Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY DOANH NGHIỆP CỦA NHTM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (172.08 KB, 26 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CHO VAY
DOANH NGHIỆP CỦA NHTM
Chương 1 “Những vấn đề lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp của
NHTM” bao gồm ba nội dung chính: Một là lý luận về cho vay doanh nghiệp
của NHTM; Hai là lý luận về chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM; Ba
là các nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng cho vay doanh nghiệp của NHTM.
1.1. CHO VAY DOANH NGHIỆP CỦA NHTM
Trong phần này, trước hết cần điểm lại một số hoạt động cơ bản của
NHTM với trọng tâm là hoạt động cho vay để làm cơ sở đưa ra lý luận về cho
vay doanh nghiệp của NHTM.
1.1.1. Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.1.1. Khái niệm và đặc trưng của NHTM
Ngân hàng là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh
tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế
nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó ngân hàng thương mại
thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân
hàng.
Trước đây, luật pháp của các nước thường đưa ra khái niệm về NHTM theo
chức năng hoạt động, như khái niệm của Thomas P.Fitch dưới đây: “Tổ chức
ngân hàng là một công ty nhận tiền gửi, thực hiện cho vay, thanh toán séc và
thực hiện các dịch vụ liên quan cho công chúng... NHTM đầu tư quỹ từ các
người gửi tiền để cho vay”. Ở Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín
dụng và công ty tài chính năm 1990 ghi rõ: “NHTM là một tổ chức kinh doanh
tiền tệ mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng
với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ
chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.
Ngày nay, khái niệm về NHTM không đơn giản như vậy nữa. Nguyên nhân
là do chức năng hoạt động của NHTM đã và đang thay đổi cùng với sự thay đổi
về chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính của ngân hàng. Thực tế là, những
chức năng độc quyền của NHTM đang bị thu hẹp lại, bởi các tổ chức tài chính –
bao gồm cả các công ty chứng khoán, quỹ tương hỗ và công ty bảo hiểm đều cố


gắng cung cấp các dịch vụ của ngân hàng. Còn NHTM đối phó lại các đối thủ
cạnh tranh bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ về bất động sản và môi
giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, đầu tư vào quỹ tương hỗ và
thực hiện nhiều dịch vụ mới khác. Chính điều này đã gây ra sự nhầm lẫn trong
việc phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính khác. Do đó, để phân biệt
NHTM với các tổ chức tài chính, Peter S.Rose đã đưa ra khái niệm về NHTM
theo cách tiếp cận từ những loại hình dịch vụ mà ngân hàng cung cấp: “Ngân
hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các
dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh
toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức
kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Vậy NHTM có những đặc trưng gì? Đặc trưng của NHTM được thể hiện
qua những khía cạnh sau:
Thứ nhất, NHTM là một tổ chức tài chính nên khác với các doanh nghiệp
khác, NHTM không cung cấp các hàng hoá, dịch vụ thông thường mà đối tượng
kinh doanh của nó là tiền tệ.
Thứ hai, NHTM là một tổ chức tín dụng; do đó, chức năng trung gian tài
chính của NHTM khác với chức năng trung gian tài chính của các tổ chức tài
chính trung gian khác (công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo
hiểm, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư...) ở chỗ NHTM được thực hiện đồng
thời hai nghiệp vụ huy động vốn và cho vay. Theo đó, một mặt NHTM huy
động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức kinh tế, các cơ quan đoàn thể và tiết
kiệm của dân cư; mặt khác trên cơ sở nguồn vốn đã huy động được, NHTM sử
dụng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế. Điều này cho thấy,
NHTM đã thực hiện điều hoà vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu, chuyển vốn từ nơi
có ít cơ hội đầu tư đến nơi có nhiều cơ hội đầu tư; qua đó, thúc đẩy quá trình tái
sản xuất của doanh nghiệp, kích thích quá trình luân chuyển vốn của xã hội và
tạo lợi ích công bằng cho cả 3 bên trong mối quan hệ: người cho vay, ngân hàng
và người đi vay.
Cũng từ chức năng này mà NHTM được đặt vào vị trí làm trung gian thanh

toán và thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. NHTM làm trung gian
thanh toán khi nó thực hiện thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích
tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ hoặc nhập
vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác
theo lệnh của họ. Với chức năng này, các NHTM cung cấp cho khách hàng
nhiều phương tiện thanh toán thuận lợi như séc, uỷ nhiệm chi, uỷ nhiệm thu, thẻ
rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng... Tuỳ theo nhu cầu, khách hàng vừa có thể
lựa chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp, lại tiết kiệm được chi phí,
thời gian và đảm bảo được thanh toán an toàn. Cùng với chức năng thanh toán,
chức năng tạo phương tiện thanh toán được thực hiện thông qua hoạt động cho
vay của NHTM. Bằng việc cho vay, NHTM làm cho số dư trên tài khoản tiền
gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, qua đó làm cho khối lượng tiền tệ M
1
tăng lên (M
1
bao gồm tiền mặt lưu thông ngoài hệ thống ngân hàng và tiền gửi
không kì hạn tại ngân hàng) và vì vậy tạo phương tiện thanh toán. Mặt khác,
theo mô hình tạo tiền đơn giản, với hai giả thiết: một là, các NHTM cho vay ra
hoàn toàn bằng chuyển khoản, không cho vay ra bằng tiền mặt và khách hàng
không có nhu cầu rút tiền mặt, tiền sử dụng trong giao dịch chỉ là tiền tín dụng;
hai là, hệ thống NHTM cho vay hết, chỉ giữ lại dự trữ theo quy định của
NHTW... thì toàn bộ hệ thống NHTM cũng tạo phương tiện thanh toán khi các
khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở
cho vay. Chức năng này chỉ ra đặc trưng của NHTM ở chỗ với một khối lượng
tín dụng mà NHTM cho vay ra, NHTM làm tăng khả năng tạo tiền của cả hệ
thống và từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng trong nền kinh tế - điều mà không
một tổ chức nào trong nền kinh tế có thể làm được.
Thứ ba, NHTM thường phát triển hoạt động theo xu hướng đa năng, tức là
cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng cho mọi đối tượng. Điều này cho phép phân
biệt NHTM với tổ chức tín dụng khác (các hiệp hội cho vay và tiết kiệm, các

ngân hàng tiết kiệm tương trợ, các liên hiệp tín dụng) – vốn cũng là những tổ
chức tài chính trung gian được thực hiện đồng thời hai nghiệp vụ huy động vốn
và cho vay – khi mà những tổ chức này hoạt động trong phạm vi hẹp hơn, chỉ
tập trung cung cấp một số dịch vụ ngân hàng cho những đối tượng nhất định
theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2.Các hoạt động cơ bản của NHTM
Trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, các hoạt động của
NHTM đã ngày càng trở lên đa dạng và phong phú. Các hoạt động cơ bản nhất
của NHTM bao gồm:
• Hoạt động huy động vốn
Huy động vốn là hoạt động hình thành nên nguồn vốn kinh doanh cho ngân
hàng. Hoạt động này bao gồm các nghiệp vụ sau:
• Hình thành vốn tự có và quỹ ngân hàng
• Huy động vốn nợ theo các hình thức sau:
 Huy động tiền gửi của khách hàng
 Vay trên thị trường vốn
 Vay NHNN
 Vay các tổ chức tín dụng khác trên thị trường liên ngân hàng
 Vốn nợ khác: bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán và các
nguồn khác.
• Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn của NHTM bao gồm các nghiệp vụ liên quan đến việc
sử dụng các khoản vốn huy động được từ hoạt động huy động vốn:
• Thiết lập dự trữ
 Tiền mặt tại quỹ
 Tiền gửi tại NHNN
 Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng khác
• Đầu tư vào các chứng khoán có tính thanh khoản cao
• Tín dụng: Đây là nghiệp vụ sử dụng phần lớn nguồn vốn hoạt động của
NHTM. Theo hình thức tài trợ, tín dụng được chia thành chiết khấu thương

phiếu, cho vay, bảo lãnh và cho thuê tài chính.
• Hoạt động trung gian
Hoạt động trung gian là hoạt động mà NHTM thay mặt khách hàng thực hiện
việc thanh toán hay các uỷ thác khác để thu lệ phí. Hoạt động trung gian thường
bao gồm các nghiệp vụ sau: Chuyển tiền, thanh toán hộ, thu hộ, uỷ thác, mua
bán hộ, kinh doanh vàng bạc đá quý để kiếm lời, làm tư vấn về tiền tệ, tài
chính...
Hoạt động cho vay là hoạt động tạo ra lợi nhuận chủ yếu cho NHTM.
Theo khoản 1 điều 3 của Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001
của Thống đốc NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng
đối với khách hàng “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín
dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và
thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi”.
Hoạt động cho vay của NHTM có thể chia thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo
mỗi tiêu thức phân loại:
• Nếu chia theo đối tượng khách hàng, hoạt động cho vay của NHTM được
chia thành:
 Cho vay khách hàng doanh nghiệp
 Cho vay khách hàng cá nhân
• Nếu chia theo mục đích cho vay, hoạt động cho vay của NHTM được chia
thành:
 Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh
 Cho vay tiêu dùng cá nhân
 Cho vay bất động sản
 Cho vay nông nghiệp
 Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu
• Nếu chia theo thời hạn cho vay, hoạt động cho vay của NHTM được chia
thành:
 Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay có thời hạn dưới 1 năm.
Mục đích của hình thức cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư

vào tài sản lưu động.
 Cho vay trung hạn: là loại cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. Mục
đích của hình thức cho vay này là nhằm tài trợ cho việc đầu tư vào
tài sản cố định và một phần tài sản lưu động thường xuyên.
 Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích
của hình thức cho vay này là nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư.
• Nếu chia theo mức độ tín nhiệm của khách hàng, hoạt động cho vay của
NHTM được chia thành:
 Cho vay không có bảo đảm: là hình thức cho vay không có tài sản
thế chấp, cầm cố hoặc không có bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa
vào bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay.
 Cho vay có bảo đảm: là hình thức cho vay dựa trên cơ sở các bảo
đảm tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ 3 nào
khác.
• Nếu chia theo phương thức cho vay, hoạt động cho vay của NHTM được
chia thành:
 Cho vay thấu chi: là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép
người vay được chi trội (vượt) trên số dư tiền gửi thanh toán của
mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định.
Đây là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần
lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá
nhân vài ngày trong vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các
khoản phải nộp, mua hàng... Hình thức cho vay này thường được áp
dụng đối với các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và
kì thu nhập ngắn.
 Cho vay trực tiếp từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến
của ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường
xuyên và không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Mỗi lần
vay khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử dụng
vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí hợp đồng cho vay,

xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất
và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau
thành các hồ sơ khác nhau. Hình thức cho vay này giúp ngân hàng
có thể kiểm soát từng món vay tách biệt, khi có dấu hiệu vi phạm
hợp đồng, ngân hàng sẽ thu nợ trước hạn để đảm bảo an toàn.
 Cho vay theo hạn mức: là hình thức cho vay mà theo đó ngân hàng
thoả thuận cấp cho khách hàng một hạn mức tín dụng. Hạn mức tín
dụng này được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu
vay vốn của khách hàng và nhu cầu vốn của ngân hàng. Hạn mức tín
dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì, đó là số dư tối đa tại thời
điểm tính. Trong kì khách hàng có thể thực hiện vay trả nhiều lần,
song dư nợ không được vượt quá hạn mức tín dụng. Đây là hình thức
cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn thường xuyên,
vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh doanh.
 Cho vay luân chuyển: là hình thức cho vay dựa trên sự luân chuyển
của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể bị thiếu vốn, lúc
đó, ngân hàng sẽ cho khách hàng vay vốn để mua hàng và thu hồi nợ
khi hàng hoá đã được tiêu thụ. Hình thức cho vay này thường được
áp dụng đối với các doanh nghiệp thương nghiệp hoặc các doanh
nghiệp sản xuất có chu kì tiêu thụ ngắn ngày, có quan hệ vay trả
thường xuyên đối với ngân hàng.
 Cho vay trả góp: là hình thức cho vay mà ngân hàng cho phép
khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoả
thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay
trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định và hàng lâu bền. Số tiền
trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ của
khách hàng (thường là khấu hao hoặc thu nhập sau thuế của dự án,
hoặc thu nhập hàng kì của người tiêu dùng).
 Cho vay gián tiếp: là hình thức cho vay được thực hiện thông qua
các tổ chức trung gian như đội, nhóm, Hội Phụ nữ, Hội nông dân...

theo đó ngân hàng có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho
vay như phát tiền vay, thu hồi nợ... sang các tổ chức này khi thực
hiện cho vay đối với các thành viên. Hình thức cho vay này
thường được áp dụng đối với thị trường có nhiều món vay nhỏ,
người vay phân tán, cách xa ngân hàng.
• Nếu chia theo phương thức hoàn trả nợ, hoạt động cho vay của NHTM
được chia thành:
 Cho vay chỉ có một kì hạn trả nợ hay còn gọi là cho vay trả nợ một
lần khi đáo hạn.
 Cho vay có nhiều kì hạn trả nợ còn gọi là cho vay trả góp.
 Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kì hạn trả nợ cụ thể mà
tuỳ vào khả năng tài chính của mình, người đi vay có thể trả nợ bất
cứ lúc nào.
1.1.2. Cho vay doanh nghiệp của NHTM
Dựa trên những lý luận về NHTM, lý luận về cho vay doanh nghiệp của
NHTM bao gồm 4 nội dung chính: Một là, khẳng định nhu cầu vay vốn ngân
hàng của doanh nghiệp là tất yếu; Hai là, đưa ra khái niệm và phân loại cho vay
doanh nghiệp của NHTM; Ba là, những vấn đề về cho vay doanh nghiệp của
NHTM; Và bốn là, mô tả quy trình cho vay doanh nghiệp của NHTM.
1.1.2.1. Nhu cầu vay vốn ngân hàng của doanh nghiệp
Trong quá trình hoạt động, doanh nghiệp thường cần vốn để đầu tư vào tài
sản lưu động và tài sản cố định. Về nguyên tắc, để tài trợ cho tài sản lưu động,
doanh nghiệp có thể sử dụng vốn ngắn hạn hoặc dài hạn. Tuy nhiên, do nhu cầu
vốn dài hạn để đầu tư vào tài sản cố định là rất lớn nên vốn ngắn hạn là nguồn
chủ yếu dùng để tài trợ cho tài sản lưu động. Vốn ngắn hạn của doanh nghiệp có
thể lấy từ các nguồn sau:
Các khoản nợ phải trả người bán
Các khoản ứng trước của người mua
Thuế và các khoản phải nộp ngân sách nhà nước
Các khoản phải trả công nhân viên

Các khoản phải trả khác
Vay ngắn hạn từ ngân hàng
Trong các nguồn ngắn hạn trên, doanh nghiệp chỉ sử dụng vốn vay ngắn
hạn từ ngân hàng khi có sự thiếu hụt về vốn ngắn hạn mà các nguồn ngắn hạn
khác đã được sử dụng hết. Sự thiếu hụt về vốn ngắn hạn của doanh nghiệp có
thể xuất phát từ sự chênh lệch về thời gian, về doanh số giữa tiền thu bán hàng
và tiền đầu tư vào tài sản lưu động hoặc do nhu cầu gia tăng đầu tư tài sản lưu
động đột biến theo thời vụ. Do đó, đứng ở góc độ doanh nghiệp, vay vốn ngắn

×