nên CS mới mạnh, thế thôi, chẳng có gì lạ cả.
PHN viết:


<b> “</b> Cũng vì lòng yêu nước mà từ đầu thế kỷ 18, đã có những phong trào trí thức người
<i>Nhật tìm cách thốt khỏi quỹ đạo văn hóa của người Trung Hoa” ….. “Sự khác biệt </i>
<i>giữa đất nước chúng ta và nước Nhật cũng chính từ sự khác biệt về lịng u nước. </i>


<i>Cùng là một nước ở Á Châu, diện tích, dân số, tài nguyên gần như nhau nhưng một </i>
<i>nước thì giàu có và được cả thế giới kính nể, cịn nước kia thì ngược lại…”</i>


Viết như thế PHN hoặc là cố tình bơi nhọ dân tộc hoặc là khơng hiểu tí gì về văn
hóa và lịch sử Việt Nam.


Chẳng lẽ PHN không biết dù có những tương đồng nhiều mặt nhưng sự khác biệt lớn
nhất của nước ta với nước Nhật là khác biệt về lịch sử?


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

“Búi tó củ hành làm anh thiên hạ” đó là lời truyền miệng nhau trong dân gian cũng chỉ
để tạo bản sắc khác hẳn với người Tàu. Về ngôn ngữ, dân tộc ta có ngơn ngữ riêng,
lấy chữ nơm làm chữ viết riêng. Khi các nhà truyền đạo Ca tô theo chân đế quốc vào
nước ta phiên âm ngôn ngữ việt ra ngôn ngữ la tinh dễ học để phục vụ cho mục đích
truyền giáo thì dân ta không bỏ qua cơ hội dùng chữ này để mở mang dân trí và nó
trở thành quốc ngữ hồn tồn khác với người Tàu. Đó là tố chất thơng minh sáng tạo
và tinh thần học hỏi của người Việt, nó phát sinh từ lịng u nước, u dân tộc mà ra.
Cả dân tộc Việt cùng nhau bảo tồn văn hóa chứ khơng phải chỉ có trí thức Nhật tìm
cách thốt khỏi ảnh hưởng Tàu như PHN ba hoa.


Tục nhuộm răng là một nét văn hóa độc đáo của dân ta để phân biệt với các tộc người
khác và giữ gìn bản sắc dân tộc. Hầu như tất cả người dân Việt Nam từ kẻ nghèo cho
đến người giàu, từ giai cấp nông dân cho đến giới quan lại, điền chủ, hồng thân quốc
thích, vua chúa ai ai cũng nhuộm răng.Trong bài hịch củavua Quang Trung khi kéo
quân ra Bắc đánh giặc Thanh vào năm 1789 có câu liên quan đến tục nhuộm răng vì
đây là một tập tục quan trọng trong văn hóa người Việt.


<i>Đánh cho để dài tóc</i>
<i>Đánh cho để đen răng</i>


<i>Đánh cho nó chích ln bất phản</i>


<i>Đánh cho nó phiến giáp bất hồn…</i>


<i> Đánh cho sử tri nam quốc anh hùng chi hữu chủ”.</i>


Lời dụ này đã thể hiện rõ mục đích cuộc tiến quân (bảo vệ các truyền thống văn hóa
dân tộc như các tục để tóc dài, nhuộm răng đen khác Tàu) và quyết tâm đánh giặc đến
cùng (đánh cho kẻ xâm lược không kịp trở tay, thân không còn mảnh giáp) và khẳng
định chủ quyền quốc gia của Việt Nam (đánh cho lịch sử muôn đời biết rằng nước
Nam anh hùng này là nơi đất có chủ).


Sang thế kỷ 20, dân tộc ta đã cho thế giới thấy sức mạnh kỳ diệu từ lòng yêu nước
trong cuộc chiến tranh giành độc lập, quá thừa để bàn cãi ở đây.


Các anh cờ vàng và anh PHN này thường hay dùng nước Nhật để so sánh với VN và
đi đến kết luận là cùng một màu da, tương đồng về địa lý, và dân số nhưng người
Nhật phát triển vượt trội rồi đổ cái chậm tiến lạc hậu đói nghèo đó lên đầu nhà cầm
quyền thậm chí như PHN đổ cả lên đầu dân tộc ta.


So sánh VN với Nhật PHN khơng thể khơng biết hoặc biết mà cố tình lờ đi rằng ngay
từ năm 1894 Nhật đã đánh thắng Trung Hoa buộc phải nhường Đài Loan và công
nhận riều Tiên độc lập qua Hiệp ước Shimonosheki .


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

đáng kể ở Triều Tiên và Trung Quốc cho Nhật Bản. Theo đó, Tokyo được trao bán
đảo Kwantung cùng với cảng Arthur và phía nam đảo Sakhalin cho tới vĩ tuyến 50.
Và sau thất bại của Nga, các cường quốc phương tây buộc phải thừa nhận đất nước
mặt trời mọc là một sức mạnh vào hàng thế giới.


Đó là về hải qn, về khơng qn thì năm 1945 khi dân VN cịn chân đất kéo xe tay,
người kéo cày thay trâu và hơn 90% người dân mù chữ thì Nhật Bản đã có máy bay
đánh Trân Châu Cảng khiến Mỹ phải kinh hồn bạt vía, thất điên bát đảo.



Trước khi thua trận bằng 2 quả bom nguyên tử của Mỹ, Nhật từng đã xâm lược Trung
Hoa trong 8 năm trời từ năm 1937 đến 1945.


Những cây viết cờ vàng thường so sánh với Nhật hay Nam Hàn để chê bai dân tộc
mình, lèo lái suy nghĩ của người đọc về huớng tương đồng về văn hóa, địa lý, màu
da nhưng người Việt lại chậm tiến so với người họ, mà cố tình lập lờ, cố tình qn đi
lý do lịch sử hồn tồn khác nhau. Hoặc là họ lưu manh trí trá cố đánh lừa người đọc
hoặc họ không đứng ở góc nhìn của dân tộc để nhìn lịch sử mà họ đứng ở góc nhìn
của kẻ quen làm nơ lệ.


Hết so sánh với người Nhật, PHN lại so sánh cuộc chiến VN với cuộc nội chiến Mỹ
để đá giò lái CS, rồi khuyên dân ta nên . . . . .học Mỹ về lòng yêu nước.


PHN viết :”<i>Hy vọng rằng qua bài học về lòng yêu nước của người Mỹ và Nhật chúng</i>
<i>ta có thể rút được vài điểm nào đó để tìm cách xây dựng lại lịng yêu nước của người </i>
<i>Việt Nam</i><b>.” </b>


Xưa nay rất nhiều nước trên thế giới cho rằng cần học VN về lịng u nước chứ chưa
từng thấy có ai khun VN nên học lòng yêu nước từ Mỹ cả. Duy nhất chỉ có PHN có
đầu óc như thế.


Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, và nhất là sau 1975, cả thế giới đã phải nhìn nhận tinh
thần bất khuất và sức mạnh từ lòng yêu nước mãnh liệt của dân tộc VN. VN được
xem là tấm gương cho những nước thuộc địa, những nước bị cường quốc áp bức.
Ngay những chiến binh Mỹ cũng vô cùng ngạc nhiên về sức mạnh từ lòng yêu nước
của dân Việt và xem đó là tấm gương cho các nước yếu, thế mà PHN khuyên dân ta
phải học theo Mỹ mới có được lịng u nước. Chỉ có đầu óc quen làm nô lệ mới nghĩ
ra và can đảm viết lên điều này.



</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

Một quân đội được đẻ ra và nuôi dưỡng bởi đế quốc, được chỉ huy bằng những tướng
lãnh được đào tạo bởi thực dân và đế quốc như quân đội VNCH, bị sai khiến và lệ
thuộc hoàn toàn vào ngoại bang không thể so sánh với quân ly khai miền Nam trong
cuộc nội chiến Mỹ được.


Những người CS từng xác định trong chiến lược của mình là chỉ cần đuổi bố chạy thì
con sẽ chết, họ đã đúng và thưc tế đã chứng minh y như thế. Hiệp định Paris CSVN
cũng ở chiếu trên ký với bố Mỹ chứ không phải với con VNCH.


Từ bản chất cuộc chiến hoàn toàn khác nhau cho nên những so sánh của PHN về cuộc
chiến VN với cuộc nội chiến Mỹ hồn tồn khơng có giá trị.


PHN đề cao “tinh thần hào hiệp mã thượng” của người Mỹ, nhưng lại nhìn dân tộc
VN với cái nhìn đã bị Mỹ hóa và đầy hận thù cho nên thể không thấy được dân tộc ta
ứng xử nhân bản như thế nào với cựu thù.


Nói về tính nhân bản và tinh thần mã thượng của dân tộc ta thì chính người Mỹ phải
cơng nhận trước tiên. Những cựu binh Mỹ từng gây tội ác với nhân dân ta vô cùng
ngạc nhiên bởi thái độ của người dân đối với họ khi họ quay lại chiến trường xưa,
chính thái độ và cách hành xử nhân bản đó đã cảm hóa được rất nhiều người mà ta có
thể tìm thấy vơ số dữ kiện loại này trên interrnet.


Nếu so sánh điều này với người Nhật thì PHN hãy đọc bản tin sâu đây :
Tạp chí National Geographic Vol.182, No. 5 ra ngày 18 – 11- 1992 có bài
“Portugal’s sea road to the East” p. 56- 93, cho biết :


<i>Vào năm 1638 tại Nagasaki Nhật bản có khỏang 100 ngàn giáo dân Cơng giáo làm </i>
<i>nội ứng cho quân Bồ Đào Nha xâm chiếm Nhật. Triều đình Nhật cử tướng Lemitsu </i>
<i>đem đại quân đến đánh bật bọn xâm lược ra khỏi đất nước. Tất cả cha cố, thừa sai bị </i>
<i>tử hình, và 37 ngàn tên giáo dân Công giáo nối giáo cho giặc bị tiêu diệt . Một số tên </i>


<i>trốn thoát nhảy theo tàu Bồ Đào Nha trốn sang Hội An Việt Nam.”</i>


Ở VN chiêu trò của thực dân cũng chẳng khác gì . Nửa cuối thế kỷ 19 có đến 600
ngàn người theo tôn giáo này phá bỏ tập tục cha ơng, lìa bỏ nề nếp văn hóa dân tộc .
Tuy nhiên, trước khi Pháp đổ quân xâm chiếm Việt Nam, những người Công giáo
được coi là những cơng dân lầm lạc vì nhẹ dạ và ngu dốt nên Triều Đình và nhân dân
Việt Nam khơng nỡ ra tay với họ. Nhưng kể từ khi Pháp chiếm Đà Nẵng năm 1858,
đa số giáo dân Công giáo đã trắng trợn ra mặt theo giặc và phản bội Tổ Quốc.


“Năm 1873, 5000 giáo dân Ca tô dưới sự lãnh đạo của linh mục Trận Lục giúp Pháp
<i>hạ thành Ninh Bình và đánh chiếm chiến lũy Ba Đình cỉa Đinh Cơng Tráng.</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

<i>Trần Tử Ca, nguyên là một người bên lương, sinh trưởng tại Gò Vấp. Lúc đầu y đi </i>
<i>theo kháng chiến, nhưng sau đó y theo đạo, rời bỏ hàng ngũ kháng chiến theo giặc </i>
<i>chống lại Tổ Quốc. Năm 1862, Ca được Pháp bổ làm tri huyện Hóc Mơn. Năm 1865, </i>
<i>y đi theo quân đội Pháp càn quét các tỉnh miền Tây. Đêm 9-2-1885, Ca bị nghĩa quân</i>
<i>giết chết . </i>


<i>Huỳnh Công Tấn là một người Công giáo trong hàng ngũ nghĩa quân của Trương </i>
<i>Công Định từ 1861. Ngày 20-8-1864, Tấn phản bội, bất thần phục kích giết chết </i>
<i>Trương Định tại Gị Cơng. Ngày 19-9-1868, Huỳnh Cơng Tấn cùng với 127 lính tập </i>
<i>Cơng giáo vây bắt Nguyễn Trung Trực tại đảo Phú Quốc. Như vậy, riêng một mình y </i>
<i>đã sát hại được hai nhà cách mạng kháng chiến nổi tiếng tại Nam Kỳ. Y được Pháp </i>
<i>trao tặng Bắc Đẩu Bội Tinh cho hai chiến công lớn này ! </i>


<i>Tạ Văn Phụng, tức Phêrô Lê Duy Phụng, nguyên chủng sinh tại Penang, lấy danh </i>
<i>nghĩa là con cháu nhà Lê dấy binh khởi nghĩa tại Bắc Kỳ chống triều đình Huế năm </i>
<i>1858. Tạ Văn Phụng nhờ các giáo sĩ liên lạc với chính phủ Pháp để xin giúp đỡ. </i>
<i>Napoleon III đồng ý, và cử tên gián điệp Duval sang Việt Nam giúp Phụng với mục </i>
<i>đích biến Bắc Kỳ thành một xứ Cơng giáo với một chính quyền Cơng giáo. Duval đi </i>


<i>Macao mua vũ khí và giúp Phụng thành lập những đoàn quân gồm đa số là giáo dân. </i>
<i>Trong các tháng 6 và 7-1863, Phụng khởi quân đánh chiếm một vùng rộng lớn ở </i>
<i>đồng bằng Bắc Bộ gồn 3 tỉnh Quảng Yên, Hải Dương và Nam Định.Triều đình Huế </i>
<i>cử Nguyễn Tri Phương đem quân ra Bắc dẹp loạn. Tạ Văn Phụng bị bắt đem về Huế </i>
<i>xử tử. “(1)</i>


Nhìn những sự kiện lịch sử nêu trên, nếu so sánh hành động tàn sát giáo dân của
người Nhật với việc cấm đạo của vua quan các triều đại phong kiến VN thì VN cịn
q nhẹ, q hiền và quá nhân đạo.


Học gì từ “tinh thần hào hiệp mã thượng” của người Mỹ và người Nhật đây hả ông
PHN?


PHN viết :


“Người Việt Nam ngày nay không cịn mấy ai hãnh diện về đất nước “


Khơng hiểu PHN căn cứ vào đâu để phát biểu hàm hồ như thế, Cứ nhìn những giọt
nước mắt sung sướng nghẹn ngào mỗi khi cờ VN được kéo lên khi vận động viên đem
huy chương về cho tổ quốc. Cứ nhìn màu đỏ rực lửa trên sân vận động mỗi khi có đội
VN thi đấu. Cứ nhìn rừng cờ đỏ sao vàng xuống đường khi VN thắng trận đủ để thấy
PHN phát biểu lếu láo và vô cùng cảm tính. Cũng chỉ vì căm thù mà PHN hồ đồ dán
cái bất mãn của mình cho cả dân tộc.


PHN viết :


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

Và dĩ nhiên, sau khi bóp méo câu nói của Tướng Trà rồi so sánh với phát biểu của
tướng Ulysses Grant PHN phán thòng thêm một câu đá giò lái CS như sau :


“…câu nói của tướng Trần Văn Trà là câu nói mị dân, nằm trong mục đích tun


<i>truyền của chế độ để gạt tất cả những quân dân cán chính của VNCH, tin vào chính </i>
<i>sách “khoan hồng của Đảng”</i>


Thực tế Tướng Trà phát biểu không phải là trong lễ mừng chiến thắng như PHN viết,
mà phát biểu khi ông trực tiếp gặp tổng thống Dương Văn Minh, phó tổng thống
Nguyễn Văn Huyền, thủ tướng Vũ Văn Mẫu vừa thông báo quyết định, vừa truyền đạt
chính sách của cách mạng như sau :


<i>“Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã quyết định trả tự </i>
<i>do cho các ông về với gia đình. Giờ đây miền Nam Việt Nam đã được hồn tồn giải </i>
<i>phóng, nước Việt Nam độc lập và thống nhất. Cuộc chiến đấu của nhân dân Việt Nam</i>
<i>chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai đã toàn thắng…</i>


<i><b>Bây giờ đất nước Việt Nam đã độc lập và thống nhất, khơng phải là lúc nói chuyện </b></i>
<i><b>người thắng kẻ thua. Đối với chúng ta, khơng có kẻ thua, người thắng mà chỉ có </b></i>
<i><b>dân tộc Việt Nam chúng ta thắng Mỹ…</b></i>


<i>Mỗi người Việt Nam lúc này hãy thực hiện tốt chính sách hịa hợp dân tộc của Chính </i>
<i>phủ cách mạng lâm thời Cộng hịa miền Nam Việt Nam, đem hết sức lực và trí tuệ của</i>
<i>mình để góp phần xây dựng đất nước sau 30 năm chiến tranh tàn phá…”.</i>


Ngay từ những giờ phút đầu tiên khi đối phương đầu hàng Tướng Trà đã nói đến việc
hịa giải dân tộc.


Kiểu bóp méo xun tạc và so sánh trí trá xảo quyệt của PHN dễ làm cho những
người thiếu thông tin bị lừa. Nếu phải so sánh các hành xử của các tướng lãnh Nam
Bắc Mỹ trong cuộc nội chiến thì hãy so sánh với sự chống đối và ly khai của Ba Cụt
dưới chế độ VNCH là chính xác nhất. Ba cụt cũng ly khai và không chấp nhận quyền
lực của Ngơ Đình Diệm, Ba cụt cũng thất bại như các tướng miền Nam trong cuộc
chiến Nam Bắc Mỹ nhưng Ba Cụt thì cuối cùng bị Ngơ Đình Điệm . . . tử hình.


Khơng hiểu sao PHN khơng phân tích “tinh thần mã thượng” của chế độ VNCH và lý
do gì chế độ VNCH khơng học theo Mỹ trong trường hợp này nhỉ?


<i>Đứng trên quan điểm của kẻ phi dân tộc thì ln có hành xử phản dân tộc. Đứng trên </i>
<i>quan điểm của kẻ quen làm nơ lệ thì khơng bao giờ hiểu được giá trị đích thực của </i>
<i>độc lập tự do. Nhưng đó lại chính là góc nhìn của những kẻ chống cộng bao năm </i>
<i>nay . Chính từ góc nhìn này cộng với hận thù triền miên mà họ không bao giờ có </i>
<i>được niềm tự hào của người dân Việt như chúng ta. Họ bi quan cho cái tiền đồ </i>
<i>chống cộng của họ, họ đổ lỗi cho hoàn cảnh, họ đổ lỗi cho Cộng Sản và thậm chí đổ </i>
<i>lỗi cho cả dân tộc ta như luận điệu của cây viết cờ vàng PHN này.</i>


Đó cũng là lý do tôi đặt tựa cho bài viết này là “KHI KẺ NÔ LỆ DẠY TA YÊU
NƯỚC”


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

<b>HẬU QUẢ TÂM LÝ CHIẾN VÀ BỆNH TỰ KỶ ÁM THỊ CỦA CÁC</b>


<b>ANH CHỐNG CỘNG CỜ VÀNG</b>



02.12.2011



xichloviet


<b>Hình ảnh CS qua hệ thống Tâm Lý Chiến chế độ Saigon</b>


Dân cờ vàng chống cộng ngày nay hùng hổ lắm nhưng trong thâm tâm vẫn sợ và nể
CS. Chiến thắng của CS đã mở mắt họ ra và dạy cho họ một bài học quý vô cùng . Bài
học về cái giá phải trả vì khinh địch. Tại sao lại khinh địch? Đó chính là hệ quả tun
truyền của hệ thống tâm lý chiến chế độ Sài Gòn.


Cú hồi mã thương nặng nề các anh chống cộng cờ vàng phải lãnh chính là những luận
điệu truyền truyền chiến tranh chính trị của chính quyền Saigon đã đập ngược trở lại


lưng họ mà hậu quả của nó vẫn tồn tại hơn ba chục năm sau họ vẫn chưa hoàn hồn,
chưa làm cho họ hết run sợ CS, sợ bóng sợ gió, tự tưởng tượng ra mà sợ với nhau.
Nghi ngờ một tí là các anh cho rằng có Việt cộng nằm vùng. Những hiện tượng nào
khơng lý giải được thì các anh cho rằng CS đang xâm nhập tinh vi vào cộng đồng. Sợ
CS nhưng các anh cờ vàng lại cho rằng những gì CS làm đuợc là mình phải làm được.
Thế là các anh tìm cách bắt chước CS để chống cộng.


Hệ thống tâm lý chiến của Saigon tuyên truyền tạo ra hình ảnh anh cán binh VC ngu
đần khát máu chuyên khủng bố, pháo kích giết hại dân lành, và hầu hết những công
bộc của chế độ cờ vàng đều tin tưởng như vậy. Những hình ảnh được tâm lý chiến
dựng lên như tù binh VC nhếch nhác không quân phục, không giày dép đen đúa bẩn
thỉu. Những chiến sĩ miền Bắc thì được họ mơ tả là “răng đen mã tấu dép râu” 7 thằng
leo cây đu đủ không gãy. Họ mô tả những người CS là những kẻ dốt nát, là những tên
thảo khấu chưa hề biết đến văn minh loài người. Người dân thành thị trong chế độ
Sai gòn cả đời chưa bao giờ được biết mặt mũi anh cán binh cộng sản ra sao, nếu
được thơng tin thì hình ảnh tồn là những anh tù binh nhếch nhác bên cạnh những
anh hùng lính Cộng Hịa hiên ngang đang nở nụ cười chiến thắng.


Tâm lý chiến chế độ Saigon dựng lên bộ phim “Chúng tôi muốn sống” để tố cáo
chinh sách cải cách ruộng đất miền Bắc. Nó hiệu quả đến nỗi cho đến nay người ta cứ
tưởng những hình ảnh trong phim là sự thật. Hầu hết những dẫn chứng hình ảnh về sự
tàn bạo của chính sách cải cách rng đất miền Bắc trên hệ thống truyền thơng cờ
vàng đều trích dẫn từ phim này mà hồn tồn khơng hề có dẫn chứng hình ảnh nào
khác. Cho đến hơm nay các anh cờ vàng cũng vẫn dùng những hình ảnh trích trong
phim này để tố cộng và tha hồ phóng đại lên số nạn nhân. Cuốn tiểu thuyết “ Giải
khăn sô cho Huế “ do Nhã Ca, một nhà văn tâm lý chiến được giải thưởng của
Nguyễn Văn Thiệu bịa chuyện thì được xem là tài liệu “lịch sử” tố cộng tàn sát dân
thường năm Mậu Thân ở Huế. Hệ thống tâm lý chiến Saigon đã làm cho nó trở thành
“tài liệu” tố cộng của các anh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

Đối lập với những hình ảnh Việt cộng là hình ảnh anh chiến sĩ cộng hòa trang bị tận
răng oai phong lẫm liệt . Những nhạc phẩm và phim ảnh ca ngợi anh lính Cộng Hịa
phổ biến tràn lan khắp nơi mơ tả anh lính khơng qn đa tình hào hoa phong nhã,
anh lính hải quân lãng tử bồng bềnh nghệ sĩ hay những “anh hùng mũ đỏ” bụi bặm
oai hùng. Họ mô tả những cuộc hành quân đầy lãng mạn và cuộc đời lính đầy ắp tình
cảm em gái hậu phương.


Vào thời điểm Việt Nam hóa chiến tranh họ đặt những trung tâm tuyển mộ nhập ngũ
khắp nơi, quảng cáo rầm rộ cho các binh chủng bằng các hình ảnh oai hùng cùng
với số tiền thưởng đầu quân rất hậu hĩ tùy theo mức độ nguy hiểm của binh chủng.
Những nơi này tuyển mộ vơ vét nhứng thanh niên đang cịn đi học, đang được hỗn
dịch hoăc đã từng trốn lính. Việc tình nguyện nhập ngũ rất dễ dàng đến nỗi chẳng cần
miếng giấy tùy thân. Thế nên có rất nhiều trường hợp đào ngũ ở đơn vị này rồi tình
nguyện vào binh chủng khác để kếm tiền đầu quân.


Tại các trường trung học trước khi thi tú tài, trường sĩ quan Đà Lạt cho người đến tận
trường tuyên truyền chiêu dụ học sinh ghi tên thi vào võ bị. Họ nêu ra những quyền
lợi của sĩ quan hiện dịch như bằng sĩ quan tương đương cử nhân khoa học, ra trường
có bằng nhảy dù, bằng lái các loại xe, kể cả nhảy đầm. v.v. . để đánh vào tâm lý háo
thắng giới trẻ. Họ tô vẽ hình ảnh những sĩ quan Đà lạt phong lưu lịch lãm và oai
hùng. Hình ảnh những buổi lễ gắn an pha in ra các tờ bướm cùng với những sĩ quan
tương lai lịch lãm dạo phố bên bờ hồ Xuân Hương làm cho những chàng thanh niên
đang đi học phải thèm thuồng.


Đối với các cơ gái thì họ tun truyền hình tuợng người lính như một tiêu chuẩn của
các cơ. Hình ảnh những anh sĩ quan trẻ ngồi trên xe jeep bụi bặm chạy trên đường
phố luôn được các cô gái mơ ước. Những “anh hùng mũ đỏ”, hay những chàng trai
“tung cánh chim sắt” vào bầu trời, những chàng trai lướt sóng gởi những chùm “hoa
biển” cho các em gái hậu phương gây ấn tượng mạnh cho giới thanh niên cả nam lẫn
nữ.



Họ tuyên truyền cho thanh niên cái nhìn về quân đội như một nơi đầy ắp những
quyền lợi, được mọi người kính nể mà khơng gợi ra một lý tưởng nào. Mục đích
chiến đấu của lính Cộng Hịa được tun trun chỉ là chống cộng sản xâm lược, bảo
vệ tự do, rất mơ hồ không thuyết phục được thanh niên cho nên họ phải ra sức tạo ra
hình ảnh anh lính với những tố chất đẹp đẽ có thể chất kích thích tuổi trẻ. Người thanh
niên vào lính khơng vì lý tưởng cao cả nào mà chỉ muốn “thỏa chí tang bồng” .


Có rất nhiều học sinh bỏ học để đăng lính vừa có tiền đầu qn vừa thỏa chí tang
bồng như họ tưởng tượng. Quần áo người lính xuất hiện trên đường phố phải được ủi
thẳng nếp và hồ cứng, giày bốt đờ sô phải đánh xi bóng lống làm cho hình ảnh người
lính rất đẹp dưới mắt giới trẻ. Nhiệm vụ của người lính được giới trẻ hiểu như là trừ
gian diệt bạo, giang hồ hành hiệp kiểu quân tử Tàu mà không được trang bị một lý
tưởng vững chắc nào. Chính cái động cơ đi lính như thế đã làm cho quân đội Cộng
Hòa rất dễ tan rã khi đối mặt với hiểm nguy.


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

hằng ngày, sống nay chết mai lại khơng có động cơ chiến đấu họ trở nên bất cần đời,
tìm cách đào ngũ.


<b>Cú hồi mã thương từ hệ thống tâm lý chiến</b>


Vì xem Việt Cộng là thảo khấu, là bọn thổ phỉ cộng với sự bất đắc chí vì vỡ mộng cho
nên trong những duộc hành quân càn quét vào những ngôi làng những anh lính Cộng
Hịa là những kiêu binh vô tư cướp phá hoa màu gia súc, hãm hiếp người dân, chỉ cần
có nghi vấn là người dân đối diện với tra tấn dã man. Trong cuộc chiến đấu với du
kích Việt cộng họ ở ngồi ánh sáng, cịn Việt cộng trong bóng tối thoắt ẩn thốt hiện.
Họ không phân biệt được đâu là dân thường đâu là việt cộng. Khi bị tấn cơng có
thương vong họ điên cuồng lùng sục và tra tấn bất cứ người dân nào để truy tung tích
việt cộng trả thù. Cứ như thế người dân càng ngày càng căm thù họ và lén lút nuôi
chứa Việt cộng. Điều này giải thích tại sao hầu hết vùng nơng thơn VN đều do VC


kiểm sốt và họ thất bại là điều tất yếu.


Ngược lại người chiến binh Bắc Việt khi nhập ngũ được tuyên truyền về những khó
khăn sẽ phải đối diện kể cả hy sinh tính mạng. Họ được huấn luyện nhìn về phía
trước để giải phóng đất nước, có như thế họ mới nhanh chóng được đồn tụ gia đình.
Họ có mục tiêu để tiến tới, họ có lý tưởng để cầm súng. Hình ảnh người lính rất đơn
giản chỉ là người chiến sĩ giải phóng giản dị kiên cường bất khuất và ngùn ngụt tinh
thần chiến đấu.


Những luận điệu tuyên truyền tâm lý chiến về đối phương và về sự phồn vinh của “thế
giới tự do” đã làm mơ ngủ hầu hết những người lính và các công bộc của chế độ
Saigon và hậu quả của nó theo họ sang tận nước Mỹ đến nỗi mấy chục năm sau mà
họ vẫn chưa hiểu ra được tại sao họ phải bỏ chạy, cho đến nay họ vẫn luôn than trách
rằng “CS cưỡng chiếm miền Nam”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25>

Quả thật các tiện nghi thành phố kiểu Mỹ đã làm choáng ngợp các chiến binh Bắc
Việt và họ thật sự ngạc nhiên với đuờng phố thành thị Miền Nam nhưng điều quan
trọng là họ đã thích nghi nhanh chóng và làm nhiệm vụ quân quản một cách xuất sắc,
không để xảy ra cướp bóc hỗn lọan, trật tự xã hội được vãn hồi nhanh chóng chưa
từng thấy. Cả triệu quân của chế độ Sai gon tan rã nhưng khơng hề có biến lọan, ngày
01.5.1975, nghĩa là chỉ 1 ngày sau khi cắm cở trên dinh Độc Lập. họ đã có thể tổ chức
thành cơng một cuộc mít tinh trật tự với hàng chục ngàn người trước Dinh Độc Lập
tràn đến tận sân Hoa Lư.


Chạy sang Mỹ có thì giờ ngẫm lại các anh cờ vàng mới thấy những nguời CS chiến
đấu rất hiệu quả và thực chất hơn hẳn quân đội của họ. Để có một quả pháo mà bắn
họ phải bỏ biết bao nhiêu cơng sức và xương máu để vận chuyển nó hàng ngàn cây số.
Họ chắt chiu từng viên đạn, từng miếng lương khơ. Khơng cần nón sắt, khơng cần bốt
đờ sơ không cần trực thăng vận, họ trèo đèo vượt suối cả ngàn cây số và tất cả đều
nhìn ra phía trước. James G. Zumwalt một cựu binh Mỹ viết trong hồi ký BARE


FEET, IRON WILL rằng quân Mỹ chiến đấu nhưng ln nhìn về phía sau là hậu
phương của họ và mong mỏi ngày về cịn đối phương thì nhìn về phía trước mong
đánh đuổi họ càng sớm càng tốt. Đó là lý do tạo nên sức mạnh quân đội Bắc Việt làm
nên chiến thắng.


<i><b>Bắt chước CS để chống cộng</b></i>


Các anh cờ vàng nhận ra sức mạnh của CS thì đã quá muộn, khi đã ngồi ở tận xứ
người mà ngẫm sự đời. Nhận thấy rất nhiều đồng hương còn đang cay cú CS, những
năm đầu sau 1975 một số anh cờ vàng bắt đầu bắt chước CS lập ra “chiến khu” để
chụp hình bịp đồng hương. Ngày xưa Việt Cộng khởi nguồn từ chiến khu nên ta cũng
phải có chiến khu. Thế là họ bắt đầu tưởng tượng ra cái chiến khu phục quốc. Họ cũng
cái khăn rằn quấn cổ y như du kích quân từng làm, cũng mặc bà ba đen y như hình
ảnh Việt cộng được tâm lý chiến tuyên truyền. Cả một quân đội được dựng lên bằng
tiền của Pháp, Mỹ mà không trụ nổi thế mà các anh này bắt đầu lại bằng con số không
lại hoạt động bằng tiền đi xin của đồng hương. Khối người nhận ra mình bị bịp thì đã
muộn, chỉ biết lắc đầu ngao ngán.


Chiến thắng kỳ diệu của CS làm các anh cờ vàng cứ ngớ người ra dụi mắt mãi mà vẫn
tưởng như ngủ mơ. Vừa mới hơm trước cịn nhảy đầm được ở Saigon thì hơm sau
Việt cộng đã tràn ngập mà người ít theo dõi tin tức khơng thể nhận ra có dấu hiệu nào
là Saigon thất thủ nhanh đến thế.


Thế nhưng sang đến Mỹ các anh cờ vàng vẫn không chịu công nhận là Người CS
chiến thắng và cũng khơng nhìn nhận là CS giỏi. Các anh vẫn cho rằng CS “ăn may”
và sở dĩ CS chiến thắng là vì CS giỏi bịp dân, giỏi nói láo giỏi lươn lẹo chứ dốt nát
như CS không thể nào thắng Mỹ được. Các anh tìm đủ mọi lý lẽ để biện minh cho cái
thất bại cay đắng tủi nhục của mình mà khơng bao giờ chịu “tâm phục khẩu khục” đối
phương. Đây cũng là hậu quả của những viên thuốc tâm lý chiến ngày xưa đầu độc
các anh.



</div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

quấn khăn rằn chụp hình cho nó gây ấn tượng rồi các anh nói láo là dân trong nước
đang ngùn ngụt căm thù chỉ chờ các anh về là nổi dậy. Các anh phải nói láo để kiếm
tiền. Các anh nghĩ rằng là nếu có tiền các anh sẽ có chiến khu như Việt Cộng và các
anh sẽ làm được điều gì đó cho bà con tin và để kiếm tiền tiếp.


Các anh cờ vàng từng chứng kiến các cán binh VC tù chính trị của chế độ Cộng Hòa
rất hiên ngang bất khuất mà các anh không thể hiểu nổi tại sao. Các anh được tâm lý
chiến tuyên truyền rằng CS có biệt tài “nhồi sọ” làm cho con người u mê mù quáng.
Thế nhưng chính các anh cũng phải thầm thán phục sức chịu đựng và ý chí kiên
cường của họ. Trong tù thì tù chính trị nó có vẻ “danh giá “ hơn các tù khác vì họ có
mục tiêu lý tưởng, họ bị bắt do chống lại chế độ bằng nhiều cách khác nhau và bị bắt.
Tù chính trị có đủ hạng người, từ cậu SV đến anh xích lơ làm giao liên, từ nhà sư đến
các cán bộ đặc công nội thành. Sau chiến tranh VN họ lập ra hội cựu tù chính trị Cơn
Đảo, Phú Quốc, v.v … để cùng nhau ôn lại quá khứ đau thương và giáo dục truyền
thống cho lớp trẻ.


Các anh sĩ quan cờ vàng thì khác hẳn . Chiến tranh kết thúc các anh vào tù là do các
anh phải tự động nộp mạng để vào tù chẳng có ai bắt các anh cả. Các anh vào tù
khơng anh nào có tính chất chính trị. Các anh đã thua trận các anh không bao giờ
được xếp loại tù chính trị. Thế nhưng sang Mỹ các anh nhận vơ lập ra cái gọi là “Hội
cựu tù nhân chính trị “ cho nó oai. Ở tù vì là bại binh bị bắt nhốt thì nó nhục nhã ê
càng quá cho nên các anh tìm cách tự sướng với nhau bằng cách chơi chữ bằng cách
phong cho nhau cái nhãn “tù chính trị”. Một lần nữa các anh lại bắt chước ăn theo CS
nhưng quá vụng về rồi.


Người ta thường lầm tưởng trò biểu tình chống cộng là sáng kiến độc quyền của các
anh cờ vàng nhưng không phải thế, các anh cũng bắt chước học đòi theo CS nốt. Tuy
nhiên cái khác nhau là CS phát động biểu tình thì hiệu quả ngay và gây chấn động
mạnh đến nhà cầm quyền Saigon, cịn các anh thì gãi ngứa CS cúng không được.


Ngày xưa, CS phát động những cuộc biểu tình rất có hiệu quả, người dân, SVHS
xuống đường rầm rộ bằng nhiệt huyết và sức mạnh đoàn kết to lớn làm cho chính
quyền Cộng Hịa của các anh thất điên bát đảo, nhưng khó mà tóm được anh Việt
Cộng nào lãnh đạo đồn biểu tình. Ngày nay thì chỉ có các anh xuống đường biểu tình
với nhau, chẳng phát động được ai. Thiếu quân các anh trưng dụng cả con nít cho nó
đeo khẩu hiệu lên cổ để lấy con số. Anh nào hung hăng vênh váo nhất cứ cố chường
hết cả mặt ra để chứng tỏ ta quan trọng nhất, để cho CS nó chấm điểm. Các anh u mê
đến nỗi khơng hiểu tại sao các anh biểu tình 36 năm mà CS nó cứ trơ trơ, trong khi
ngày xưa nó biểu tình chính phủ ta một phát là rung động đến tận nước Mỹ.


CS nó tuyên truyền cho dân là các anh bán nước để kích động lịng dân. Nó nói khơng
sai. Các anh ăn lương Mỹ làm theo lệnh Mỹ, nó cắt viện trợ thì các anh than khóc, Mỹ
bảo ký hiệp định xếp anh ở hàng chiếu dưới thì các anh chẳng dám cãi dù rằng hiệp
định quá nhục và bất lợi cho các anh, Mỹ chạy thì các anh chạy theo. Các anh để Mỹ
muốn làm gì thì làm trên đất nước các anh kể cả giết đồng bào anh để đổi lấy những
đồng đơ la Mỹ thì khơng gọi các anh là bán nước thì gọi là cái gì?


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

anh. Xui cho các anh là internet nó ra đời và phát triển vũ bão, nó cứ vạch trần tênh
hênh bộ mặt nói láo đểu cáng của các anh ra. Nếu có ai hỏi CS nó bán đất lấy được
bao nhiêu? Các anh chỉ biết ú ớ nói chung chung cho nó qua chuyện. Các anh bắt
chước CS nhưng chỉ biết bắt chứớc như con khỉ trong rạp xiếc, chẳng có tí chất xám
nào thì chống cộng thế nào được đây?.


<b>Trị bệnh phải dùng thuốc</b>


Gần 4 thập kỷ rồi mà trong đầu các anh cờ vàng vẫn còn nỗi ám ảnh mang tên Cộng
Sản. Nỗi ám ảnh này nó làm lu mờ lý trí các anh khiến các anh suy luận theo kiểu đã
là CS thì phải độc tài dã man tàn bạo, phi dân chủ, chà đạp nhân quyền, đàn áp tôn
giáo, đè đầu cưỡi cổ người dân v.v…



Từ cái tiền đề được tâm lý chiến đóng đinh vào não các anh như thế cho nên nếu có
ai đưa ra hình ảnh người CS khác với những điều các anh nghĩ là các anh cho rằng
tuyên truyền cho CS. Con cái các anh suy nghĩ khác các anh các anh cũng cho rằng bị
văn hóa vận CS tuyên truyền. Đối với các anh thì CS khơng bao giờ tốt và khơng thể
tốt được, nếu có ai nhận thấy CS tốt ở điểm nào thì các anh suy luận là CS giỏi tuyên
truyền, giỏi bịp, giỏi nhồi sọ.


Rất nhiều đồng bào như các anh đã giải được cái hậu quả độc hại của liều thuốc tâm
lý chiến ngấm vào người từ ngày xưa bằng cách về VN xem CS nó thế nào và họ hầu
như ai cũng đã trút đi được nỗi tự kỷ ám thị nặng nề đeo bám họ quá lâu rồi.


Thuốc giải có sẵn đấy, vấn đề là các anh có chịu chữa bệnh không mà thôi.

<b>Vài Ý </b>



<b>Kiến </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

<b>“Thỉnh </b>



<b>Nguyện </b>


<b>Thư" </b>



Trần Chung Ngọc
đăng ngày 09/03/2012


Tôi đã tiên đoán vụ việc “thỉnh nguyện thư” sẽ như thế nào, nhưng khơng có
ý kiến trước khi vụ việc ngã ngũ. Việc xong rồi tơi mới có vài ý kiến. Chắc
quý vị đã hiểu tại sao. Nếu những ý kiến này đưa ra trước vụ Tổng Thống
Obama “xin gặp” “cộng đồng” người Việt (theo Nam Lộc), chắc phần lớn
khơng cịn giữ quốc tịch Việt, để thi hành “thỉnh nguyện thư” của cộng đồng
130000 chữ ký, cứ cho tất cả là thật đi, trên số gần 3 triệu của tồn thể cộng


đồng ở hải ngoại, thì chắc Chu Tất Tiến sẽ kiếm tôi cho 2 viên đạn vào đầu
chứ khơng phải chỉ có 1.


Việc Tổng Thống Obama “xin gặp” cộng đồng (theo Nam Lộc), mà không phải
là cộng đồng, vì cộng đồng chỉ gồm có vài trăm người, từ em bé 3 tuổi cho
đến lão ông 93 tuổi, không đại diện cho ai, không đại diện cho cộng đồng,
quả thật là một biến cố lạ lùng nhất hành tinh. Nhưng Tổng Thống Obama
chưa hội đủ duyên, thành ra xin mà không được gặp “cộng đồng”, thật là rất
đáng tiếc, có thể ơng ta sẽ mất ăn mất ngủ về chuyện này. Ông ta thật là “vơ
lễ” (theo Việt Dzũng) vì chỉ cho mấy quan chức cấp dưới, thấp lè tè, chẳng có
tên tuổi gì, chẳng có chức vụ gì quan trọng trong ngành ngoại giao hay ở vị
thế hoạch địch chính sách của chính phủ. Đó chỉ là hai giám đốc của hai văn
phòng mới thành lập, phụ trách xếp đặt việc tiếp xúc với quần chúng (Office
of Public Engagement) và với các sắc dân trên toàn cầu (Office of Global
Engagement). Nhiệm vụ của họ là nghe rồi trình lên cấp trên.


</div>

<!--links-->

×