Tải bản đầy đủ (.docx) (55 trang)

Tải Tài liệu chuẩn bị cho trẻ vào lớp 1 - Giáo trình chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào lớp 1

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (261.2 KB, 55 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TRƯỜNG ĐAI HỌC VINH</b>


<b>GIÁO TRÌNH</b>


<b>CHUẨN BỊ CHO TRẺ VÀO LỚP 1</b>
(dùng cho học viên hệ từ xa)


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VIỆC</b>
<b>CHUẨN BỊ CHO TRẺ 5 TUỔI VÀO TRƯỜNG PHỔ THÔNG</b>
<b>1. Đặc điểm tâm lý của trẻ khi chuẩn bị bước vào lớp một</b>


<i><b>1.1. Ý thức về “cái tôi” ở trẻ phát triển mạnh</b></i>


Một trong những đặc điểm tâm lý quan trọng của trẻ trong giai đoạn này là
bắt đầu có ý thức về cái tơi của mình, trẻ dần nhận ra mình lag một con người riêng
biệt, độc lập và có những ý muốn khác với những người xung quanh.


Trẻ bắt đầu có ý thích độc lập, muốn tự mình hành động, vì thế trẻ có những
tình cảm như ấm ức vì người lớn khơng cịn tỏ ra chăm sóc và hụt hẫng vì có những
điều trẻ khơng làm được thì người lớn lại bỏ qua. Đây chính là bước đầu của sự cá
biệt hố (việc trẻ biết gọi mình bằng ngôi thứ nhất: xưng tên, hoặc xưng là con,
cháu đều là xác định cái tôi). Đây cũng là giai đoạn các kỹ năng học tập về nhận
thức và ngôn ngữ của trẻ đạt hiệu quả cao nhất. Vì vậy, mọi sự can thiệp sớm trong
việc cải thiện các khả năng giao tiếp, ngôn ngữ và ứng xử của trẻ cần phải đưa vào
trong giai đoạn này.


Ở lứa tuổi chuẩn bị bước vào lớp một, trẻ hiểu được mình là như thế nào, có
phẩm chất gì, những người xung quanh đối xử với mình ra sao, vì sao mình lại làm
việc này, mình làm việc này tốt hay chưa tốt, đúng hay sai…Chính nhờ ý thức bản
ngã phát triển mạnh nên trẻ đã có thể điều chỉnh được hoạt động của bản thân. Trẻ
hay đưa ra những lời nhận xét về bản thân mình và của người khác. Trẻ cũng thể


hiện cái tơi của mình bằng việc thích tự mình quyết định…


Do sự phát triển của cơ thể, trẻ chuẩn bị bước vào lớp một rất hoạt bát và hiếu
động, chúng khơng thích ngồi một chỗ, thích được tự do chạy nhảy, khơng thích
ngồi n.


<i><b>1.2. Tính hiếu kỳ phát triển mạnh</b></i>


Hiếu kỳ là bản tính tự nhiên của trẻ, đây là một điều tốt vì nó sẽ giúp trẻ
khám phá những điều mới lạ từ thế giới xung quanh. Đây là cách tốt nhất để trẻ có
kiến thức, biết tư duy và đó là nền tảng của học vấn sau này. Tính hiếu kỳ thể hiện
rõ khi trẻ chuẩn bị vào lớp một. Ở lứa tuổi này, trí tưởng tượng của trẻ rất phong
phú, cái gì trẻ cũng muốn biết, muốn hiểu và trẻ luôn đặt câu hỏi “tại sao” với người
lớn. Nếu trẻ không được thoả mãn hoặc không nhận được lời giải thích xác đáng thì
trẻ mất hứng thú nhận thức, khơng nhiệt tình tìm hiểu, khám phá sự vật hiện tượng
của thế giới xung quanh nữa. Vì vậy, người lớn cần vui vẻ trả lời các câu hỏi của
trẻ, thoả mãn nhu cầu nhận thức cho trẻ và kích thích trẻ khám phá cái mới lạ, kỳ
thú ở thế giới xung quanh. Người lớn cần tránh trả lời qua chuyện, khơng diễu cợt
trẻ, cần kiên trì giảng giải và trả lời hết các câu hỏi của trẻ.


<i><b>1.3. Tâm lý không ổn định</b></i>


Chuẩn bị bước vào lớp một, tâm lý trẻ dễ bị xáo trộn, đây cũng là lúc trẻ bước
vào một giai đoạn mới của sự ích kỷ. Trẻ khơng muốn chia sẻ, hiếu thắng ln
mong muốn mình phải làm tốt, làm đúng mọi việc, ln đặt mình là trung tâm, trẻ
cũng hay hờn dỗi nếu bị chê trách. Trẻ rất nhạy cảm, hay tủi thân nếu cha mẹ khơng
chú ý…


Ở lứa tuổi này có thể được coi là bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển
của trẻ. Vì vậy, cha mẹ cần chuẩn bị trước về mặt tâm lý cho trẻ tránh cho trẻ khỏi


“sốc” khi vào trường phổ thông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Ở lứa tuổi bắt đầu vào lớp một, sự lo lắng lại tập trung vào những khó khăn
khi thay đổi mơi trường mới, nhiều trường hợp rơi vào các trạng thái rối nhiễu cơ
thể như đau đầu, đau bụng, mệt mỏi, căng thẳng, sợ hãi, rối loạn giấc ngủ…


Sự thay đổi giữa môi trường gia đình và trường học có tác động khơng nhỏ
tới tâm lý trẻ. Có thể nhận thấy một cách rõ rang là về mặt cảm xúc, những trẻ ở lứa
tuổi chuẩn bị vào lớp một còn phụ thuộc nhiều vào người lớn. Khi đến trường, đối
diện với khung


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

cảnh xa lạ, nề nếp sinh hoạt mới, cô giáo và bạn bè mới cùng với việc xa cha mẹ
thường để lại cho trẻ những dấu ấn không dễ chịu chút nào, đó chính là ngun
nhân khiến trẻ lo lắng.


<b>2. Ý nghĩa của việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một</b>


Mỗi đứa trẻ phát triển bình thường thì đến 6 tuổi đều có thể vào học lớp 1.
Đối với trẻ em, việc bước vào trường phổ thông được coi như một bước ngoặt quan
trọng của cuộc đời. Đó là việc trẻ được chuyển qua một vị trí xã hội mới với những
điều kiện hoạt động mới và những mối quan hệ mới.


Nếu trước 6 tuổi, chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ, qua chơi mà trẻ tiếp thu
mọi điều một cách tự nhiên và hứng thú, trong khi chơi trẻ hồn tồn tự do, thoải
mái, trẻ thích thì chơi khơng thích thì thơi chứ khơng bắt ép được.


Vào lớp một, hoạt động chủ đạo của trẻ là hoạt động học tập. Đây là một hoạt
động mang tính bắt buộc, có tổ chức chặt chẽ, có mục đích, có kế hoạch đòi hỏi bản
thân mỗi trẻ phải cố gắng nỗ lực mới có thể đạt kết quả tốt đẹp. Nội dung và tính
chất của hoạt động học tập yêu cầu trẻ em phải có những hành vi mới: sự tập trung


chú ý tương đối cao trong một thời gian dài, hoạt động thần kinh căng thẳng hơn,
cường độ làm việc tăng lên với sự kiên trì, nỗ lực, ý chí cao.


Đến trường phổ thơng, đứa trẻ phải hồ nhập vào những quan hệ mới với
những người xung quanh, với thầy cô, với bạn bè, với những người lớn khác, đặc
biệt với thầy cô giáo.


Ở mẫu giáo trẻ được sống trong không khí gia đình “cơ là mẹ và các cháu là
<i>con”, khi vào trường phổ thông trẻ sống trong khung cảnh trường học, mối quan hệ</i>
giữa cô và trẻ là mối quan hệ “thầy - trò”, quan hệ bạn bè cùng chơi ở mẫu giáo
được chuyển sang quan hệ bạn bè cùng học. Ở mẫu giáo trẻ là lớp đàn anh đàn chị
vào lớp một lại trở thành em út trong trường nên trẻ không khỏi bỡ ngỡ


Hơn nữa, ở mỗi giai đoạn phát triển đều có những yêu cầu về sinh lí, về tâm
lí, về xã hội địi hỏi trẻ phải thích ứng mới học tập đạt kết quả.


Sự phát triển của trẻ từ giai đoạn này đến giai đoạn khác là một bước nhảy
vọt có sự chuyển biến về chất, sự phát triển của trẻ ở mỗi giai đoạn vừa là sự kế
thừa những thành tựu phát triển của giai đoạn trước vừa là tiền đề cho giai đoạn
phát triển tiếp theo. Điều đó có nghĩa là nếu trẻ được phát triển tốt ở giai đoạn trước
cũng chính là chuẩn bị tốt cho giai đoạn sau.


<i>VD: Sự phát triển tâm vận động, các giác quan, khả năng định hướng và ngôn ngữ </i>
của trẻ


ở lứa tuổi nhà trẻ là điều kiện quan trọng để trẻ tiếp thu, lĩnh hội những biểu tượng
về thế giới xung quanh thông qua nhận thức cảm tính và tư duy trực quan của trẻ
mẫu giáo. Nhờ có những biểu tượng về thế giới xung quanh, ngơn ngữ, tư duy trực
quan hình tượng ở mẫu giáo phát triển mà vào lớp một trẻ dễ dàng tiếp thu những tri
thức khoa học mang tính khái quát do đó tư duy trực quan trừu tượng phát triển.



Có thể nói bước ngoặt trong cuộc đời tuổi thơ khi từ trường mầm non bước
vào trường phổ thông không phải em bé nào 6 tuổi cũng đều dễ dàng thích nghi.
Bước ngoặt này là sự kiện quan trọng khiến các nhà giáo dục và các bậc cha mẹ cần
phải quan tâm, một mặt là để giúp trẻ hoàn thiện những thành tựu phát triển trong
suốt thời kỳ mẫu giáo, mặt khác tích cực chuẩn bị cho trẻ có đủ điều kiện để thích
ứng với cuộc sống ở trường phổ thông với hoạt động chủ đạo là học tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

một. Điều đó tạo cho trẻ nhiều thuận lợi trong việc tiếp thu lĩnh hội chương trình
học tập ở lớp một và dễ dàng hơn trong giao tiếp và thiết lập mối quan hệ với bạn bè
với thầy cô và mọi người xung quanh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Ngược lại, nếu không được chuẩn bị chu đáo các điều kiện cần thiết cho hoạt
động học tập, nhất là các em không được đến trường mầm non, khi vào lớp một gặp
rất nhiều khó khăn, bỡ ngỡ. Trẻ sơ thầy, sợ cơ, sợ cả bạn bè, trẻ nhút nhát khi giao
tiếp với thầy cơ, với bạn bè, trẻ khó hồ mình vào tập thể thậm chí khủng hoảng sợ
đi học… điều đó gây bất lợi cho các chặng đường phát triển tiếp theo.


Thực tiễn nghiên cứu cho thấy trên 95% số trẻ 5 tuổi được chuẩn bị chu đáo,
hợp lí trước khi vào trường phổ thơng đều có khả năng học tập tốt và thích ứng
nhanh với những yêu cầu của lớp một.


Xã hội càng phát triển, nội dung và yêu cầu học tập của học sinh ngày càng
cao và căng thẳng hơn. Cho nên việc chuẩn bị toàn diện cho trẻ vào lớp một là một
vấn đề rất cấp bách.


<b>2. Một số quan điểm về việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một</b>


Trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một có rất nhiều ý kiến cũng như quan
niệm khác nhau.



-Có quan niệm cho rằng không cần chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, trẻ đủ 6
tuổi là có thể đi học lớp một. Từ lâu nhà trường truyền thống ít quan tâm đến việc
kiểm tra, đánh giá đầu vào của trẻ em đầu tuổi học. Ngay cả trường mầm non, trong
tâm niệm của nhiều người chỉ là nơi “gửi trẻ”. Tất thảy trẻ em 6 tuổi đều bình đẳng
cắp sách tới trường, không cần biết tuổi khôn và sức khoẻ có học được khơng?
Quan niệm này thường tồn tại


ở những vùng nơng thơn, hoặc vùng có trình độ dân trí thấp, họ ít quan tâm đến
việc chuẩn bị về mặt trí tuệ và tinh thần cho trẻ vào lớp một. tuổi mầm non của trẻ
chủ yếu sống trong gia đình, xóm giềng, khơng được giáo dục, rèn luyện một cách
hệ thống những điều cần thiết cho học tập sau này.


- Đối lập với quan niệm này là quan niệm cho rằng cần phải cho trẻ học trước
chương trình lớp một, cụ thể là chuẩn bị cho trẻ mẫu giáo 5 tuổi đọc thông viết thạo
và làm thành thạo hai phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10, 20 và nếu 100 thì càng
tốt. Thực tế này hiện nay tồn tại khá phổ biến ở các thành phố, thị xã lớn nơi có
trình độ dân trí tương đối cao. Do đó khơng ít người đã buộc trẻ ngồi vào bàn hàng
giờ học một cách nghiêm chỉnh, tước đi mọi thời gian vui chơi, hoạt động nhiều mặt
mà các cháu vốn ham thích rất cần cho sự phát triển sau này của trẻ.


Nhiều cơng trình nghiên cứu trong và ngồi nước đã chứng minh rằng trẻ em
dưới 6 tuổi nói chung là chưa đủ khả năng để học chữ, học tính theo đúng ý nghĩa
của môn học.


Thực tế, một số trẻ được học trước chương trình lớp một, vào lớp một những
tháng đầu có thể hơn những trẻ khác nhưng thời gian sau trình độ trong lớp ngang
nhau, thậm chí một số trẻ tỏ ra chủ quan chểnh mảng trong học tập vì cảm thấy
khơng có gì mới lạ hấp dẫn, do đó sức học cịn yếu hơn trẻ khác. Nguy hại hơn, nếu
học trước mà phạm sai lầm thì khi uốn nắn, sửa sai là một cơng việc rất khó khăn


cho giáo viên lớp một, thậm chí để lại thói quen xấu trong hoạt động trí tuệ, thậm
chí cản trở bước đường học tập của trẻ.


Vì vậy, việc chuẩn bị cho trẻ đến trường phổ thông không thể là việc làm
thay cho việc dạy dỗ ở bậc tiểu học. Không nên dạy trẻ trước những gì mà sau này
nó sẽ phải học tập một cách quy củ, nghiêm chỉnh ở trường phổ thông, không nên
yêu cầu trẻ như một học sinh thực thụ ngay khi còn ở tuổi mẫu giáo mà phải đảm
bảo cho trẻ được sống đúng với lứa tuổi của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

tập thì cho trẻ vào lớp một. Những người theo quan điểm này cho rằng cần phải
chuẩn bị cho trẻ vào lớp một một cách toàn diện cả về thể lực, tâm lí và tâm thế chứ
khơng dạy trẻ học chữ và làm tốn. Họ cho rằng việc dạy trẻ làm toán và học chữ là
nội dung học của lớp một.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Cụ thể: + Các nhà giáo dục Nhật Bản rất quan tâm đến việc giáo dục và phát
triển trí tuệ cũng như thể chất, tình cảm đạo đức của trẻ phù hợp với hoàn cảnh của
trường mầm non, của cộng đồng địa phương ở nơi đó nhằm hướng tới thực hiện
năm mục tiêu và nội dung giáo dục là giáo dục sức khoẻ, giáo dục quan hệ với xung
quanh, giáo dục ngôn ngữ, giáo dục môi trường và biểu đạt phù hợp với Luật giáo
dục và Chuẩn quốc gia về chương trình giáo dục mầm non.


+Ở các nước phương Tây như Mỹ, Anh,Ý, Pháp… người ta quan tâm đến sự
phát triển nhận thức của trẻ trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một, nhưng không
nhấn mạnh vào việc học các kỹ năng đọc, viết cũng như tính tốn. Các nhà giáo dục
ở các nước này cho rằng cần phải quan tâm đến những suy nghĩ của trẻ, đến những
ý tưởng của trẻ hơn là những điều trẻ hiểu biết. Vì thế, họ cho rằng một trong những
nội dung chuẩn bị cho trẻ vào lớp một mà các giáo viên cũng như bố mẹ trẻ phải
quan tâm đó là dạy cho trẻ biết cách chia sẻ các ý tưởng, dự định của chúng với mọi
người, hình thành cho trẻ kỹ năng hợp tác cùng nhau. Trên cơ sở đó, tạo điều kiện
và kích thích tính tích cực cũng như óc sáng tạo của trẻ trong các hoạt động.



+Giáo dục mầm non của một số nước trong khu vực châu Á – Thái Bình
Dương (Hàn Quốc, Úc, Niu Dilân, Xingapo…) hướng tới hình thành cho trẻ những
năng lực chung để chúng có thể hồ nhập vào cuộc sống và chuẩn bị vào trường
tiểu học.


+ Quan điểm giáo dục mầm non của nước ta cũng nhấn mạnh là không dạy
trẻ mẫu giáo lớn học trước chương trình lớp một, tránh phổ thơng hố trong giáo
dục mầm non. Tuy nhiên, trong thực tiễn giáo dục mầm non vẫn cịn tình trạng ở
một số nơi, một số địa phương do sự thúc ép và yêu cầu của phụ huynh cho nên vẫn
dạy trẻ mẫu giáo lớn tập viết, tập đọc và làm toán như học sinh lớp một.


<b>3. Một số đặc điểm phát triển của trẻ 5 tuổi</b>


Đến 5 tuổi là trẻ đang ở giai đoạn cuối cùng của lứa tuổi mẫu giáo và đã trải
qua một thời kỳ phát triển mạnh mẽ với tốc độ rất nhanh cả về thể chất lẫn tâm lí.
Tốc độ nhanh như vậy sẽ không thể thấy lại đượcở những giai đoạn phát triển sau
này. Cuối lứa tuổi mẫu giáo, đứa trẻ đang hồn thiện dần về hình thái cơ thể và các
chức năng tâm lí người ở giai đoạn đầu tiên của quá trình hình thành nhân cách.
Nếu được chăm sóc và giáo dục đúng đắn trong một hồn cảnh sống thuận lợi thì sự
phát triển của trẻ 5 tuổi sẽ có được những đặc điểm sau:


<i><b>3.1.Đặc điểm phát triển thể chất</b></i>


<i>-Về tầm vóc: Trẻ 5 tuổi tăng nhanh về chiều cao, cân nặng.</i>
+Trung bình về chiều cao: trẻ trai có thể đạt từ 106,4cm –


116,1cm Trẻ gái có thể đạt từ
104,8cm – 114,6cm
+Trung bình về cân nặng: trẻ trai có thể đạt từ 16 kg – 20,7 kg


trẻ gái đạt từ 15 kg – 19,5 kg


- <i>Về giải phẫu sinh lí</i>


+Hệ xương bắt đầu cốt hố, cơ bắp to ra


+Cơ quan hơ hấp và hệ tuần hồn phát triển mạnh


</div>
<span class='text_page_counter'>(9)</span><div class='page_container' data-page=9>

Sự phát triển nhanh về thể chất đã tạo nên những điều kiện cần thiết để trẻ 5
tuổi có thể hoạt động độc lập được nhiều hơn và giúp chúng lĩnh hội những hình
thức mới của kinh nghiệm xã hội trong quá trình tiếp nhận giáo dục.


Tuy nhiên, sự phát triển đó chưa tạo ra được một chuyển biến thật mạnh mẽ
thuận lợi cho hoạt động học tập. Phải đến 6 tuổi trở đi thì sự phát triển thể chất của
trẻ mới bắt đầu thích ứng với hoạt động học tập.


</div>
<span class='text_page_counter'>(10)</span><div class='page_container' data-page=10>

<i><b>3.2. Đặc điểm phát triển trí tuệ</b></i>


<i>- Đặc điểm phát triển nhận cảm</i>


Hoạt động nhận cảm (bao gồm quá trình cảm giác và tri giác) của trẻ 5 tuổi
phát triển mạnh, cho phép trẻ định hướng vào những thuộc tính và những mối liên
hệ bên ngoài của sự vật và hiện tượng. Khả năng quan sát bắt đầu hình thành giúp
trẻ biết ngắm nghía và phát hiện thuộc tính và mối quan hệ đặc trưng của sự vật hiện
tượng trong thế giới xung quanh.


Nhờ sự phát triển của hoạt động nhận cảm nên trẻ 5 tuổi có thể lĩnh hội được
một số chuẩn nhận cảm về màu sắc, về hình dạng, kích thước, về âm thanh…


<i>VD: nhận ra 7 màu trong quang phổ, phân biệt được các dạng hình học (hình</i>


tam giác, hình vng, hình trịn, hình chữ nhật, hình bầu dục…), phân biệt đợưc các
cao độ trong thang âm 7 nốt, phân biệt được độ to, nhỏ, dài, ngắn khác nhau…


Về tri giác khơng gian: trẻ 5 tuổi có thể nhận biết một cách chính xác các
hướng chủ yếu trong khơng gian như trên - dưới, trước – sau, phải – trái. Cùng với
sự phát triển của tri giác không gian, tri giác được tranh vẽ của trẻ 5 tuổi cũng có
một bước tiến bộ rõ nét, trẻ có thể nhận ra màu sắc, đường nét và cả bố cục của bức
tranh.


Về tri giác thời quá khứ, hiện tại và tương lai trong những khoảng thời gian
gần (lúc nãy, bây giờ, tí nữa, hôm qua, hôm nay, ngày mai). Cùng với sự phát triển
của tri giác thời gian, tri giác độ dài của âm thanh cũng có một bước tiến rõ rệt, trẻ
có thể phân biệt được độ dài ngắn của những âm thanh khác nhau. Đó chính là cơ sở
để trẻ tiếp nhận tiết tấu, một thành phần cơ bản trong âm nhạc.


<i>- Đặc điểm phát triển tư duy</i>


Tư duy của trẻ 5 tuổi đang ở độ phát triển mạnh, đặc biệt là kiểu tư duy trực
quan hình tượng. Ở giai đoạn này, một kiểu tư duy trực quan hình tượng mới xuất
hiện, đó là tư duy trực quan sơ đồ, trong đó hình tượng đã bị tước đi những chi tiết
rườm rà, sinh động, chỉt giữ lại những bộ phận chủ yếu nhất, khiến cho hình tượng
bị mất đi tính trực quan cụ thể mà mang thêm tính khái qt. Đó chính là bước trung
gian của sự chuyển tiếp từ tư duy trực quan hình tượng đến tư duy lơgic. Nhờ đó
một số yếu tố của tư duy lơgic xuất hiện tạo cho trẻ khả năng khái quát hoá, phán
đoán, suy luận và hình thành được một số khái niệm đơn giản.


<i>- Đặc điểm phát triển trí nhớ</i>


Ở trẻ mẫu giáo nói chung , trí nhớ khơng chủ định chiếm ưu thế, nhưng đến 5
tuổi thì trí nhớ có chủ định đã bắt đầu phát triển đáng kể. Vị trí ưu thế của trí nhớ


khơng chủ định giờ đây đã bị yếu dần đi, nhưng vai trị của nó vẫn hết sức quan
trọng trong đời sống của trẻ.


Cùng với sự phát triển của tư duy, trí nhớ có ý nghĩa bắt đầu phát triển mạnh,
những gì mà trẻ hiểu thường được ghi nhớ bền vững hơn. Tuy vậy, trí nhớ máy móc
vẫn giữ vai trị quan trọng trong đời sống của trẻ.


<i>- Đặc điểm phát triển chú ý</i>


Do yêu cầu của hoạt động ngày càng trở nên phức tạp, trẻ 5 tuổi bắt đầu biết
điều khiển chú ý của mình vào những đối tượng nhất định. Chú ý có chủ định phát
triển mạnh, nhưng chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế.


Sự phát triển chú ý có chủ định ở trẻ 5 tuổi thường gắn liền với mục đích của
hành động và chức năng đặt kế hoạch của ngôn ngữ. Điều đó có nghĩa là cái gì trở
thành đối tượng của hành động có mục đích lại được thể hiện bằng lời nói mang
tính định hướng sẽ làm cho trẻ chú ý bền hơn, tập trung hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(11)</span><div class='page_container' data-page=11>

Cuối tuổi mẫu giáo, trẻ 5 tuổi đã có thể sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành
thạo trong sinh hoạt hàng ngày (tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất đẻ giúp
trẻ lĩnh hội nền văn hoá của dân tộc, để giao lưu, giao tiếp với mọi người xung
quanh, để tư duy


</div>
<span class='text_page_counter'>(12)</span><div class='page_container' data-page=12>

và tiếp thu tri thức khoa học). Lúc này ngôn ngữ đã thực sự trở thành phương tiện
chủ yếu để giao tiếp với mọi người xung quanh và là cơ sở để cải tổ các q trình
tâm lí, giúp cho đời sống tinh thần của trẻ có một chất lượng mới: biết sống và hành
động theo kiểu người.


Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ 5 tuổi chủ yếu theo các hướng sau:



+Về ngữ âm và ngữ điệu: cơ quan thính giác âm vị và cơ quan phát âm của
trẻ đã đến độ hoàn thiện nên trẻ 5 tuổi có khả năng nắm giữ được ngữ âm và ngữ
điệu khi sử dụng tiếng mẹ đẻ. Do đó trẻ phát âm tương đối chuẩn kể cả những âm
khó (quanh co, khúc khuỷu, khuya khoắt…) và biết dùng ngữ điệu đúng với tình
huống giao tiếp để thể hiện tình cảm của mình đặc biệt là khi kể chuyện.


+Về vốn từ và ngữ pháp


Đến 5 tuổi trẻ đã có đầy đủ vốn từ để nghe, hiểu, và biểu đạt ý nghĩa của
mình với những người xung quanh (khoảng 4000 từ) và biết nói đúng theo cơ cấu
ngữ pháp tiếng mẹ đẻ.


+ Hình thành ngơn ngữ mạch lạc


Ngơn ngữ mạch lạc thể hiện một trình độ phát triển tương đối cao cả về
phương diện ngôn ngữ và phương diện tư duy. Ở trẻ 5 tuổi ngơn ngữ tình huống có
xu hướng giảm dần, ngơn ngữ giải thích và đặc biệt là ngôn ngữ mạch lạc tăng lên
rõ rệt. Ngôn ngữ mạch lạc có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sự phát triển của
trẻ, giúp trẻ thiết lập được các mối quan hệ với những người xung quanh.


Mặc dù, thực tế cịn nhiều trẻ nói chưa đúng, phát âm ngọng, dùng từ sai, nói
câu thiếu…(do trẻ bắt chước, học lỏm, sống trong mơi trường kém văn hố…) song
trẻ 5 – 6 tuổi có thể nắm được ý nghĩa của từ vựng thông dụng, phát âm gần với sự
phát âm của người lớn, biết dùng ngữ điệu phù hợp hoàn cảnh giao tiếp…


Vì vậy người lớn cần so sánh trình độ phát triển riêng của từng bé 5 tuổi so
với trình độ phát triển chung của cả độ tuổi để biết sự phát triển của trẻ nhanh hay
chậm để tìm cách giáo dục phù hợp.


<i><b>3.3. Đặc điểm phát triển mặt cảm xúc và ý chí</b></i>


<i>- Đặc điểm phát triển xúc cảm</i>


Cuối tuổi mẫu giáo, xúc cảm vẫn tiếp tục phát triển và chi phối mạnh đời
sống tâm lí của trẻ.


Nét đặc biệt trong đời sống tình cảm của trẻ 5 tuổi là sự hình thành tương đối
rõ nét của các loại tình cảm bậc cao như tình cảm trí tuệ, tình cảm đạo đức, tình cảm
thẩm mĩ.


+Tình cảm trí tuệ biểu hiện: trẻ ham hiểu biết, ham tìm tịi khám phá những
điều mới lạ, bí ẩn.


+Tình cảm đạo đức: trẻ dễ xúc cảm và đồng cảm với con người và cảnh vật
xung


quanh


<i>VD: trẻ dễ thương cảm với người tàn tật hay người có hồn cảnh éo le, trẻ</i>
bộc lộ tình yêu thương đối với động vật, cây cối…đối với trẻ tất cả đều mang hồn
người. Đây là thời điểm thuận lợi nhất để giáo dục lòng nhân ái.


</div>
<span class='text_page_counter'>(13)</span><div class='page_container' data-page=13>

trẻ và để lại những ấn tượng sâu đậm trong tâm hồn. Do vậy, giáo dục bằng nghệ
thuật đối với lứa tuổi này là phương pháp giáo dục có hiệu quả nhất.


- Đặc điểm phát triển ý chí


Ý chí của trẻ 5 tuổi đã bắt đầu phát triển tạo cho trẻ khả năng điều chỉnh hành
vi. Tuy vậy, tính bột phát vẫn chi phối mạnh mẽ hành vi của trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(14)</span><div class='page_container' data-page=14>

Đặc điểm nổi bật trong sự phát triển ý chí của trẻ 5 tuổi là ý chí gắn liền với


động cơ hành vi. Lúc này ở trẻ hệ thống thứ bậc các động cơ được hình thành tương
đối rõ nét và bắt đầu có sự đấu tranh động cơ. Từ đó những động cơ xã hội cũng bắt
đầu được hình thành.


<b>CÂU HỎI ƠN TẬP</b>


1. Trình bày sự cần thiết phải chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.


2. Hãy làm sáng tỏ một số quan niệm về vấn đề chuẩn bị cho trẻ vào lớp một.
2. Phân tích một số đặc điểm tâm sinh lý của trẻ khi chuẩn bị bước vào lớp một.


<b>CHƯƠNG II</b> <b>MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN</b>


<b>TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC</b>


<b>1. Từ hoạt động chủ đạo là vui chơi ở trẻ mẫu giáo chuyển sang hoạt động chủ </b>
<b>đạo là học tập ở học sinh tiểu học</b>


Ở tiểu học, học sinh tiếp tục tham gia vào tất cả các hoạt động như vui chơi,
lao động, học tập. Nếu như trước đó - thời kì mẫu giáo hoạt động vui chơi giữ vai
trị chủ đạo thì đến thời điểm này nó sẽ lui về hàng thứ yếu, nhường vai trị hoạt
động chủ đạo cho một hoạt động mới - hoạt động học tập. Vì vậy, nghiên cứu về
hoạt động của học sinh ở tiểu học trước hết là nghiên cứu về hoạt động học tập,
trong đó mốc quan trọng nhất là thời kì trẻ em bắt đầu đi học.


Hoạt động chủ đạo được Lêonchiép nêu khái quát đó là hoạt động mà sự phát
triển của hoạt động ấy quy định những biến đổi chủ yếu nhất trong các qúa trình tâm
lí và trong các đặc điểm tâm lí của nhân cách trẻ. Về mặt tâm lí, có thể coi những
dấu hiệu phát triển tư duy của trẻ là một biểu hiện rõ nét nhất.



</div>
<span class='text_page_counter'>(15)</span><div class='page_container' data-page=15>

Hoạt động chủ đạo diễn ra trong khoảng thời gian khá dài, ban đầu cịn ở
dạng sơ khai khi đạt tới hình thái chính thức cũng là lúc chuẩn bị chuyển sang thời
kì với hoạt động chủ đạo mới lại bắt đầu ở dạng sơ khai. Nắm được tiến trình phát
triển như vậy của hoạt động chủ đạo sẽ tránh được sự áp đặt máy móc về nội dung,
phương pháp, tránh


</div>
<span class='text_page_counter'>(16)</span><div class='page_container' data-page=16>

được sự nơn nóng vội vã về u cầu cần đạt đối với học sinh. Điều quan trọng là
phải thấy được sự lĩnh hội tri thức ở học sinh (nhất là đối với học sinh nhỏ tuổi) là
một quá trình mà động cơ của nó nằm ở cuối q trình của hoạt động, tức là ở kết
quả của hoạt động: chiếm lĩnh tri thức khoa học.


<b>2.Một số đặc điểm cơ bản trong hoạt động của học sinh lớp một</b>


Hoạt động học tập lần đầu tiên xuất hiện và được coi là hoạt động chủ đạo ở
Tiểu học. Chính nhờ các yếu tố cấu thành hoạt động hay nói cách khác là do sự thay
đổi nội dung trong các yếu tố cấu thành hoạt động như các thay đổi về động cơ, đối
tượng, phương tiện…hoạt động mà sự biến đổi được tạo ra trong tư duy trẻ em.


Nghiên cứu về hoạt động học tập ở tiểu học trước hết là xem xét hàng loạt
các yếu tố quan trọng trong mối quan hệ chính nó như: đối tượng và chủ thể hoạt
động, các hành động và thao tác, cơ chế và qui trình lĩnh hội…


<i><b>2.1. Đối tượng lĩnh hội</b></i>


Đối tượng lĩnh hội trong hoạt động chính là nội dung học của nhiều lĩnh vực
khoa học khác nhau được tập hợp thành hệ thống khái niệm trong từng môn học.


Leonchiep đã dưa ra những kết luận quan trọng cần được chú ý khi nghiên
cứu về đối tượng lĩnh hội trong mối quan hệ với chủ thể học sinh:



-Đối tượng lĩnh hội và chủ thể ln thống nhất với nhau trong suốt q trình
-Đối tượng lĩnh hội được sinh thành cùng với chủ thể hoạt động, có mối
quan hệ hữu cơ với chủ thể, ln ln chứa đựng nhu cầu nào đó của chủ thể. Điều
này cho thấy chỉ khi nào chủ thể tham gia vào hoạt động thì đối tượng mới xuất
hiện, và chỉ có những nội dung nào trở thành đối tượng thì mới đem lại sự phát triển
cho chủ thể học sinh.


- Đối tượng lĩnh hội ở trình độ nào thì chủ thể phát triển ở trình độ đó. Cấu
trúc mới của đối tượng trong hoạt động học tập ở trình độ khái niệm sẽ thúc đẩy
nhanh hơn sự hình thành tư duy khoa học ở học sinh. Vì vậy, xây dựng nội dung
chương trình học tập cho từng cấp, từng lớp là một nhiệm vụ trọng tâm và cơ bản
nhất.


Hiện nay chương trình ở tiểu học được thiết kế thành 9 mơn trong đó mơn
Tiếng Việt có vị trí đặc biệt trong toàn cấp. Riêng đối với lớp một, vấn đề dạy tiếng
Việt càng được chú trọng và có thể coi là mơn học trọng tâm, bởi việc dạy tiếng
Việt có liên quan đến nhu cầu biết đọc, biết viết của học sinh. Đây cũng là mục tiêu
quan trọng ở lớp một. Nếu học xong lớp một, trẻ chưa đọc thông viết thạo hoặc tái
mù sẽ là một chỉ số báo hiệu một thất bại rất lớn của giáo dục tiểu học. Mơn tiếng
Việt ở tiểu học có các hệ thống khái niệm gồm: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp. Riêng ở
lớp một, khái niệm ngữ âm là đối tượng của hoạt động học tiếng Việt.


<i>VD: Học sinh lớp một nhận diện khái niệm ngữ âm thông qua lĩnh hội cấu </i>
trúc âm tiết tiếng Việt. Cấu trúc này được mô tả bằng sơ đồ sau:


Thanh điệu
Âm đầu


Vần



Âm đệm Âm chính


Âm
cuối


Tuy nhiên, việc dạy âm và chữ luôn gắn với nhau thành một thể thống nhất
bởi tính tất yếu khách quan của nó.


</div>
<span class='text_page_counter'>(17)</span><div class='page_container' data-page=17>

Các hành động học là phương tiện trong hoạt động học tập mà học sinh phải
sử dụng để lĩnh hội khái niệm trong hoạt động. Các hành động học bao giờ cũng
được triển khai bằng hệ thống thao tác (thao tác là khái niệm quan trọng trong tâm lí
học).


</div>
<span class='text_page_counter'>(18)</span><div class='page_container' data-page=18>

Khi mơ tả cấu trúc vĩ mô của hoạt động Leonchiep đã phân biệt thao tác với
thành tố khác bằng sự sắp xếp các cặp tương ứng như sau:


Hoạt động - Động cơ
Hành động - Mục đích
Thao tác - Phương tiện


Như vậy, một trong những dấu hiệu phân biệt hành động và thao tác chính là
ở mục đích và phương tiện. Nói cách khác cách thức hành động chính là thao tác.


Hoạt động học ở tiểu học được thực hiện thông qua 4 hành động sau:
<i>2.2.1. Hành động phân tích</i>


Hành động phân tích được triển khai trên hệ thống thao tác phân tích nhằm
phân giải đối tượng trên đơn vị ngày càng nhỏ hơn, cụ thể hơn. Hành động phân tích
là điểm tựa đầu tiên của quá trình lĩnh hội. Dựa vào hành động phân tích, trẻ em có
thể phân giải cấu trúc âm tiết tiếng Việt, phân giải tập hợp thành các bộ phận, phân


giải các lớp số trong toán học…


<i>2.2.2 Hành động mơ hình hố</i>


Hành động mơ hình hố được triển khai trên hệ thống thao tác mơ hình hố,
trong đó diễn ra quá trình trẻ em ghi lại kết quả thực hiện hành động phân tích dưới
dạng mơ hình. Đối với học sinh tiểu học, đặc biệt là lớp một, nội dung, khái niệm
khoa học cịn rất trừu tượng. Vì vậy, việc sử dụng mơ hình để phân tích đối tượng
giúp quá trình lĩnh hội thực hiện một cách hiệu quả.


<i>VD: </i>Muốn học sinh lĩnh hội được cấu trúc âm tiết tiếng Việt người ta trải
lôgic của cấu trúc này trên một mơ hình rỗng:


Dựa vào mơ hình này, học sinh sẽ phân tích để nhận ra 4 cấu tạo của vần
tiếng


Việt:


-Vần có một âm chính


-Vần có âm đệm và âm chính
-Vần có âm, âm chính, âm cuối
-Vần có âm đệm, âm chính, âm
cuối VD: phân tích tiếng Loan


L O A N


Từ việc ghi lại cấu trúc âm thanh ngôn ngữ trên sơ đồ sẽ giúp trẻ khắc phục
được những sai sót trong đọc và viết chính tả.



<i>2.2.3. Hành động cụ thể hoá</i>


Hành động cụ thể hoá được triển khai trên hệ thống thao tác cụ thể hoá.
Thực hiện hành động cụ thể hố có nghĩa là trẻ em đi vào giải quyết những tình
huống cụ thể. Dựa trên mẫu khái quát ban đầu, trẻ em thay thế vào đó các vật liệu
mới, để tìm ra lời giải.


Hành động cụ thể hoá làm cho đối tượng lĩnh hội trở nên thực tiễn và được
củng cố vững chắc hơn đối với nhận thức của học sinh.


<i>2.2.4. Hành động kiểm tra đánh giá</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(19)</span><div class='page_container' data-page=19>

trình hoạt động. Trong đó trẻ em xem xét chính xác hố tồn bộ nội dung của đối
tượng lĩnh hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(20)</span><div class='page_container' data-page=20>

Quá trình tổ chức cho học sinh lĩnh hội khái niệm khoa học trong hoạt động
học tập ở tiểu học diễn ra theo quy trình gồm 3 giai đoạn:


Giai đoạn 1: Hình thành


Đây là giai đoạn cơng phu và kó khăn nhất đối với trẻ. Nhờ vào các thao tác
được thực hiện nhiều lần trên vật liệu và mơ hình mẫu, trẻ dần dần nhận ra cấu trúc
lôgic cũng như bản chất của đối tượng lĩnh hội. Khi khái niệm đã được hình thành ở
dạng sơ khai trẻ chuyển sang giai đoạn luyện tập.


Giai đoạn 2: Luyện tập


Ở giai đoạn này trẻ bắt đầu học thay thế các vật liệu khác nhau vào vật liệu
mẫu. Chất liệu mới được củng cố và việc thực hiện thao tác trong hoạt động sẽ tạo
thành kĩ năng, kĩ xảo ở học sinh.



Giai đoạn 3: Ứng dụng


Đến giai đoạn ứng dụng, trẻ đã nắm được căn bản cách tiếp cận đối tượng
(cách học) và nội dung đối tượng (tri thức khoa học).


Sự phân chia các giai đoạn như trên trong thực tiễn thường không tách biệt
mà đan xen vào nhau trong từng tiết học hay trong q trình.


<b>3. Một số khó khăn đối với học sinh lớp một</b>


Những yêu cầu mới ở phổ thông đặt ra cho học sinh lớp một nhiều khó khăn
cần được quan tâm. Hàng loạt các vấn đề: thói quen sinh hoạt, môi trường hoạt
động với các mối quan hệ mới, nội dung và phương thức lĩnh hội tri thức…sẽ phải
được thay đổi khi trẻ vào lớp một.


Phần lớn trẻ em đã thích ứng với yêu cầu học tập ở trường phổ thơng sau khi
kết thúc học kì 1. Tuy nhiên, cịn một bộ phận khơng nhỏ vẫn rất lúng túng, đặc biệt
là khó khăn trong việc nắm bắt phương thức lĩnh hội nội dung các môn học, lúng
túng về cách học.


Các khó khăn đối với học sinh lớp một có thể quy về một số dạng như sau:
<i><b>3.1. Sự thay đổi các thói quen sinh hoạt</b></i>


- Ở mẫu giáo: trẻ thường được thoả mãn các nhu cầu về vui chơi, nghỉ ngơi,
ăn uống…việc tham gia các hoạt động chung cũng xuất phát phần lớn từ nhu cầu cá
nhân. Mọi hoạt động mang tính chất tự do thoải mái, tiết học ít, ngắn hơn và không
yêu cầu cao như ở lớp một.


Ở trường phổ thông: chế độ sinh hoạt của trẻ thay đổi hoàn toàn, các quy


định trong sinh hoạt mang tính nguyên tắc. Quy định đối với giờ học, giờ chơi, quy
định các yêu cầu về kiến thức kĩ năng trong mỗi tiết học, bài học được định lượng
trở thành yêu cầu bắt buộc phải thực hiện đối với học sinh.


Vì vậy, khó khăn đầu tiên khi trẻ vào lớp một là sự thay đổi trong thói quen
sinh hoạt, mà điểm đáng quan tâm nhất là thói quen về chế độ học tập.


Trong các giờ học đầu tiên ở lớp một (khoảng thời gian của học kỳ một) phần
lớn trẻ còn rất ngơ ngác, lúng túng trước yêu cầu của giáo viên, nhiều trẻ lơ đãng,
ngủ gật, mệt mỏi, ngồi khơng n…Đến hết lớp một, tình trạng này mới cơ bản
chấm dứt, dần dần trẻ đi vào nề nếp.


Việc giúp trẻ quen dần với yêu cầu của lớp một là cơng việc khó khăn vất vả
mà giáo viên lớp một giữ vai trò quan trọng trong suốt quá trình này.


<i><b>3.2. Sự thay đổi cơ chế lĩnh hội (thay đổi cách học)</b></i>


Nội dung học tập ở trường phổ thông được cấu trúc thành hệ thống theo
chương trình các mơn học. Học sinh lĩnh hội các kiến thức khoa học trong từng bài,
từng tiết theo mục đích u cầu mơn học để đạt mục tiêu toàn cấp.


</div>
<span class='text_page_counter'>(21)</span><div class='page_container' data-page=21>

tập mới được đặt ra ở lớp một. Làm thế nào để có thể giúp trẻ em lĩnh hội được tri
thức khoa học


</div>
<span class='text_page_counter'>(22)</span><div class='page_container' data-page=22>

vừa trừu tượng lại vừa mang tính khái quát, trong khi tư duy đứa trẻ lại chưa vượt
qua được trình độ tư duy trực quan cụ thể, nhận thức cịn hết sức cảm tính, trẻ rất
khó khăn khi đi sâu tìm hiểu khám phá cấu trúc lôgic bản chất của đối tượng lĩnh
hội.


Điều hết sức quan trọng ở lớp một là phải tập cho trẻ nghĩ, tức là tập cho trẻ


làm việc trí óc, biết chuyển các hành động bên ngoài thành các hành động bên trong
của tư duy.


Ngồi ra, cịn một loạt khó khăn khơng nhỏ đối với học sinh lớp một như tư
thế ngồi học, cách cầm bút, thực hiện hiệu lệnh học tập, cách làm bài kiểm tra…Vì
vậy, đối với học sinh lớp một việc dạy cho trẻ học cách học là một nhiệm vụ cực kì
quan trọng.


<i><b>3.3. Sự thiết lập quan hệ mới</b></i>


Bước vào lớp một, những mối quan hệ của trẻ thay đổi. Trẻ phải thực hiện
nghĩa vụ cơng dân đó là hoàn thành nhiệm vụ học tập ở trường phổ thơng. Chính sự
thay đổi này là ngun nhân căn bản thúc đẩy sự hình thành giữa trẻ và những
người xung quanh một quan hệ mới so với trước đó.


Những thay đổi trong mối quan hệ với thầy cô giáo và tập thể học sinh cùng
lớp có ảnh hưởng sâu sắc nhất đối với đứa trẻ.


Giáo viên có trách nhiệm giảng dạy, học sinh có trách nhiệm học và hồn
thành nhiệm vụ học tập. Giáo viên sẽ là người đánh giá kết quả học tập của học
sinh, thậm chí sẽ phải nhắc nhở, khiển trách những học sinh chưa hoàn thành nhiệm
vụ. Học sinh phải làm việc độc lập trong suốt quá trình tham gia hoạt động học tập
từ việc lĩnh hội tri thức đến thực hành kiểm tra đánh giá. Bên cạnh đó, kết quả đạt
được của từng học sinh lại liên quan đến kết quả chung của tập thể lớp.


<i>VD: bị điểm kém, không mặc đồng phục…đều ảnh hưởng đến tập thể</i>


Mối quan hệ trên đòi hỏi ở học sinh lớp một tính tự lập cao hơn, cứng rắn và
có ý thức khơng chỉ đối với nhiệm vụ được giao mà còn ý thức được trách nhiệm
với tập thể. những trẻ nhút nhát hoặc chưa nhanh chóng điều chỉnh nhận thức để hoà


vào mối quan hệ mới dễ dẫn tới tình trạng lo lắng sợ sệt ngại tiếp xúc với cơ giáo và
bạn bè.


Vì vậy, ngay từ khi cịn ở mẫu giáo hoặc ở nhà cần tạo cho trẻ một tâm thế
thoải mái, hình thành tính tự lập, tự tin là một điều kiện giúp trẻ nhanh chóng tiếp
nhận, hoà đồng vào mối quan hệ mới trong trường phổ thông.


<b>4. Một vài yêu cầu cơ bản của người học sinh lớp một ở trường phổ thông</b>
Để công tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp một có hiệu quả ta khơng thể khơng
nghiên cứu chương trình học tập của học sinh lớp một; yêu cầu, nhiệm vụ của người
học sinh lớp một trong quá trình học tập ở trường phổ thông.


Những yêu cầu, nhiệm vụ đối với học sinh lớp một được thể hiện trong nội
dung các môn học, trong nội quy, điều lệ của trường phổ thông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(23)</span><div class='page_container' data-page=23>

So sánh nội dung tri thức của một số môn học của học sinh lớp một với mẫu
giáo ta thấy, nhiều tri thức của một số môn ở lớp một là sự khái quát hoá, hệ thống
hoá những tri thức mà trẻ đã được làm quen và lĩnh hội ở trường mầm non.


Như trên đã trình bày, bước vào lớp một là bước vào môi trường hoạt động
mới với những mối quan hệ mới. Những hành vi, cách ứng xử với người lớn, với
bạn bè đã


</div>
<span class='text_page_counter'>(24)</span><div class='page_container' data-page=24>

thay đổi. Quan hệ “thầy – trị” thay cho quan hệ “Cơ – cháu”. Quan hệ này mang
tính chất nghiêm túc hơn so với quan hệ “Cô – cháu” mềm dịu theo kiểu “Mẹ
-con”. Quan hệ bạn bè trước đây là quan hệ bạn chơi nay quan hệ bạn bè là bạn học.
Yêu cầu đối với quan hệ này cũng khác, địi hỏi phải có trách nhiệm giúp đỡ nhau
trong học tập và “nhóm học tập” được hình thành.


Ngồi việc thay đổi quan hệ xã hội, thay đổi nội dung, tính chất hoạt động, trẻ


phải tập luyện một loạt kĩ năng mới: tập đọc, tập viết, tập làm tốn... để hồn thành
nhiệm vụ theo tính chất cá nhân “bài tập trên lớp, bài tập về nhà...”.


<b>CÂU HỎI ƠN TẬP</b>


1. Phân tích những đặc điểm chủ yếu trong hoạt động học tập của học sinh lớp một.
2. Nêu những nguyên nhân khiến trẻ chưa thích nghi với việc đến trường. Nên giúp
trẻ khắc phục như thế nào?


3. Trẻ thường gặp khó khăn gì khi vào lớp một?


<b>CHƯƠNG III NỘI DUNG CHUẨN BỊ CHO TRẺ 5 TUỔI</b>
<b>VÀO TRƯỜNG TIỂU HỌC</b>


<b>1. Chuẩn bị tâm thế cho trẻ đi học</b>


Lần đầu tiên trẻ đi học, cha mẹ phải chuẩn bị rất nhiều thứ cho trẻ. Nhưng có
một thứ quan trọng lại hay bị bỏ qn hoặc xem nhẹ: đó chính là chuẩn bị tâm lí cho
trẻ trước khi đến trường. Để giúp trẻ thích ứng với mơi trường hoạt động mới và
học tập có kết quả ở trường phổ thông, việc chuẩn bị cho trẻ phải được tiến hành
một cách tồn diện và có cơ sở khoa học.


<i><b>1.1. Nuôi dưỡng hứng thú học tập cho trẻ</b></i>


Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh, hiệu quả của hoạt động này phụ
thuộc khá lớn vào hứng thú nhận thức của người học sinh, có hứng thú trẻ sẽ học
tập tốt hơn. Hứng thú nhận thức khơng phải là cái bẩm sinh vốn có của mỗi người.
Nó là sản phẩm của q trình giáo dục có tổ chức của nhà giáo dục. Vì vậy, ngay từ
những ngày đầu lớp một cần bồi dưỡng hứng thú học tập cho trẻ.



Trong quá trình tổ chức các hoạt động cho trẻ, đặc biệt là hoạt động chơi, cần
kích thích lịng ham hiểu biết, tìm tịi khám phá của trẻ. Ln tạo ra những tình
huống có vấn đề để kích thích trẻ suy nghĩ và giải quyết vấn đề.


<i>VD: trong tiết học cho trẻ làm quen với chữ cái, ta có thể tạo tình huống: cũng</i>
một chữ p ta lật ngược xuống thành chữ b, lật sang trái thành chữ d và lật ngược
xuống thành chữ q…cuối cùng ta có thể giúp trẻ phân biệt được 4 chữ nói trên ở vị
trí khơng gian của các nét chữ và trẻ hứng thú học.


Ngồi ra, trong q trình tổ chức các hoạt động và cuộc sống của trẻ chúng ta
cần khuyến khích trẻ tìm tịi, khám phá những điều mới lạ xung quanh và những
sáng kiến của trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(25)</span><div class='page_container' data-page=25></div>
<span class='text_page_counter'>(26)</span><div class='page_container' data-page=26>

Theo các nhà tâm lí học thì lòng mong muốn được đi học, được trở thành
người học sinh được biểu hiện vào cuối tuổi mẫu giáo, khi những nét tâm lí, thể chất
của trẻ bắt đầu chín muồi. Trẻ bắt đầu ý thức được trường học là nơi giải đáp những
điều trẻ đang thắc mắc, băn khoăn và mong muốn được giải thích.


<i>VD: trong q trình tổ chức cuộc sống và hoạt động cho trẻ cần cho trẻ biết</i>
rằng những băn khoăn, thắc mắc của trẻ: tại sao lại có mưa? tại sao lại có gió? tại
sao hạt nảy mầm thành cây?...khi được đi học ở trường phổ thơng các cháu sẽ được
giải thích một cách tường tận.


Nhu cầu được làm người học sinh được bộc lộ rõ, tuy nhiên nhu cầu đó
khơng phải do chính bản thân hoạt động học tập hấp dẫn trẻ mà chính là đặc điểm
bên ngoài cuộc sống đã hấp dẫn trẻ như được mang cặp sách, có bút vở, quần áo
mới, đồng phục, được sinh hoạt sao nhi đồng, được tiếp xúc với anh chị ở trường
tiểu học…


Lòng mong muốn được đi học, được trở thành người học sinh là sản phẩm


của cả quá trình giáo dục lâu dài ở trường mầm non. Cuối tuổi mẫu giáo, việc tạo ra
những nét tâm lí này được mọi người quan tâm nhiều hơn. Trong quá trình giáo dục
cần phải khêu gợi ở trẻ lòng mong mỏi, háo hức được đi học, được làm một người
học sinh. Bằng nhiều cách làm cho trẻ hiểu mình đã lớn sắp được đi học, tạo cho trẻ
có những biểu tượng về các nghề nghiệp khác nhau, giúp trẻ hiểu rằng để trở thành
người tốt, người tài giỏi thì phải đi học và học thật giỏi.


Với chủ đề trường học, cần giúp trẻ có những biểu tượng chính xác về trường
tiểu học, về người học sinh, về các mối quan hệ xã hội…Từ đó dần dần hình thành
cho trẻ tâm lí muốn được sống và học tập ở trường phổ thơng.


Thơng qua những hình thức hấp dẫn, nhẹ nhàng như cho trẻ đi thăm một số
trường tiểu học gần gũi, gặp gỡ các anh chị học sinh chăm ngoan, học giỏi, làm
quen với đồ dùng học tập đẹp và hấp dẫn như sách vở, giấy bút, cặp sách hoặc
thơng qua các bài hát, bài thơ, chuyện kể, trị chơi có nội dung gần gũi với đề tài trẻ
vào lớp một,…Tất cả những thứ đó tuy chưa tạo ra động cơ học tập đích thực nhưng
có khả năng khơi dậy lòng mong mỏi, tâm thế náo nức được đến trường, được làm
một người học sinh, được biết những điều mới lạ, từ đó tạo cho trẻ niềm vui đi học.
<b>2. Chuẩn bị tốt về mặt thể lực cho trẻ</b>


Một điều kiện quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của trẻ là
sự phát triển thể chất. Thể chất phát triển tốt tạo điều kiện thuận lợi cho những tư
chất, những yếu tố sinh học với tư cách là tiền đề vật chất của sự phát triển nhân
cách.


Một khi cơ thể được khoẻ mạnh thì con người hoạt động tích cực, lạc quan
trong cuộc sống. Ngược lại, một cơ thể ốm yếu, bệnh hoạn con người trở nên lười
biếng, hoạt động mệt mỏi, kém hiệu quả, bi quan trong cuộc sông ...


Chuẩn bị về mặt thể lực cho trẻ không chỉ đơn giản là phát triển chiều cao,


trọng lượng cơ thể, mà điều chủ yếu và cần thiết là năng lực làm việc bền bỉ, dẻo
dai, có khả năng chống lại sự mệt mỏi của thần kinh, cơ bắp; độ khéo léo của bàn
tay, là rèn luyện cho các giác quan của trẻ em trở nên tinh nhạy hơn... Trong thực tế
cuộc sống, nhiều trẻ em có cơ thể phát triển cân đối, hài hoà về chiều cao, trọng
lượng, song khả năng hoạt động lại hạn chế : kém linh hoạt, dễ mệt mỏi, khả năng
quan sát yếu...Ngược lại, có những trẻ em chỉ số về chiều cao, trọng lượng dưới
mức bình thường nhưng do biết luyện tập, các em có khả năng bền bỉ, linh hoạt, các
giác quan nhạy bén ...


</div>
<span class='text_page_counter'>(27)</span><div class='page_container' data-page=27>

Để có được những tư chất đó, cần tạo một chế độ sinh hoạt, ăn uống nghỉ
ngơi, luyện tập…cho trẻ một cách khoa học và hợp lý cả về thời gian cũng như phù
hợp với đặc điểm phát triển riêng của từng trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(28)</span><div class='page_container' data-page=28>

Trước hết là chế độ dinh dưỡng trong ăn uống của trẻ, chế độ vệ sinh và
chương trình rèn luyện thể chất cho trẻ một cách hợp lý. Tất cả những chế độ sinh
hoạt và luyện tập này được thể hiện rõ trong nội dung chương trình chăm sóc sức
khoẻ của trẻ mẫu giáo. Điều quan trọng là phải nghiên cứu và thực hiện chương
trình này một cách nghiêm túc, thường xuyên.


<b>3. Tổ chức tốt cho trẻ hoạt động trí tuệ</b>
<i><b>3.1. Dạy trẻ biết điều khiển chú ý của mình</b></i>


Khả năng chú ý của trẻ mẫu giáo đang phát triển mạnh mẽ. Chú ý có chủ định
đang hình thành và phát triển, song chú ý không chủ định vẫn chiếm ưu thế. Vẻ bề
ngoài của sự vật hiện tượng: màu sắc, hình dạng, kích thước… vẫn hấp dẫn lôi cuốn
mạnh sự chú ý của trẻ. Để giúp trẻ giải quyết được nhiệm vụ học tập ở trường phổ
thông sau này, ngay từ lứa tuổi mẫu giáo, đặc biệt là trẻ mẫu giáo 5 tuổi, chúng ta
cần rèn luyện cho trẻ biết tập trung chú ý vào những ấn đề cần nhận thức.Trong
công tác giáo dục chúng ta cần tạo điều kiện để giúp trẻ chuyển dần chú ý khơng
chủ định đến chú ý có chủ định. Điều này có thể tiến hành trong các tiết học, trong


trị chơi, trong giao tiếp…


<i>VD: giờ kể chuyện, giáo viên giao nhiệm vụ cho trẻ sau khi nghe cô kể, các</i>
cháu phải nhớ được tên nhân vật, nội dung câu chuyện và kể lại cho các bạn cùng
nghe.


Hay trong trò chơi học tập “Con gì biến mất”, để giải quyết được nhiệm vụ
chơi là quan sát xem con gì đã biến mất trẻ phải tập trung chú ý để nhớ xem có
những con vật gì? chỉ khi nào tập trung chú ý như vậy trẻ mới giải quyết được
nhiệm vụ chơi. Tương tự như vậy, có những trị chơi “Nghe tiếng kêu”, “Đốn tên
con vật”, “Túi vải kì diệu”…cũng là cơ hội để rèn luyện sự tập trung chú ý có chủ
định.


Đồng thời với việc rèn cho trẻ sự tập trung chú ý có chủ định, cần phải ngăn
ngừa bệnh đãng trí và sự phân tán chú ý của trẻ. Trong quá trình giáo dục cần tránh
những tác động bên ngồi như tiếng ồn, hoạt động phi giáo dục,.. làm phân tán sự
chú ý của trẻ.


Hơn nữa, như chúng ta đã biết, hoạt động học tập ở trường phổ thơng địi hỏi
người học sinh phải duy trì sự chú ý của mình trong một thời gian khá dài, do vậy
trường mầm non cần phải tập cho trẻ biết duy trì chú ý trong những khoảng thời
gian cần thiết trong các hoạt động. Những hoạt động mà có thể tập cho trẻ duy trì
chú ý trong một thời gian dài là hoạt động tạo hình, hoạt động múa, hoạt động cho
trẻ làm quen với môi trường xung quanh, trong tiết học thơ truyện, trò chơi học tập,
trò chơi xây dựng...Thời gian chú ý của trẻ nhiều hay ít phụ thuộc vào nội dung,
nhiệm vụ hoạt động. Trong hoạt động tạo hình có thể tăng dần nhiệm vụ hoạt động:
yêu cầu trẻ tạo ra những sản phẩm phức tạp dần. VD: lúc đầu yêu cầu nặn quả, sau
đó thêm cuống, rồi có thêm lá, cành…hay trong trị chơi xếp hình cũng có thể kéo
dài thời gian chú ý của trẻ qua việc tăng nhiệm vụ chơi: xếp căn nhà, xếp đường đi,
hàng rào, cây cối…



Bên cạnh việc tập cho trẻ khả năng duy trì sự chú ý trong khoảng thời gian
cần thiết cho một hoạt động, cũng cần tập cho trẻ hoàn thành dứt điểm công việc
trong một thời gian nhất định: chơi trong bao lâu, ăn trong bao lâu,…điều này rất
cần thiết khi trẻ vào lớp một, nó giúp cho trẻ hồn thành nhiệm vụ của người học
sinh trong những koảng thời gian nhất định.


<i><b>3.2. Phát triển hoạt động nhận cảm</b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(29)</span><div class='page_container' data-page=29>

thức khá phong phú về thế giới xung quanh, đó là những tri thức “tiền khoa học”, là
tiền đề cần thiết cho hoạt động học tập của trẻ sau này.


Để hoạt động nhận cảm của trẻ phát triển theo hướng tích cực, làm tiền đề
cho nhận thức lí tính và hoạt động học tập căng thẳng sau này, cần phải rèn luyện
cho trẻ biết cách quan sát sự vật hiện tượng thế giới xung quanh, qua đó giúp trẻ
nhận biết những


</div>
<span class='text_page_counter'>(30)</span><div class='page_container' data-page=30>

thuộc tính cơ bản, đặc trưng của đối tượng, phân biệt được sự vật hiện tượng này
với sự vật hiện tượng khác.


<i>VD: Thông qua các hoạt động cần rèn cho trẻ khả năng quan sát nhằm nhận</i>
ra được những thuộc tính cơ bản của vật thể như cứng - mềm, nhẵn nhụi - sần sùi,
những thuộc tính của các con vật (con gà mào đỏ, lông vàng, đi bảng hai chân, con
cá bơi dưới nước…), những thuộc tính của cây cối (cây lấy gỗ, cây lấy quả, rau
quả… ). Đặc biệt, qua tiết học, cô giáo cần tập cho trẻ nhận biết được các thuộc tính
của các sự vật hiện tượng. Chính nhờ các thuộc tính đặc trưng mà trẻ phân biệt được
sự vật này với sự vật khác (hoa hồng khác hoa đồng tiền ở mùi thơm, cành cây…,
con thỏ khác mèo ở đôi tai…).


Đồng thời cũng cần cho trẻ làm quen với hình khối của sự vật hiện tượng,


những thuộc tính lẩn khuất (thuộc tính khó nhận ra) của đối tượng, mặt khác địi hỏi
trẻ phải có những biểu tượng khá rõ về đối tượng.


<i>VD: khi trẻ vẽ ô tô, chiếc bàn trẻ thường vẽ ô tô có 2 bánh, bàn có 2 chân…</i>
nếu giáo viên khéo gợi ý để trẻ tái hiện lại biểu tượng đã có về đối tượng thì trẻ sẽ
nhận ra những thuộc tính hợp lí của đối tượng.


Sự phát triển của hoạt động nhận cảm được thể hiện ở vốn tri thức, biểu
tượng của trẻ về thế giới xung quanh, đặc biệt là chuẩn cảm giác. Đối với trẻ mẫu
giáo, nhiệm vụ cơ bản của người lớn là giúp trẻ nắm được các chuẩn nhận cảm đơn
giản là chuẩn nhận cảm về màu sắc, về hình dạng, kích thước, âm thanh.


<i><b>3.3. Phát triển tư duy cho trẻ</b></i>


Nếu ở đầu tuổi mẫu giáo tư duy trực quan hành động chiếm ưu thế, thì đầu
tuổi mẫu giáo nhỡ và mẫu giáo lớn tư duy trực quan hình tượng chiếm ưu thế. Có
thể khẳng định rằng sự phát triển của tư duy trực quan hình tượng là nhờ sự phong
phú về biểu tượng của trẻ về thế giới xung quanh. Do vậy, để phát triển tư duy trực
quan hình tượng cho trẻ cần phải cung cấp biểu tượng đa dạng, dồi dào về thế giới
xung quanh và giúp trẻ hệ thống hố, chính xác hố những biểu tượng đó.


Qua các hoạt động giáo dục, đặc biệt là qua việc tổ chức các tiết học cần giúp
trẻ phân loại hệ thống hoá các sự vật hiện tượng khách quan theo một vài dấu hiệu
đặc trưng của đối tượng (gia cầm, gia súc, hoa hồng có mùi thơm và nhiều màu sắc,
con thỏ tai dài lông trắng…).


<i>VD: mẫu giáo bé, trẻ thường phân loại, hệ thống hoá các sự vật hiện tượng </i>
theo


một dấu hiệu đặc trưng: mằu sắc, hình dạng hay mùi vị…đến 5 tuổi trẻ



Như vậy, việc cung cấp biểu tượng đa dạng về thế giới xung quanh cho trẻ là
điều kiện cần và việc giúp trẻ hệ thống hoá những biểu tượng đó theo một dấu hiệu
nào đó là điều kiện đủ để tư duy trực quan hình tượng nói riêng và tư duy nói chung
của trẻ được hình thành và phát triển.


<b>4. Định hướng vào môi trường xung quanh</b>


Khả năng định hướng về không gian và thời gian là một biểu hiện của sự phát
triển trí tuệ. Nó khơng chỉ giúp cho trẻ thích ứng với mơi trường sống mà cịn là
điều kiện cần thiết để trẻ tiếp thu, lĩnh hội chương trình học tập ở trường phổ thơng.
<i><b>4.1. Định hướng vào không gian</b></i>


Khả năng định hướng trong không gian tốt là điều kiện thuận lợi để trẻ học
tập sau này có hiệu quả khơng chỉ đối với mơn tốn, mĩ thuật, tìm hiểu tự nhiên, lao
động – kĩ thuật, giáo dục sức khoẻ… mà còn giúp trẻ tập đọc, tập viết dẽ dàng hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(31)</span><div class='page_container' data-page=31>

giác quan của trẻ (trẻ đưa mắt nhìn theo một vật, hướng về phía có tiếng kêu…).
Khả năng này ngày càng phát triển cùng với sự hoạt động tích cực của cảm giác và
tri giác. Đến tuổi mẫu giáo, khả năng định hướng vào không gian khá phát triển.
Thoạt đầu trẻ lấy bản thân


</div>
<span class='text_page_counter'>(32)</span><div class='page_container' data-page=32>

mình làm chuẩn để xác định các hướng trong không gian: trên đầu, dưới chân, trước
mặt, sau lưng, bên phải, bên trái…


Cuối tuổi mẫu giáo, phần lớn trẻ đã có khả năng phân biệt được trên, dưới,
trước, sau nhưng nhiều trẻ vẫn lẫn lộn, chưa phân biệt được bên phải, bên trái.
Thậm chí nhiều trẻ vào lớp một vẫn chưa phân biệt được tay phải, tay trái…Vì vậy,
trong quá trình tổ chức cho trẻ chơi, học tập, giao tiếp cần thường xuyên rèn luyện
cho trẻ sử dụng tay phải, tay trái để giải quyết nhiệm vụ chơi, nhiệm vụ học tập.


Nếu trẻ khơng phân biệt được vị trí trong khơng gian thì trẻ gặp khó khăn hơn khi
nhận dạng các chữ cái trong một từ, một câu khi tập đọc, tập viết.


<i>VD: những chữ cái p - q, d – b, những từ ít – tí…chỉ khác nhau về vị trí các</i>
nét, các chữ cái trong khơng gian. Đứa trẻ có khả năng định hướng khơng gian tốt sẽ
đọc viết dễ dàng không bị nhầm lẫn.


Cùng với việc rèn luyện cho trẻ xác định các hướng trong không gian xung
quanh bản thân mình, cần dạy trẻ tách mình ra khỏi đối tượng, lấy một vật bất kì
nào đó để xác định hướng trong không gian của đối tượng.


<i>VD: trẻ lấy cái bàn làm chuẩn để xác định cái ca, cái cốc, con búp bê…ở trên</i>
bàn, dưới gầm bàn, phía trước, đằng sau, bên phải, bên trái cái bàn…


Việc tách mình ra khỏi đối tượng, lấy một vật nào đó làm chuẩn để định
hướng vị trí khơng gian của đối tượng sẽ giúp trẻ tiếp thu được tri thức, thực hiện
được nhiệm vụ học tập sau này.


Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày, trong tổ chức trò chơi, tổ chức “tiết
học” cần đặt ra những nhiệm vụ mà trẻ phải dựa vào một vật nào đó làm chuẩn để
giải quyết nhiệm vụ. Đồng thời cũng cần tăng mức độ khó, phức tạp để phát triển
khả năng định hướng khơng gian cho trẻ.


<i>VD: phía trên bên phải cửa sổ có gì? Phía dưới bên trái cái tủ có cái gì? Phía trước</i>
cái ghế, canh cái bàn bên phải có gì?...


<i><b>4.2. Định hướng vào thời gian</b></i>


Khả năng định hướng vào thời gian giúp trẻ lĩnh hội được diễn biến vận
động, phát triển của các sự vật trong không gian và thời gian.



Hình thành khả năng định hướng vào thời gian cho trẻ mẫu giáo là điều kiện
cần thiết để trẻ học tập, sinh hoạt ở trường phổ thông sau này, xây dựng thời gian
biểu cho cơng việc của mình. Các nhà Tâm lí học đã khẳng định rằng, khả năng
định hướng về thời gian của trẻ phát triển chậm hơn khả năng định hướng không
gian. Khi dạy trẻ biết định hướng vào thời gian cần quan tâm đến những nội dung
cơ bản sau:


- Dạy trẻ nhận biết các thời điểm:


+ Các thời điểm trong ngày: sáng, trưa, chiều, tối, đêm. Có thể dạy trẻ nhận
biết các biểu tượng về các thời điểm trong ngày dựa vào các công việc sinh hoạt của
con người vào các thời điểm trong ngày, dựa vào quang cảnh thiên nhiên ở các thời
điểm: buổi sáng mặt trời mọc, con gà trống gáy, mọi người chuẩn bị đi làm…và dạy
trẻ biết biểu tượng về bình minh, hồng hôn.


+Dạy trẻ nhận biết các ngày trong tuần: biểu tượng về tuần lễ giúp trẻ thực
hiện được thời gian biểu của một tuần. Trẻ phải hiểu được một tuần có 7 ngày, thứ 2
là ngày đầu tuần, chủ nhật cuối tuần mọi người được nghỉ ngơi giải trí…


+Mức độ cao hơn của biểu tượng về thời điểm là dạy trẻ nhận biết các mùa
trong một năm qua những đặc điểm nổi bật về thời tiết. Ở miền Bắc có 4 mùa Xn,
Hạ, Thu, Đơng; miền Nam có 2 mùa là mùa mưa và mùa khô.


+ Cung cấp cho trẻ biểu tượng về một số ngày đặc biệt trong năm: Tết


</div>
<span class='text_page_counter'>(33)</span><div class='page_container' data-page=33></div>
<span class='text_page_counter'>(34)</span><div class='page_container' data-page=34>

Giúp trẻ hiểu được quá khứ là thời điểm mà một sự vật hiện tượng nào đó đã
xảy ra trước đây, hiện tại là thời điểm một sự vật hiện tượng nào đó đang xảy ra,
tương lai là thời điểm mà một sự vật nào đó sẽ xảy ra…



+Thời điểm hiện tại: tức là một thời điểm được tính bằng giờ,
phút. VD: bây giờ là 9 giờ sáng, bây giờ là buổi chiều, bây giờ là


buổi tối…


+Từ mốc thời gian hiện tại, cung cấp cho trẻ biểu tượng về quá khứ (vừa
xảy ra). VD: vừa rồi bạn Nam bị ngã, lúc nãy bạn Lan không vâng lời cô…
+Từ mốc thời gian hiện tại, cung cấp cho trẻ biểu tượng về tương lai (gần)
tức là thời điểm mà trong một thời gian ngắn (vài phút) một sự vật hiện tượng nào
đó sẽ xảy ra.


<i>VD: tí nữa chúng ta sẽ đi dạo, chốc nữa là đến giờ tập thể dục…</i>


+Trong một vài hoàn cảnh cụ thể có thể tính thời gian bằng đơn vị phút
<i>VD: 3 phút nữa sẽ đến giờ ăn, chúng ta vào học được 5 phút rồi…</i>


+ Từ mốc thời gian 1ngày cung cấp cho trẻ biểu tượng về hôm qua, hôm nay,
ngày


mai


<i>VD: hôm qua chúng ta đi chơi công viên, hôm nay chúng ta cùng nhau xây</i>
dựng công viên; hôm nay tập múa hát để ngày mai chúng ta biểu diễn văn nghệ…


+ Trong những hoàn cảnh cụ thể cần hình thành cho trẻ biểu tượng thời gian
dài


hơn


<i>VD: trước đây cháu là trẻ nhỏ, hiện nay cháu là mẫu giáo lớn, sang năm cháu</i>


là học sinh tiểu học và sau này lớn lên cháu sẽ làm cô giáo, bác sĩ, chú bộ đội…


- Dạy trẻ ước lượng gần đúng thời gian đơn giản


Thơng qua các hình thức tổ chức hát múa, tạo hình, kể chuyện, làm các cơng
việc nhỏ trong cuộc sống hàng ngày… để dạy trẻ ước lượng các khoảng thời gian
mà trẻ thường sử dụng.


<i>VD: 5 phút nữa chúng ta sẽ đi dạo, 10 phút nữa chúng ta sẽ biểu diễn, chúng</i>
ta chơi trong nửa tiếng, một giờ nữa ăn cơm, chúng ta được nghỉ một ngày, nghỉ Tết
một tuần…


<i><b>4.3. Dạy trẻ một số hiểu biết về môi trường gần gũi xung quanh</b></i>


Môi trường xung quanh rất đa dạng, phong phú, bao gồm môi trường tự nhiên
và môi trường xã hội. Khi tiếp xúc với môi trường xung quanh trẻ tiếp thu được
những tri thức nhất định, đó là những tri thức đơn giản, những biểu tượng gần gũi
với cuộc sống của trẻ.


Trước hết là cung cấp cho trẻ những hiểu biết về môi trường gần gũi xung
quanh trẻ: các sinh hoạt hàng ngày của con người (ăn uống, tắm rửa, vui chơi giải
trí…), các nghề trong xã hội, những quan hệ giao tiếp ứng xử giữa người với người
trong xã hội (quan hệ giữa con cái với bố mẹ, giữa giáo viên với học sinh, giữa bác
sĩ với bệnh nhân…). Những tri thức này có thể cung cấp cho trẻ ở mọi lúc, mọi nơi,
mọi hoạt động.


</div>
<span class='text_page_counter'>(35)</span><div class='page_container' data-page=35>

+ Về thế giới thực vật gần gũi xung quanh trẻ: dạy trẻ biết tên gọi, đặc điểm
bề ngồi, q trình sinh trưởng và phát triển (nảy mầm, ra hoa, kết quả), mơi trường
sống, hữu ích của nó đối với cuộc sống con người. Dạy trẻ biết phân loại thực vật:
cây lấy gỗ, cây cảnh, cây bóng mát, cây lấy quả, cây có gai,…các loại hoa có màu


vàng, màu đỏ, có hương thơm, các loại rau đậu…những tri thức này trẻ tiếp thu
được qua các tiết học làm quen với môi trường xung quanh, qua đi dạo, tham quan,
qua các trò chơi…


+ Về thế giới động vật: cần dạy trẻ gọi đúng tên các con vật quen thuộc gần
gũi, nắm được đặc điểm bên ngoài của các con vật, môi trường sống, đặc điểm sinh
hoạt và


</div>
<span class='text_page_counter'>(36)</span><div class='page_container' data-page=36>

lợi ích của chúng… trên cơ sở hiểu biết về thế giới động, thực vật cần giáo dục trẻ
biết yêu quý, chăm sóc, bảo vệ cây trồng, vật ni.


<i>VD: con gà có 2 chân, 2 cánh; chó có 4 chân, có mõm; thỏ có đơi tai dài…; </i>
cá sống dưới nước; chim biết bay; thỏ đẻ con; gà đẻ trứng; bò kéo xe…


+Về thế giới đồ vật, đồ chơi: cung cấp cho trẻ tên gọi, chức năng và phương
thức sử dụng các đồ vật, đồ chơi, giúp trẻ nhận biết chất liệu vật liệu làm ra đồ vật,
đồ chơi và biết phân loại các đồ vật theo một dấu hiệu nào đó.


<i>VD: </i>ca dùng để uống nước, ghế để ngồi, kéo để cắt tóc, cắt giấy; ca bằng
nhơm, ghế bằng gỗ, kéo bằng sắt…và phân loại theo chức năng: các đồ dùng sinh
hoạt (ca, cốc, bát, đũa, xoong, nồi…); các đồ dùng lao động (cày, cuốc, búa,
liềm…); các dụng cụ thể thao (vợt cầu lơng, bóng bàn, bóng đá…); các dụng cụ âm
nhạc (đàn, sáo, nhị, trống…)…


+ Về những hiện tượng thiên nhiên gần gũi: nắng, mưa, gió, cát, sỏi, đá,
nước, khơng khí…


Cần hướng dẫn trẻ quan sát, phân tích các dấu hiệu của các hiện tượng.
<i>VD: trời mưa sấm chớp đùng đoàng, mây đen bao phủ, nước mưa ào ào như </i>
trút nước…; khi đi nắng phải đội mũ nón, trời mưa phải mặc áo mưa…



Tất cả những tri thức này có thể cung cấp cho trẻ thơng qua nhiều con đường
như quan sát, tổ chức lao động, chăm sóc cây…


<b>5. Những định hướng vào xã hội</b>


<i><b>5.1. Chuẩn bị cho trẻ gia nhập vào những mối quan hệ xã hội rộng lớn hơn </b></i>
<i><b>trước</b></i>


Vào lớp một là một bước ngoặt trong cuộc đời của đứa trẻ. Khi vào lớp một
không chỉ hoạt động chủ đạo thay đổi mà môi trường xã hội và các quan hệ xã hội
cũng thay đổi, các em được tham gia vào nhiều mối quan hệ xã hội. Vì vậy, để trẻ
thích ứng nhanh chóng với mơi trường sống mới, thiết lập được các mối quan hệ xã
hội mới, ngay từ thời kì mẫu giáo cần phải mở rộng các mối quan hệ xã hội của trẻ,
cho trẻ làm quen với những quan hệ xã hội mà sau này khi vào lớp một các em phải
giao tiếp ứng xử.


- Trong các mối quan hệ xã hội rộng lớn ấy, trẻ phải nhận biết được vị trí của
mình.


+Trong gia đình, trẻ phải nhận ra được mình là con của bố mẹ, cháu của ơng
bà… phải biết vâng lời bố mẹ, ơng bà, kính trọng và giúp đỡ bố mẹ, ông bà, nhường
nhịn, giúp đỡ em nhỏ…


+Ở trường, trẻ phải nhận ra vị trí mình khi tiếp xúc với các bạn trong lớp,
các bạn cùng trường, với cô giáo, với các cán bộ CNV, với hiệu trưởng…


+Ngồi ra, có các mối quan hệ giữa trẻ với làng xóm, phố phường…trẻ phải
biết lễ phép với những người xung quanh; biết cám ơn, xin lỗi; kính trọng người già,
giúp đỡ em nhỏ; có ý thức bảo vệ môi trường; cảm thông, giúp đỡ người tàn tật,


những người gặp cảnh ngộ éo le…


Những quan hệ xã hội và cách ứng xử thích hợp với các mối quan hệ xã hội
ấy được hình thành và củng cố trong quá trình đứa trẻ tham gia vào các mối quan hệ
xã hội trong gia đình, ở nhà trường và ngồi xã hội.


</div>
<span class='text_page_counter'>(37)</span><div class='page_container' data-page=37>

Đến cuối tuổi mẫu giáo, động cơ xã hội thúc đẩy mạnh mẽ hành vi của trẻ,
nhất là những hành vi đạo đức. Cụ thể, trẻ muốn làm một cái gì cho người khác,
mang lại niềm vui cho người khác ngày càng chiếm ưu thế. Trẻ đã hiểu rằng những
hành vi của chúng


</div>
<span class='text_page_counter'>(38)</span><div class='page_container' data-page=38>

có thể mang lại lợi ích cho người khác và chúng có thể thực hiện cơng việc vì người
khác theo sáng kiến của mình… Vì vậy, người lớn cần phải làm sao để trẻ có thể
hình dung được việc mình làm là đem lại niềm vui cho những người mà trẻ quan
tâm.


<i>VD: khuyến khích trẻ hồn thành được cơng việc làm đồ chơi tặng các em bé</i>
nhà trẻ nhân dịp tết Trung thu. Cô giáo cần giúp trẻ hiểu sự thèm khát có đồ chơi
của các em bé ở nhà trẻ, niềm vui của các em khi nhận được quà Trung thu do anh
chị mẫu giáo gửi…từ đó trẻ sẽ tự giác thực hiện các yêu cầu của người lớn.


Trong việc hình thành cho trẻ động cơ xã hội tích cực, người lớn cần xác định
xem trẻ hành động do động cơ nào thúc đẩy: lễ phép với người lớn, giiúp đỡ ơng bà,
cha mẹ…xuất phát từ lịng mong muốn của mình là đem lại niềm vui cho người
khác (động cơ tích cực) hay xuất phát từ mục đích cá nhân: được khen thưởng…


Vào lớp một, các hoạt động của người học sinh mang tính tập thể cao: trẻ
được sinh hoạt học tập theo một tập thể lớp với những nội quy chặt chẽ: đi học đúng
giờ, giữ gìn lớp học, sân trường sạch sẽ… Để trẻ mẫu giáo khi vào lớp một thích
ứng được với những yêu cầu của tập thể học sinh, ngay từ mơi trường mẫu giáo cần


hình thành ở trẻ nhu cầu tham gia vào các hoạt động mang tính tập thể cao. Cụ thể,
cần tăng cường tổ chức trẻ tham gia vào các hoạt động cùng nhau, trong đó hoạt
động vui chơi mà trung tâm tâm là trị chơi đóng vai theo chủ đề có ý nghĩa to lớn
trong việc hình thành các quan hệ xã hội và nhu cầu hoạt động theo nhóm, theo tập
thể. Ngoài ra, cần tổ chức cho trẻ đi dạo chơi, qua các “tiết học”…cũng hình thành
ở trẻ ý thức tập thể.


<i><b>5.2. Hình thành ở trẻ khả năng tự điều chỉnh hành vi</b></i>


Ýthức về hành động của trẻ mẫu giáo có những bước phát triển rõ rệt. Từ
những hành vi mang tính bột phát, khơng chủ định đến những hành vi chủ định, có
ý thức. Nhờ có sự ý thức được hành vi, việc làm mà trẻ tự điều chỉnh được hành vi
của mình. Vì vậy, người lớn cần tập cho trẻ khả năng tự kiềm chế những nhu cầu,
<i>hành vi cá nhân khi cần thiết. Trong quá trình tổ chức cuộc sống của trẻ, người lớn</i>
cần đặt ra cho trẻ những mục đích, nhiệm vụ và u cầu trẻ kìm hãm những hành vi
bột phát để theo đuổi mục đích, hoàn thành nhiệm vụ.


<i>VD: </i>để thực hiện chế độ sinh hoạt hàng ngày một cách hợp lí, trẻ mẫu giáo
phải tự điều chỉnh nhu cầu, hứng thú của mình. Người lớn phải tập cho trẻ có một
định hình, thói quen thực hiện các công việc theo một chế độ ổn định: giờ nào việc
nấy. Bên cạnh đó, người lớn cần giúp trẻ nhận thức được việc gì nên làm, việc gì
khơng nên làm như đồn kết, vui vẻ, giúp đỡ nhau, không tranh giành đồ chơi của
bạn, phải biết tự sắp xếp bàn ăn, tự xúc ăn…


Đặc biệt, cần chuẩn bị cho trẻ thích ứng với chế độ sinh hoạt ở trường phổ
thông. So với chế độ sinh hoạt ở gia đình và ở mẫu giáo, chế độ sinh hoạt ở trường
phổ thơng mang tính nghiêm ngặt hơn theo một nội quy chặt chẽ. Vì vậy, cần chuẩn
bị cho trẻ thích ứng dần với bằng một chế độ sinh hoạt mềm dẻo hơn phù hợp với
đặc điểm phát triển tâm sinh lí của trẻ 5 tuổi.



Trong cuộc sống hàng ngày, trong các “tiết học”, hay trong việc tổ chức các
trò chơi cần luyện tập cho trẻ một số thói quen cần thiết: thói quen văn hố vệ sinh,
thói quen đi đứng, ngồi học ngay ngắn, thói quen gọn gàng, ngăn nắp; nhanh nhẹn
trong sinh hoạt, trong giao tiếp; tập cho trẻ khả năng thao tác khéo léo của đôi tay,
tập kĩ năng cầm bút, cầm kéo…


</div>
<span class='text_page_counter'>(39)</span><div class='page_container' data-page=39>

Ngôn ngữ vừa là phương tiện vừa là điều kiện để con người hoạt động và
giao lưu.Trong hoạt động học tập, ngôn ngữ vừa là công cụ để tư duy, lĩnh hội tri
thức, vừa nói lên khả năng trí tuệ của con người.


</div>
<span class='text_page_counter'>(40)</span><div class='page_container' data-page=40>

Phát triển ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ cho trẻ em lứa tuổi mầm non vừa giúp cho
việc phát triển trí tuệ của trẻ vừa là phương tiện quan trọng để trẻ học tập có hiệu
quả ở trường phổ thông.


Ngôn ngữ của trẻ em lứa tuổi mầm non chủ yếu là ngơn ngữ nói: sự phát triển
ngơn ngữ nói của trẻ em phụ thuộc rất lớn vào sự giao tiếp của trẻ em với người lớn
và trẻ em với nhau. Trong công tác giáo dục mầm non, người lớn cần phải có ý thức
rèn luyện và phát triển ngôn ngữ cho trẻ một cách thường xuyên, liên tục ở mọi lúc,
mọi nơi, mọi hoạt động.


<i><b>6.1. Phát âm và dùng ngữ điệu đúng, thích hợp khi sử dụng tiếng mẹ đẻ</b></i>


Giúp trẻ sử dụng thành thạo tiếng mẹ đẻ là một nhiệm vụ cơ bản của giáo dục
mầm non. Tiếng mẹ đẻ là phương tiện quan trọng nhất để lĩnh hội nền văn hoá dân
tộc, để giao lưu với những người xung quanh, để sử dụng, để tiếp thu khoa học, để
bồi bổ tâm hồn…


Việc luyện tập cho trẻ phát âm đúng và dùng ngữ điệu đúng thích hợp được
diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi hoạt động của trẻ. Trước hết là trong giao tiếp hàng
ngày của trẻ với người lớn, với bạn bè. Trong cuộc sống hàng ngày, người lớn cần


thường xuyên giao tiếp bằng ngôn ngữ với trẻ (ngay cả khi trẻ chưa biết nói). Khi
giao tiếp với trẻ, người lớn phải phát âm rõ ràng, phát âm đúng để trẻ bắt chước,
uốn nắn, tập cho trẻ phát âm đúng các âm tiết của tiếng mẹ đẻ, nhất là những âm
khó (uềnh ồng, khúc khuỷu…), những âm khó phân biệt, dẫn đến sự nói ngọng (l –
m, ch – tr, x – s, p – ph,…), chú ý đến các dấu thanh (hỏi, ngã, nặng…)…


Trong giao tiếp hàng ngày, người lớn không chỉ rèn luyện cho trẻ phát âm
đúng, mà cần tập cho trẻ biết sử dụng ngữ điệu đúng, thích hợp với hồn cảnh, tâm
trạng cụ thể.


Việc dạy trẻ phát âm đúng, sử dụng ngữ điệu thích hợp, đúng cịn được thực
hiện trong việc tổ chức cho trẻ chơi, trong hoạt động học tập, đặc biệt là trong khi
kể chuyện cho trẻ nghe và khi trẻ kể chuyện cho người khác nghe. Khi kể chuyện,
giọng nói và ngữ điệu là phương tiện rất quan trọng. Người lớn kể chuyện, trẻ tập
trung chú ý cao độ vào ngôn ngữ kể chuyện của người lớn, lắng nghe cách phát âm,
ngữ điệu của người lớn, trên cơ sở đó trẻ học được cách phát âm, dùng ngữ điệu
thích hợp và kể lại chuyện theo sự sáng tạo của mình. Khi trẻ kể lại chuyện, người
lớn uốn nắn cho trẻ cách phát âm đúng các âm khó, sử dụng ngữ điệu thích hợp,
đúng với tính cách nhân vật trong những tình huống cụ thể.


<i><b>6.2. Phát triển vốn từ và nói đúng ngữ pháp</b></i>


5 tuổi trẻ đã tích luỹ được vốn từ khá phong phú, không những danh từ mà
cịn cả động từ, tính từ, liên từ đủ để giao tiếp với những người xung quanh. Việc
phát triển vốn từ cho trẻ không chỉ là việc cung cấp từ mới cho trẻ mà cần giúp trẻ
mở rộng nghĩa của từ mà trẻ đã biết.


<i>VD: trước đây trẻ hiểu từ “ngủ” là để chỉ một người nào đó đang ngủ thì giờ</i>
đây cần giúp trẻ hiểu một cách khái quát hơn: ngủ là từ chỉ tất cả những sinh vật
đang ngủ (em bé ngủ, con mèo ngủ…). Tương tự như vậy, cũng một từ ‘ăn” diễn


đạt cho nhiều đối tượng: em bé đang ăn, con gà đang ăn, con chó đang ăn…


Cung cấp, phát triển vốn từ cho trẻ là rất quan trọng, song việc luyện tập cho
trẻ biết nói đúng cấu trúc câu trong tiếng mẹ đẻ, khơng nói câu què, câu cụt, nói
nhát gừng, nói lộn ngược vị trí từ trong câu cịn quan trọng hơn.


</div>
<span class='text_page_counter'>(41)</span><div class='page_container' data-page=41>

mực hành vi, nên nhiều khi trẻ hay nói trống khơng với người khác. Vì vậy, người
lớn cần nghiêm túc yêu cầu trẻ nói câu đầy đủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(42)</span><div class='page_container' data-page=42>

Việc phát triển vốn từ và giúp trẻ nói đúng ngữ pháp cịn phụ thuộc vào tính
tích cực giao tiếp của trẻ. Để nâng cao tính tích cực giao tiếp cho trẻ, một mặt ta cần
thường xuyên, tích cực giao tiếp với trẻ, mặt khác cần phải tạo điều kiện để trẻ giao
tiếp, bộc lộ những ý muốn, hiểu biết của mình với người lớn, với bạn bè. Nghĩa là ta
khơng chỉ nói cho trẻ nghe mà cịn nghe trẻ nói, quan sát trẻ nói chuyện, giao tiếp
với nhau.


<i><b>6.3. Phát triển ngơn ngữ mạch lạc</b></i>


Ngơn ngữ mạch lạc là hình thức giao tiếp cơ bản của người học sinh. Hình
thức giao tiếp này đã được hình thành ở cuối tuổi mẫu giáo. Trong quá trình giao
tiếp, trẻ mẫu giáo lớn đã bắt đầu sử dụng ngơn ngữ giải thích, đặc biệt là ngôn ngữ
mạch lạc để diễn đạt, nhấn mạnh ý muốn, sự hiểu biết của mình để người khác có
thể hiểu được trẻ muốn gì, nói cái gì. Trong q trình tổ chức cho trẻ hoạt động và
giao tiếp người lớn cần tạo điều kiện để trẻ nói rõ ràng, sắp xếp các ý theo một trình
tự hợp lí, nêu bật các ý cần nhấn mạnh để người khác hiểu một cách dễ dàng.


<i>VD: cần tập cho trẻ mô tả một cơng viên (trẻ đã có dịp tham quan hoặc quan</i>
sát tranh, mơ hình) trước khi xây dựng cơng viên. Tập cho trẻ kể sáng tạo truyện cổ
tích sau khi nghe cô giáo kể, hướng dẫn trẻ dùng ngữ điệu để nhấn mạnh, làm nổi
bật tính cách, nội dung câu chuyện, sắp xếp các ý theo lôgic cốt chuyện.



Đến 5 tuổi, trẻ có khả năng đánh giá khả năng ngơn ngữ của bạn, của mình,
Do vậy, bên cạnh việc rèn cho trẻ phát âm đúng, nói năng rõ ràng, mạch lạc, người
lớn cần tạo điều kiện cho trẻ tự nhận xét, đánh giá lẫn nhau.


<i>VD: “gấu gì mà ăn nói nhẹ nhàng, dịu dàng, yếu đuối thế”, “bác sĩ, cô giáo gì</i>
mà qt tháo ầm ĩ, la lối om sịm, nói năng cộc lốc vậy…”


Ngơn ngữ mạch lạc cịn được thể hiện ở chỗ trẻ nói năng có văn hố (nói
thoải mái, vừa đủ nghe, khơng hét, khơng nói tục, chửi bậy…). Xã hội càng văn
minh thì vấn đề giáo dục hành vi văn hoá trong giao tiếp càng trở nên quan trọng.
Ngay từ tuổi mầm non, người lớn cần rèn luyện cho trẻ thói quen nói năng có văn
hố. Tập cho trẻ sự tự tin khi giao tiếp với người khác, không rụt rè, e sợ khi giao
tiếp với người khác, âm lượng phát ra vừa đủ nghe, không gắt gỏng, khơng la hét,
khơng nói tục, chửi bậy. Tơn trọng, lễ phép với người lớn khi giao tiếp, dịu dàng đối
với em nhỏ, khơng nói leo, khơng nói dối, không gây ồn ào làm ảnh hưởng đến
người khác…


Trẻ độ tuổi này thường bắt chước ngôn ngữ người lớn. Do vậy, trong công
tác giáo dục người lớn phải thực sự gương mẫu về lời ăn tiếng nói khi giao tiếp với
những người xung quanh, nghiêm khắc và uốn nắn kịp thời khi trẻ nói năng tục tằn,
thơ lỗ. Đồng thời tránh những ảnh hưởng xấu từ bên ngoài đến trẻ, giúp trẻ nhận ra
những chuẩn mực về ngôn ngữ giữa người với người trong xã hội.


<i><b>6.4. Sửa các tật ngôn ngữ</b></i>


Tật ngôn ngữ thường gặp nhất ở trẻ là tật nói ngọng. Có thể nói ngọng do
nguyên nhân sinh học: bộ máy phát âm của trẻ kém phát triển; có thể do tác động
của những yếu tố khách quan: tập quán địa phương (ngọng các từ có phụ âm l – n,
ch – tr, s - x, d - r…). Những tật nói ngọng đó có thể sửa được nếu người lớn phát


âm chuẩn và có ý thức uốn nắn, sửa chữa cho trẻ. Thậm chí tật nói ngọng do
ngun nhân sinh học, nếu người lớn luôn phát âm chuẩn, thì đến một lúc nào đó bộ
máy phát âm của trẻ phát triển thì trẻ sẽ khắc phục được tật nói ngọng của mình.


</div>
<span class='text_page_counter'>(43)</span><div class='page_container' data-page=43>

đến tật nói lắp ở trẻ. Vì vậy, người lớn cần tập cho trẻ tự tin, bình tĩnh trong giao
tiếp, uốn nắn khi trẻ nói lắp, giúp trẻ hiểu được nói lắp là xấu. Đồng thời bản thân
người lớn cũng khơng được nói lắp khi giao tiếp với trẻ và những người khác trước
mắt trẻ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(44)</span><div class='page_container' data-page=44>

Tóm lại, giúp trẻ phát triển ngơn ngữ là một nội dung quan trọng của việc
chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông. Mục tiêu của việc phát triển ngôn ngữ là đến
5 tuổi trẻ em biết sử dụng tiếng mẹ đẻ tương đối thành thạo trong sinh hoạt hàng
ngày, trong học tập, vui chơi.


<b>7. Giúp trẻ làm quen với một số hành vi đạo đức và cách ứng xử giữa người với</b>
<b>người trong trường phổ thông</b>


Vào trường phổ thơng là hồ nhập vào cuộc sống mới với hoạt động mới. Để
thích ứng với mơi trường sống và đạt hiệu quả cao trong hoạt động học tập, trẻ phải
có một số nét đạo đức – tính cách cần thiết. Tính cách là một yếu tố quan trọng
quyết định thành cơng trong tương lai của trẻ. Tính cách của con người vô cùng
phong phú và đa dạng, ngay khi còn nhỏ, đặc biệt là khi trẻ chuẩn bị bước vào lớp
một cần chú ý rèn cho trẻ một số đức tính cần thiết: sự ham mê hoạt động trí óc, tính
kiên trì, sự tập trung chú ý, nỗ lực ý chí trong hoạt động, tinh thần trách nhiệm và
thói quen hồn thành cơng việc được giao, tinh thần tập thể…Đồng thời phải thiết
lập một loạt quan hệ mới: quan hệ giữa trẻ với người lớn, quan hệ giữa trẻ với
nhau…Trong quá trình tổ chức cho trẻ tham gia vào các mối quan hệ xã hội cần
giúp trẻ nhận biết được vị trí của mình và rèn luyện cho trẻ biết cách quan hệ ứng
xử theo đúng vị trí của mình trong các mối quan hệ đó:



-Lễ phép với những người lớn xung quanh


-Kính trọng, yêu mến, giúp đỡ ông bà, bố mẹ, cô giáo


- Đoàn kết, thân ái với bạn bè cùng tuổi, nhường nhịn ân cần giúp đỡ em bé
hơn


mình


-Cảm thơng, sẵn sàng giúp đỡ người tàn tật và gặp cảnh ngộ éo le


-Lòng mong muốn đem lại niềm vui cho mọi người bằng việc làm của mình
dù là


rất nhỏ


-Có ý thức bảo vệ mơi trường…


Việc cho trẻ làm quen với một số hành vi đạo đức và cách ứng xử giữa người
với người trong trường phổ thông ngay từ lứa tuổi mẫu giáo sẽ giúp cho trẻ thích
ứng nhanh chóng với mơi trường sống và hoạt động ở trường phổ thông.


Những hành vi và cách ứng xử trên đây được hình thành ở trẻ thông qua các
hoạt động cùng nhau. Qua những hoạt động cùng nhau, những động cơ xã hội được
hình thành, ý thức tập thể và mối quan hệ xã hội được hình thành.


Ngồi ra, người lớn cần hình thành cho trẻ một số đức tính tốt khác như sự
hoạt bát, lạc quan; tính kiên trì, nhẫn nại, sự tự tin vào bản thân; tính tự lập, tự chủ;
tính sang tạo; tính trung thực; tính khiêm tốn…



Đồng thời cân rèn luyện cho trẻ những thói quen vệ sinh cá nhân, nếp sống
văn hóa, vệ sinh nơi cơng cộng và một số thói quen giữ gìn sức khỏe.


<b>8. Trang bị cho trẻ những kỹ năng và thói quen cần thiết cho hoạt động học tập</b>
<b>và giao tiếp của trẻ</b>


Theo các chuyên gia tâm lý, thời gian chuẩn bị vào lớp một là rất quan trọng
với các trẻ. Đây là khoảng thời gian trẻ bắt đầu học những thói quen, nếp sống của
người lớn. Vì vậy, cha mẹ, thầy cơ cần chú ý rèn cho trẻ những kỹ năng, thói quen
cơ bản, giúp trẻ tự tin, hoà đồng trước khi bước vào lớp một.


</div>
<span class='text_page_counter'>(45)</span><div class='page_container' data-page=45>

Việc rèn luyện kỹ năng cho trẻ nên bắt đầu từ khi trẻ còn nhỏ, tốt nhất là
trước khi trẻ vào lớp một. Một đứa trẻ trước khi vào lớp một cần phải biết chào hỏi
người lớn một cách lễ phép chứ không phải cha mẹ nhắc mới chào. Trẻ cũng cần
biết cách tự sắp xếp góc riêng của mình, nếu bày ra thì phải dọn và có thể làm chủ
chính mình khi hồ nhập với mơi trường tập thể…


</div>
<span class='text_page_counter'>(46)</span><div class='page_container' data-page=46>

Những kỹ năng và thói quen cần có trước khi bước vào lớp một là kỹ năng
giao tiếp, kỹ năng quan sát, kỹ năng sống trong tập thể, biết nhiều bài hát, biết sang
tác thơ, truyện, biết hồn thành cơng việc, biết tham gia trị chuyện cùng mọi người,
biết đối phó với căng thẳng, biết cách hỏi xin sự giúp đỡ, biết chia sẻ với người
khác, biết tự chăm sóc bản thân, biết cân bằng giữa chơi và học, biết sống hoà đồng,
biết hợp tác và khắc phục khó khăn, biết thành thật và biết nhận lỗi khi có lỗi…


Trong q trình trang bị kỹ năng, thói quen cho trẻ, người lớn cần lưu ý:
-Hạn


chế tối đa dùng roi vọt


-Nhắc nhở một, hai lần đầu nếu trẻ khơng nhớ



-Đưa ra hình thức phạt và tn thủ nghiêm khắc quy định, không được phá lệ
-Không phạt trẻ khi có khách trong nhà, chốn cơng cộng


-Nếu trẻ khơng bằng lịng với cách phạt đó thì cùng thương lượng với trẻ
hình hức xử phạt mà trẻ cho là hợp lý


- Luôn tỏ ra tôn trọng ý kiến của trẻ, bình đẳng trong cách nói chuyện với trẻ,
khơng gán ép, khơng cấm đốn trẻ…


<b>9. Giúp trẻ làm quen với hoạt động nghệ thuật</b>


Xã hội càng văn minh thì nhu cầu tinh thần , nhất là hoạt động nghệ thuật
càng cao. Người ta không phải lo đến cái ăn, cái mặc, mà quan tâm nhiều đến hoạt
động văn hoá tinh thần, trong đó nhu cầu thưởng thức nghệ thuật và sáng tạo nghệ
thuật trở thành cái cần thiết hàng ngày tựa như cơm ăn, nước uống vậy.


Các nhà tâm lý học Âu – Mĩ đã khẳng định rằng, cần phải vun đắp mầm
mống hoạt động nghệ thuật ngay từ khi trẻ còn nhỏ. Từ tiếng hát à ơi của nguời mẹ
khi trẻ cịn nằm trong nơi, đến việc trẻ tiếp xúc với đồ vật, đồ chơi, màu sắc hấp dẫn
rồi dần dần trẻ tự tạo ra cái đẹp như xây một ngôi nhà đẹp, vẽ một bức tranh, hay
nghe, hát và vận động theo nhạc… Nhu cầu, năng lực cảm thụ và sáng tạo nghệ
thuật đựơc hình thành.


Cho trẻ tiếp xúc làm quen với các loại hình nghệ thuật là điều kiện cần
thiết để trẻ tiếp xúc lĩnh hội được nội dung dạy học các mơn học mang tính chất ở
trường phổ thông như: hát nhạc, mĩ thuật, kĩ thuật ...


Trường mầm non thực hiện tốt chương trình giáo dục âm nhạc, giáo dục
hoạt động tạo hình, ngơn ngữ và phương pháp cho trẻ em làm quen với tác phẩm


văn học, cho trẻ làm quem với môi trường xung quanh ... sẽ hình thành ở trẻ nhu
cầu và tiền để cảm thụ và sáng tạo nghệ thuật.


Từ những vấn đề nêu trên, chúng ta thấy rằng, chuẩn bị cho trẻ vào lớp một là
chuẩn bị nhiều mặt và được tiến hành trong một thời gian dài, liên tục, có hệ thống
suốt cả thời ký mẫu giáo mới tạo ra được những tiền đề cần thiết giúp trẻ thích ứng
với hoạt động học tập và môi trường sống mới ở trường phổ thơng.


<b>CÂU HỎI ƠN TẬP</b>


1. Để chuẩn bị cho trẻ học tập ở trường phổ thông, nên tổ chức cho trẻ hoạt động
như thế nào?


2. Những yếu tố về thể chất ảnh hưởng như thế nào đến việc học của trẻ? Trình bày
các phương pháp nâng cao thể chất cho trẻ.


3. Nêu tầm quan trọng của việc phát triển ngôn ngữ đối với việc chuẩn bị cho trẻ
vào trường phổ thông.


</div>
<span class='text_page_counter'>(47)</span><div class='page_container' data-page=47>

5. Phê phán những biểu hiện lệch lạc về việc chuẩn bị cho trẻ vào trường phổ thông
và đưa ra quan điểm đúng của bản thân.


</div>
<span class='text_page_counter'>(48)</span><div class='page_container' data-page=48>

<b>CHƯƠNG 4 DẠY TRẺ LÀM QUEN VỚI CHỮ THEO</b>
<b>HƯỚNG TÍCH CỰC HĨA HOẠT ĐỘNG CỦA TRẺ</b>


<b>1. Những vấn đề chung</b>


<i><b>1.1. Mục đích, ý nghĩa của việc cho trẻ làm quen với chữ</b></i>


Mục đích của việc cho trẻ làm quen với chữ không chỉ nhằm giúp trẻ nhận


biết được các mặt chữ để phát âm chính xác khi nói và cịn tạo cho trẻ hứng thú học
tiếng mẹ đẻ, làm tiền đề cho trẻ thích ứng với việc tập đọc, tập viết ở lớp một.


Làm quen với chữ không phải là một môn học độc lập, riêng biệt mà nó là
một phần, một bộ phận của việc phát triển ngơn ngữ trong chương trình chăm sóc –
giáo dục trẻ 5 – 6 tuổi. Vì vậy, nó có ý nghĩa trực tiếp trong việc phát triển ngôn
ngữ cho trẻ. Trước hết là rèn luyện kĩ năng nghe nói và giúp trẻ phân biệt được các
âm khó, thông qua các chữ cái. VD: x – s, l – n. Sau khi đã học các âm riêng lẻ cần
giúp trẻ phân biệt được các âm trong từ, bằng cách đưa ra một chữ cái bất kì yêu cầu
trẻ gọi tên đồ vật có những âm bắt đầu bằng chữ cái đã cho để trẻ phân biệt (cái làn,
cái lược, cái nón, cái nơ…).


Thơng qua việc làm quen với chữ, vốn từ của trẻ được nâng cao, bởi vì khi
làm quen với chữ, trẻ không chỉ làm quen với các chữ ở dạng tồn tại tự nhiên của
chữ viết, mà các chữ đó được gắn vào các từ, thơng qua các đối tượng cụ thể, các từ
đó có các âm đầu là các chữ cái đã học, nhằm rèn luyện cách phát âm cho trẻ. Cho
trẻ làm quen với chữ viết còn giúp cho trẻ hiểu được mối quan hệ giữa ngơn ngữ nói
và ngơn ngữ viết, trẻ hiểu như thế nào là “đọc và viết” sau này ở trường phổ thơng.
Thơng qua việc tìm kiếm các chữ cái khác nhau ở các vị trí khác nhau của từ giúp
trẻ phát triển óc quan sát, ghi nhớ, chú ý có chủ định.


Cho trẻ làm quen với chữ cịn góp phần kích thích, phát triển tư duy, thể hiện
ở chỗ trẻ đã xác định được tính chất, đặc điểm của chữ đó bằng cách tìm kiếm các
từ, tiếng thơng qua các đồ vật. Trẻ tìm đúng các âm theo các chữ mà trẻ đã nhận ra.
Như vậy trẻ nhận ra chữ thông qua việc phát âm chứ không phải thông qua mặt chữ.
<i>VD: trị chơi “Tai ai thính”, “Tìm chữ cho tranh”…Đây là cơ sở quan trọng để trẻ</i>
tiếp nhận tri thức của trường phổ thông.


Trong khi cho trẻ làm quen với chữ và chữ cái, cần giúp trẻ một số kĩ năng
cầm bút, cầm sách, mở từng trang sách, tư thế ngồi của một học sinh.



Việc cho trẻ làm quen với chữ không chỉ thông qua các tiết học mà đối với
trẻ mẫu giáo phải thông qua nhiều hoạt động khác nhau như hoạt động tạo hình (vẽ,
xé, cắt dán các chữ cái…), đặc biệt là các trò chơi. Những trò chơi phát triển giác
quan, phát triển các cơ của ngón tay là điều quan trọng để trẻ cầm bút sau này.


Cho trẻ làm quen với chữ phải tạo ra được hứng thú, ham muốn đi học, tránh
làm thay cho công việc lớp 1. Thật sai lầm khi bắt trẻ tập viết vào một khuôn khổ
nhất định, trong khi trẻ chưa được chuẩn bị những kĩ năng cần thiết trước khi tập
viết, như vẽ các nét giống với chữ viết được gọi là “tiền chữ viết”. Còn tập viết thực
sự là nhiệm vụ của lớp 1 và chỉ đến lớp 1 trẻ mới có thể làm việc này một cách có
kết quả. Khơng nên dạy trước những gì mà trẻ phải học một cách bài bản ở phổ
thông.


<i><b>1.2. Nội dung làm quen với chữ</b></i>


-Dạy trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng Việt


-Dạy trẻ nhận biết các chữ cái thông qua việc tri giác bằng âm thanh
-Dạy trẻ nhận biết các kiểu chữ (in hoa, in thường, viết thường)


</div>
<span class='text_page_counter'>(49)</span><div class='page_container' data-page=49>

-Dạy trẻ làm quen với cách tách âm, ghép âm thông qua cho trẻ làm quen với
các vị trí của các âm trong từ


</div>
<span class='text_page_counter'>(50)</span><div class='page_container' data-page=50>

-Dạy trẻ làm quen với các kĩ năng ban đầu về tiền tập đọc, tiền tập viết: cách
ngồi, cách cầm bút, mở sách, đọc…


<i><b>1.3. Yêu cầu cần đạt</b></i>


-Trẻ nhận biết và phát âm đúng 29 chữ cái tiếng Việt



-Phân biệt và phát âm đúng các âm khó như l – n, b – p, s – x


-Phân biệt được các chữ gần giống nhau p – q, b – d, m – n thơng qua việc
phân tích các nét


-Trẻ hứng thú nhận dạng, tìm kiếm các chữ cái ở mọi lúc, mọi nơi thông qua
sách báo, tranh ảnh và các bảng chữ…


<i><b>1.4. Các hình thức tổ chức cho trẻ làm quen với chữ</b></i>


Làm quen ở đây khơng có nghĩa là dạy cho các cháu tập đọc, tập viết ,tâp làm
tính


... mà cái chính ở dây là giúp trẻ có những biểu tượng về số lượng, nhận dạng được
cái chữ cái, và có một số kỹ năng ban đầu của hoạt động học tập.


Biểu tượng về số lượng tốn học ban đầu cho trẻ em. Đó là một quá trình, từ
khi trẻ học mẫu giáo đến khi vào lớp một. Cuối tuổi mẫu giáo trẻ phải có biểu tượng
chính xác từ số 1 đến số 10.


Mục đích của việc cho trẻ làm quen với chữ cái là giúp trẻ nhận được mặt
chữ và phát âm chính xác từng chữ cái. Trên cơ sở đó trẻ thích ứng được với việc
học tập, tập viết ở lớp một. Cho trẻ làm quen với chữ cái là nhiệm vụ rất quan trọng
trong việc chuẩn bị cho trẻ vào lớp một. Cần phải có chương trình cụ thể và hình
thức giúp trẻ làm quen với chữ cái thích hợp, trị chơi, nhất là trị chơi lơtơ là một
con đường, phương tiện có hiệu quả đối với cơng tác này .


Nhiệm vụ của việc cho trẻ làm quen với chữ cái là giúp trẻ nhận dạng một
cách chính xác chữ cái, vị trí khơng gian các nét chữ, nhận ra được các chữ cái


trong một tập hợp các chữ cái tạo ra từ, câu và phát âm chính xác các chữ cái.


Việc cho trẻ tập đọc, tập viết, tập làm tính trước sẽ ảnh hưởng không tốt đến
việc học tập của trẻ ở lớp một, tạo ra sức ì và giảm hứng thú học tập của các em.
Hơn thế nữa kỹ năng của trẻ còn hạn chế, do vậy việc tâp đọc, tập viết... quá khó đối
với trẻ, gây ra ức chế của trẻ đối với các hoạt động ở trường mầm non.


Vấn đề đặt ra là, cần phải xác định tập đọc (tập đánh vần), tập viết, tập làm
tính,...là nhiệm vụ của học sinh lớp một. Để trẻ thích ứng và hồn thành những
nhiệm vụ đó (khi vào lớp một), chương trình giáo dục mầm non cần hoạch định rõ
cơng việc của mình tránh làm thay, làm trước những việc mà giáo viên lớp một phải
làm sau này.


Vì vậy, ở trường mầm non cần tổ chức cho trẻ làm quen với chữ theo một số
hình thức sau:


<i>1.4.1. Tạo mơi trường cho trẻ hoạt động</i>


-Trang trí lớp học cho trẻ 5 tuổi khác hẳn với trang trí lớp mẫu giáo bé và
nhỡ là trên mỗi bức tranh, góc đồ chơi đều có chữ viết để trẻ có thể “đọc”, tạo cho
trẻ làm quen với chữ. Vấn đề không phải là để bắt trẻ đọc đúng các dịng chữ đó mà
hàng ngày kích thích trẻ quan sát và tìm các chữ cái và liên hệ với các chữ đã học.
Khi trẻ đã nhớ các chữ cái, có thể đọc dịng chữ một cách rõ ràng để cho trẻ làm
quen, lần sau trẻ sẽ đọc đúng như vậy.


-Tạo góc “thư viện” với những cuốn truyện tranh, sách tranh để trẻ tự “đọc”
thậm chí có thể vẽ theo các chữ đó. Đặc biệt, nên chọn cuốn sách tranh đen trắng để
cho trẻ tô màu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(51)</span><div class='page_container' data-page=51>

từng bức tranh. Sau đó trẻ “đọc” theo hiểu biết của mình. Sau khi trẻ đọc cơ gợi ý


cho trẻ tìm các chữ cái đã học trên một trang sách, tìm những chữ nào giống nhau,
tìm có bao nhiêu chữ giống nhau trên một dòng, một bài…


</div>
<span class='text_page_counter'>(52)</span><div class='page_container' data-page=52>

<i>1.4.2. Tổ chức “tiết học”</i>


Nội dung công tác chuẩn bị cho trẻ vào lớp một được thể hiện đầy đủ, toàn
diện trong các “tiết học” và các hoạt động của trẻ trong chương trình giáo dục mầm
non. Hiệu quả của nó phụ thuộc rất lớn vào cơng tác giảng dạy và giáo dục của giáo
viên. Trong tiết học trẻ được hoạt động có định lượng rõ rệt, ở đây trẻ được hướng
vào việc làm quen với chữ viết.


Ví dụ về tiết học cho trẻ làm quen với chữ viết: cho trẻ làm quen với các
nhóm


chữ cái: x - s, i –c – t, y – g, k – h, l – m – n,…
<i>1.4.3. Thông qua hoạt động tạo hình</i>


Để chuẩn bị cho trẻ học đọc, học viết tốt sau này, hoạt động tạo hình góp một
phần không nhỏ trong việc cho trẻ làm quen với chữ đặc biệt là thông qua cơ quan
cảm giác và thị giác. Sự phối hợp mắt – tay là kỹ năng quan trọng trong việc cho trẻ
tập viết. Cho trẻ chơi với vở, bút, phấn, chơi với các nét chữ trước khi cho trẻ tập tô.
Khi chơi với các nét chữ không nhất thiết phải theo một khuôn khổ nhất định mà chỉ
cần trẻ tập viết được liền mạch các nét chữ. Sau đó trang trí thành những hình mà
trẻ thích. Như vậy trẻ đã thực sự tập sử dụng bút vào việc tập viết, nhưng trẻ cảm
thấy hứng thú và khơng biết rằng mình đang viết.


Ngồi ra trong hoạt động tạo hình cơ giáo có thể cho trẻ nhận biết các chữ cái
bằng cách cắt, xé, vẽ trên không đường nét của các chữ cái. Như vậy trẻ sẽ có biểu
tượng một cách chính xác hơn về các đường nét của chữ cái thông qua cảm giác mà
không cần miêu tả bằng lời.



<i>1.4.4. Thông qua việc phát triển ngôn ngữ</i>


Trẻ làm quen với chữ thông qua việc phát âm đúng các tiếng, các từ. Nếu chỉ
cho trẻ làm quen với chữ bằng cách nhận mặt chữ thì trẻ mới cảm nhận ở mức cảm
tính, cần cho trẻ làm quen với chữ thông qua cả việc luyện phát âm. Thông qua việc
phát âm các từ, tiếng có các chữ cái (đặc biệt là những chữ cái khó) giúp trẻ phát
triển khả năng bắt âm.


<i>1.4.5. Thơng qua hoạt động vui chơi</i>


Trị chơi, đặc biệt là trị chơi học tập đóng một vai trị quan trọng trong việc
giáo dục trí tuệ và dạy học cho trẻ mẫu giáo. Trò chơi học tập được sử dụng như
một hình thức, một phương pháp, một biện pháp để dạy học cho trẻ mẫu giáo. Đối
với giờ cho trẻ làm quen với chữ cái thì có thể sử dụng trị chơi học tập như một
hình thức tổ chức dạy học, bởi vì nó có thể thay thế được tồn bộ hoạt động của cơ
và trẻ trong tiết học.


Cho trẻ làm quen với chữ cái thông qua các trò chơi giúp trẻ tiếp thu, củng cố
những tri thức và kỹ năng một cách nhẹ nhàng khơng có chủ định như một giờ học.
Trẻ có cảm giác chơi nhưng thực chất là trẻ đang giải quyết nhiệm vụ học tập trong
đó.


Ngồi ra, thơng qua các trị chơi: xếp hình, xâu hạt, lắp ráp…giúp cho sự phát
triển các kỹ năng sử dụng các cơ bắp nhỏ của ngón tay, sự phối hợp mắt và tay rất
cần cho trẻ tập viết sau này.


<b>2. Thực hành tổ chức các trò chơi làm quen với chữ cái</b>


<i>2.1. Các trò chơi giúp trẻ nhận biết chữ cái và rèn luyện phát âm</i>


<i>2.2. Trò chơi làm quen với chữ cái gắn với phát triển ngơn ngữ</i>


<i>2.3. Trị chơi giúp trẻ phân biệt các âm và chữ khó (S - X), (D - B), (Q – P)</i>
<i>2.4. Trò chơi làm quen với việc tách âm, ghép âm và học đọc</i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(53)</span><div class='page_container' data-page=53>

<b>CÂU HỎI ÔN TẬP</b>


1. Phân tích ý nghĩa của việc cho trẻ làm quen với chữ.
2. Nêu các hình thức cho trẻ làm quen với chữ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(54)</span><div class='page_container' data-page=54>

4. Trình bày quan điểm của bản thân về vấn đề kiểm tra, đánh giá đầu vào của trẻ
chuẩn bị vào lớp một.


<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>


1. Đào Thanh Âm (Chủ biên), (2002), Giáo dục học mầm non – T3, NXB ĐHSP
Hà Nội


2. Phạm Thị Châu, Nguyễn Thị Oanh, Trần Thị Sinh, (2006), Giáo dục học mầm
<i><b>non, NXB ĐHQG Hà Nội.</b></i>


3. Trần Thị Ngọc Chúc, (2008), Cần chuẩn bị những gì cho trẻ vào lớp một, NXB
tổng hợp TP HCM.


4. Nguyễn Ánh Tuyết, (2004), Giáo dục mầm non – những vấn đề lý luận và thực
<i><b>tiễn,</b></i>


NXB ĐHSP


5. Nguyễn Ánh Tuyết (Chủ biên), (1998), Chuẩn bị cho trẻ 5 tuổi vào trường phổ


<i><b>thông, NXB GD.</b></i>


6. Thanh Tâm, (2010), Những điều cần biết cho bé chuẩn bị vào lớp một, NXB
Văn hố


– Thơng tin


7. Trịnh Dân – Đinh Văn Vang, (2006), Giáo trình giáo dục học trẻ em, NXB GD


Tham khảo: />


</div>

<!--links-->

×