Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG LONG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.74 KB, 33 trang )

HOẠT ĐỘNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC RỦI
RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG
LONG (2003-2007)
2.1. KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ
THĂNG LONG (PVI THĂNG LONG)
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
Công ty Bảo hiểm Dầu khí Thăng Long (PVI Thăng Long), tiền thân là
Công ty Bảo hiểm Dầu khí Phía Bắc, là một Công ty thành viên của Tổng công
ty Cổ phần Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI), được thành lập từ năm 2001, với
nhiệm vụ kinh doanh được Tổng công ty giao phó. Trải qua gần 6 năm hoạt
động, được sự hậu thuẫn rất lớn từ Tổng công ty, PVI Thăng Long đã khẳng
định được vị thế và uy tín của mình trên thị trường bảo hiểm phía Bắc.
Nhiệm vụ kinh doanh được Tổng công ty PVI giao cho là khai thác, cung
cấp các dịch vụ Bảo hiểm cho các đơn vị, cá nhân, tổ chức trong và ngoài ngành
Dầu khí.
PVI Thăng Long thực hiện khai thác bảo hiểm ngoài nghành tại 13 tỉnh
thành Tây Bắc Việt Nam bao gồm: Hà Nội, Hà Giang, Tuyên Quang, Lai Châu,
Sơn La, Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh, Bắc
Giang, Hà Tây. Trong đó Hà Nội là thị trường chiến lược, hầu hết các đơn bảo
hiểm về vật chất xe cơ giới và các đơn liên quan đến dự án được khai thác tại
đây. Các tỉnh khác như Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Bắc Ninh được coi là các thị
trường tiềm năng. Tại đây PVI Thăng Long đã xây dựng được mạng lưới pháp
nhân và thành lập các văn phòng khu vực. Hiện nay, PVI Thăng Long đã có 32
đại lý pháp nhân ở khắp các tỉnh trong khu vực thị trường đảm nhận
2.1.2. Cơ cấu tổ chức
PVI Thăng Long gồm có một ban giám đốc và 7 phòng ban. Các phòng
ban đều có chức năng nhiệm vụ tương đương với các phòng tương ứng tại Tổng
công ty. Cơ cấu tổ chức của PVI Thăng Long Có thể được minh họa bởi hình vẽ
sau:
Sơ đố 2.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức của PVI Thăng Long
CTY BHDK HÙNG VƯƠNG


KHỐI PHÒNG KD
KHỐI CÁC PHÒNG KV
Phòng Hành Chính Kế Toán
Phòng
Giám
Định
Bồi Thường
Phòng
BH
Hàng
hải
Tài sản
PhòngBH Kỹ thuật
PhòngXe cơ giới Con người & QLĐL
Phòng KD
KV
Đống
Đa
Phòng
KD
KV

Đông
Phòng
KD
KV
Lào Cai
Ban Giám Đốc
KHỐI PHÒNG QL
Ban giám đốc

Bao gồm 1 Tổng giám đốc và 2 phó Tổng giám đốc. Điều hành toàn bộ
hoạt động của Công ty.
Khối quản lý: Bao gồm 2 Phòng:
Phòng Hành chính - kế toán: Phòng kế toán thực hiện xây dựng các chỉ
tiêu về chi phí và lợi nhuận hàng năm của công ty và chi nhánh. Phân tích hiệu
quả kinh doanh của các đơn vị.
Phòng Giám định - bồi thường: Phòng thực hiện công việc tiếp nhận, xem
xét tính hợp lệ của hồ sơ khiếu nại và xét giải quyết bồi thường.
Khối kinh doanh: Bao gồm 3 phòng:
Phòng Bảo hiểm kỹ thuật: Phòng Bảo hiểm kỹ thuật có chức năng kinh
doanh, tham mưu và giúp Giám đốc Công ty chỉ đạo kinh doanh theo đúng pháp
luật trong lĩnh vực Bảo hiểm kỹ thuật, công trình, xây dựng lắp đặt, tài sản,
trách nhiệm.
Thực hiện các công việc kinh doanh do Giám đốc phân công.
Thực hiện công việc kinh doanh theo các quy định, quy trình gồm: Tiếp
thị, đánh giá rủi ro trước khi cấp đơn, cấp đơn bảo hiểm, phân tán rủi ro.
Thực hiện hợp tác với các Công ty bảo hiểm, các môi giới bảo hiểm có
quan hệ kinh doanh.
Trực tiếp giao dịch với khách hàng, đàm phán với khách hàng, và các đối
tác theo quy định của công ty...
Phòng bảo hiểm hàng hải: Là một phòng kinh doanh mũi nhọn của công
ty với ba loại hình dịch vụ chính: Bảo hiểm thân tàu, Bảo hiểm hàng hoá, Bảo
hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu.
Phòng Bảo hiểm Xe cơ giới – Con người & Quản lý đại lý: Ngoài vai trò
nhận các hợp đồng như 2 phòng kinh doanh trên còn có nhiệm vụ quản lý đại lý,
thực hiện kinh doanh theo phân cấp và phân vùng được Công ty giao.
Khối các văn phòng khu vực: Hoạt động dưới sự quản lý trực tiếp của
PVI Thăng Long.
Công ty Bảo hiểm Dầu khí Hùng Vương (PVI Hùng Vương)
Được thành lập theo quyết định số 1121/QĐ-PVI của Hội đồng quản trị

Tổng Công ty cổ phần PVI Việt Nam ngày 04/12/2007. PVI Hùng Vương là
đơn vị trực thuộc Tổng Công ty cổ phần PVI Việt Nam, hạch toán phụ thuộc.
Tiền thân là Văn phong khu vực Việt Trì – một trong những văn phòng khu vực
của PVI Thăng Long. Vì vậy, PVI Thăng Long có trách nhiệm quản lý và điều
hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của PVI Hùng Vương.
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh trong giai đoạn 2003-
2007
Hoạt động sản xuất kinh doanh của PVI Thăng Long trong những năm
gần đây đạt kết quả tốt. Trong giai đoạn từ năm 2003 – 2007, doanh thu từ hoạt
động kinh doanh bảo hiểm của PVI Thăng Long không ngừng tăng lên. Kết quả
kinh doanh bảo hiểm của PVI Thăng Long được thể hiện trong bảng 2.1.
Nhìn vào bảng số liệu 2.1 ta thấy doanh thu phí bảo hiểm của PVI Thăng
Long có xu hướng gia tăng qua các năm, tuy nhiên tốc độ tăng không đều.
Nguyên nhân của thực trạng này là do tiền thân của PVI Thăng Long là một văn
phòng bảo hiểm, và mới chỉ chuyển sang mô hình công ty thành viên vào năm
2002 nên việc kinh doanh còn nhiều khó khăn, bất ổn. Trong giai đoạn này tốc
độ tăng bình quân bình quân về doanh thu nghiệp vụ của PVI Thăng Long là
30,86 %.
Xuất thân là văn phòng khu vực một với kinh nghiệm ít ỏi và nguồn nhân
lực còn hạn chế được đổi thành chi nhánh phía Bắc cuối năm 2002. Cho nên,
những năm đầu doanh thu của PVI Thăng Long chưa cao. Năm 2003, doanh thu
mới chỉ hơn 13 tỷ đồng. Năm 2004, doanh thu đạt hơn 17 tỷ đồng tăng 32,35 %.
Năm 2005, doanh thu đạt hơn 19 tỷ đồng, tăng 11,37% một con số ít ỏi nhưng
cũng đáng được ghi nhận cho những năm đầu quy mô còn nhỏ, đội ngũ nhân
viên còn mỏng về số lượng cũng như kinh nghiệm còn ít, việc khai thác còn gặp
nhiều khó khăn. Đến năm 2005, chi nhánh phía Bắc đã chuyển thành công ty
thành viên trực thuộc Tổng công ty, với việc mở rộng quy mô kinh doanh, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đại lý cộng tác viên, cùng với sự hỗ trợ của Tổng
công ty, doanh thu phí bảo hiểm của PVI Thăng Long đã tăng lên 19.187,37
triệu đồng, tăng 11,37% so với năm 2004.

Bảng 2.1: Doanh thu từ các nghiệp vụ bảo hiểm của PVI Thăng Long
(2003 - 2007)
TT
Nghiệp vụ bảo
hiểm
Đơn vị
tính
2003 2004 2005 2006 2007
1 BH Hàng hải TRĐ 3.275,49 4.913,24 3.498,06 5.247,09 3.014,20
2 BH Con người
TRĐ
962,85 1.059,13 1.270,96 1.906,44 2.105,20
3 BH Xe cơ giới
TRĐ
2.351,02 3.021,23 5.227,60 10.032,05 14.012,20
4
BH Cháy và
các RRĐB
TRĐ
1.987,73 2.986,63 4.005,90 5.609,44 6.523,30
4 BH kỹ thuật
TRĐ
3.433,81 4.650,72 5.023,62 6.035,43 11.152,30
6 BH khác
TRĐ
1.006,56 598,18 161,23 994,1 85,43
Tổng TRĐ 13.017,46 17.229,13 19.187,37 29.824,55 36.892,63
Tốc độ tăng trưởng
doanh thu
% - 32,35 11,37 55,44 23,7

Nguồn:PVI Thăng Long
Năm 2006, do hoạt động kinh doanh của công ty đã đi vào ổn định,
những chiến lược mục tiêu được đặt ra phù hợp với khả năng của công ty cũng
như đã thích ứng được với nhu cầu thị trường, điều này đã dẫn đến doanh thu
phí tăng một cách vượt bậc so với năm 2005, cụ thể đạt 29.824,55 triệu đồng,
tăng 55,4%. Năm 2006 mặc dù có những thay đổi trong chính sách của nhà
nước, như không bắt buộc chủ xe máy mới khi đăng kí kinh doanh phải mua
bảo hiểm, điều này làm doanh thu phí bảo hiểm xe cơ giới của Tổng công ty
giảm, nhưng do thị trường bảo hiểm xe cơ giới của PVI Thăng Long còn nhỏ,
nên quy định này không làm ảnh hưởng nhiều. Cụ thể là năm 2006 doanh thu
phí bảo hiểm xe cơ giới chiếm khoảng 40% tổng doanh thu của công ty đạt
10.032,05 triệu đồng. Năm 2006 là một năm khá thành công đối với PVI Thăng
Long, công ty đã có được sự tín nhiệm từ phía khách hàng, đã ký kết được
những hợp đồng bảo hiểm với những khách hàng lớn như Tổng Công ty Hàng
hải Việt Nam với hợp đồng bảo hiểm tàu; cho PMU Thăng Long, PMU 2, Nhà
máy xi măng Bỉm Sơn, Thủy điện Đồng Nai 3, Dự án Trung tâm Thương mại
Dầu khí với hợp đồng bảo hiểm công trình và CAVICO Việt Nam với hợp đồng
bảo hiểm máy móc thiết bị.
Năm 2007, doanh thu phí bảo hiểm của PVI Thăng Long tiếp tục tăng
trưởng, đạt 36.892,63 triệu đồng, tăng 23,7% so với năm 2006. Hầu hết các
nghiệp vụ bảo hiểm đều có sự tăng trưởng về doanh thu, tăng mạnh nhất là
nghiệp vụ bảo hiểm máy móc thiết bị. Trong năm 2007 đánh dấu sự tăng trưởng
khá mạnh về sản phẩm bảo hiểm kỹ thuật, chiếm hơn 40% doanh thu, đây là sản
phẩm tái tục hàng năm, phí bảo hiểm thường tái tục vào cuối năm, vì vậy đơn
vị khó chủ động về việc thực hiện kế hoạch kinh doanh doanh hàng tháng và kế
hoạch kinh doanh cho các năm tiếp theo. Trong khi đó nghiệp vụ bảo hiểm Tài
sản, Hàng hải lại có tỷ trọng thấp về doanh thu, có xu hướng giảm so với các
năm trước, nguyên nhân là do có sự thay đổi về nhân sự cũng như cơ cấu
phòng, tuy nhiên nguyên nhân chính là do mức tái tục của khách hàng thấp, điều
này chứng tỏ chất lượng dịch vụ sau bán hàng của công ty còn chưa tốt, công ty

cần phải có chính sách điều chỉnh lại cho phù hợp vào năm 2008.
2.2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC BẢO HIỂM CHÁY VÀ CÁC
RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY BẢO HIỂM DẦU KHÍ THĂNG
LONG (2003-2007)
2.2.1. Vài nét thị trường bảo hiểm Cháy và các rủi ro đặc
biệt trong thời gian qua
Những năm gần đây, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam tăng
trưởng không ngừng. Năm 2006, doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt
6.445 tỷ đồng, tăng 17,5% so với năm 2005. 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước vẫn nắm giữ thị trường bảo hiểm phi nhân thọ với thị phần 94,9%, nhưng
thực chất, thị phần doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tập trung chủ yếu
vào các doanh nghiệp lớn như Bảo Việt: 34,9%, Bảo Minh 21,3%, PVI 18,1%
và Pjico 10,5%. 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chia nhau thị phần 5,l
% còn lại. Nghiệp vụ bảo hiểm Cháy và các RRĐB đạt doanh thu 637 tỉ đồng,
tăng 10,6% so với 2005 trong đó bảo hiểm cháy nổ đạt 517 tỉ đồng tăng 22,5%.
Nhà nước đã ban hành Nghị định 130/2006/NĐ-CP quy định về bảo hiểm cháy
nổ bắt buộc trong đó có 16 đối tượng phải mua bảo hiểm bắt buộc cháy nổ và 16
loại trừ bảo hiểm, đóng góp kinh phí PCCC là 5%. Bộ Tài chính ban hành quy
tắc biểu phí bảo hiểm cháy nổ bắt buộc, phối hợp với Bộ Công An ra thông tư
hướng dẫn thi hành Nghị định 130 nói trên.
Năm 2007, thị trường bảo hiểm Việt Nam trải qua năm đầu tiên kể từ khi
Việt Nam chính thức gia nhập WTO với những thành tựu đáng khích lệ. Doanh
thu bảo hiểm phi nhân thọ đạt 8.500 tỉ đồng, tăng trưởng 30%. Trong 9 tháng
đầu năm 2007, nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và các RRĐB đạt doanh thu 661 tỉ
đồng (tăng 43%) trong đó Bảo hiểm cháy nổ đạt 78,7 tỉ đồng. Top 5 doanh thu
là Bảo Minh 182 tỷ đồng, Bảo Việt Việt Nam là 163 tỷ đồng, PVI là 70 tỷ đồng,
GIC 48 tỉ đồng và VIC 47 tỉ đồng. Tỷ lệ bồi thường toàn thị trường là 43%. Top
5 Công ty có tỷ lệ bồi thường cao nhất là Bảo Minh 77,3%, PVI 52,7%, UIC
48,2%, Bảo Long 42,18%, PJICO 48,1%, Bảo Việt 26.7%. Quyết định
28/2007/QĐ-BTC ngày 24/04/2007 ban hành Quy tắc biểu phí bảo hiểm cháy

nổ bắt buộc, có hiệu lực từ ngày 28/07/2007 đã làm tăng trưởng thị trường vào 6
tháng cuối năm 2007 và nhất là từ năm 2008 trở đi khi các đối tượng có nguy
hiểm về cháy nổ được công khai minh bạch, được cấp Giấy Chứng nhận an toàn
về phòng cháy chữa cháy và đối tượng sử dụng Ngân sách Nhà nước đã được
cấp kinh phí mua bảo hiểm.
Nhìn chung thị trường bảo hiểm Cháy và các RRĐB hai năm trở lại đây
đang trên đà phát triển, cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt. Trong
nghiệp vụ này PVI thị phần đứng thứ 3 sau hai đối thủ lớn là Bảo Việt và Bảo
Minh. Đây là hai đối thủ rất mạnh đã nhiều năm liền dẫn đầu thị trường bảo
hiểm Cháy và các RRĐB. Ngoài ra cũng không thể không nhắc đến PJICO một
công ty triển khai nghiệp vụ này khá lâu năm trên thị trường. GIC và VIC là hai
tên tuổi mới nổi trên thị trường bảo hiểm nhưng trong 9 tháng đầu năm 2007 đã
vươn lên đứng thứ 4 và thứ 5 sau PVI.
Các công ty kể trên, có công ty đã là tên tuổi lớn được biết đến từ lâu trên
thị trường bảo hiểm Việt Nam, cũng có những công ty mới phát triển vào những
năm gần đây, tuy họ vẫn đứng sau PVI về thị phần bảo hiểm Cháy và các
RRĐB, nhưng tất cả đều là những đối thủ cạnh tranh rất mạnh của PVI.
2.2.2. Khái quát về tình hình Bảo hiểm Cháy và các rủi ro
đặc biệt tại PVI Thăng Long giai đoạn 2003-2007
Khai thác là một khâu trong quy trình triển khai nghiệp vụ, mà kết quả
của nó góp phần rất lớn vào kết quả của toàn nghiệp vụ. Làm tốt công tác khai
thác, sẽ thu hút thêm nhiều khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty mình, góp
phần làm tăng doanh thu phí bảo hiểm của toàn nghiệp vụ. Mặt khác kết quả
kinh doanh chung của toàn nghiệp vụ cũng phản ánh chất lượng của khâu khai
thác. Trước khi đi sâu vào nghiên cứu thực trạng khai thác bảo hiểm Cháy và
các RR ĐB tại công ty bảo hiểm Dầu khí Thăng Long, việc tìm hiểu kết quả
cũng như hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ này là rất cần thiết.
Bảng 2.2: Tình hình thực hiện bảo hiểm Cháy và các RR ĐB tại PVI
Thăng Long (2003-2007)
Năm

Chỉ tiêu
Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007
Doanh thu phí
TRĐ 1.987,73 2.986,63 4.005,9 5.609,44 6.523,3
Chi bồi thường
TRĐ 834,84 1164,78 1602,36 2804,72 3109,78
Tổng chi nghiệp
vụ
TRĐ 1192,63 1663,98 2289,08 4006,74 4442,54
H
k
=(1)/(3)
Đ/Đ 1,67 1,79 1,75 1,40 1,47
Nguồn: PVI Thăng Long
Trong giai đoạn này doanh thu phí bảo hiểm Cháy và các RRĐB liên tục
tăng lên. Năm 2003 doanh thu phí của nghiệp vụ là 1.987,73 triệu đồng, năm
2004 là 2.986,63 triệu đồng thì đến năm 2007 con số này lên tới 6.523,3 triệu
đồng gấp hơn 3 lần doanh thu phí nghiệp vụ năm 2003. Điều này cũng dễ hiểu,
do năm 2003 là năm đầu của thời kì chuyển đổi, nguồn lực của công ty còn ít,
kinh nghiệm triển khai chưa nhiều, hơn thế nữa ý thức của người dân về sự cần
thiết của sản phẩm còn thấp, dẫn đến số hợp đồng mà công ty khai thác được
cũng thấp.
Những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, đời sống của
người dân Việt Nam ngày một nâng cao, giá trị tài sản mà họ sở hữu cũng tăng
lên, trong khi đó các nguy cơ dẫn đến rủi ro cháy nổ ngày một gia tăng, chính vì
vậy mà người dân ý thức được sự cần thiết của sản phẩm bảo hiểm Cháy và các
RR ĐB nên nhu cầu tham gia nhiều hơn. Hơn nữa, theo thời gian thì giá trị được
bảo hiểm có xu hướng ngày càng lớn hơn, chính vì vậy phí bảo hiểm trên một
hợp đồng ngày càng lớn, dẫn đến tổng doanh thu phí không ngừng tăng lên. Mặt
khác, trong những năm gần đây công ty đã chú trọng hơn đến khâu khai thác và

đầu tư nhiều hơn vào khâu khai thác nên đã thu hút thêm được khách hàng tham
gia bảo hiểm tại công ty.
Xã hội ngày càng phát triển, thay vì việc sử dụng các chất đốt thô sơ như
trước kia, con người chuyển sang sử dụng các nguồn khác để đun nấu, sinh hoạt
sản xuất. Ví dụ như thay vì dùng củi, than... thì ga và điện lại được sử dụng
nhiều hơn. Chính vì vậy mà nguy cơ cháy nổ là rất cao, và khi đám cháy xảy ra
thiệt hại là rất lớn. Qua bảng 2.2 ta cũng nhận thấy rằng, chi bồi thường nghiệp
vụ bảo hiểm Cháy và các RR ĐB cũng có chiều hướng tăng qua các năm. Cụ
thể là năm 2003, chi bồi thường nghiệp vụ của công ty là 834,84 triệu đồng,
năm 2004 là 1.164,785 triệu đồng, đến năm 2007 là 3.109,78 triệu đồng. Thiệt
hại do cháy là rất lớn, chỉ sau một vụ cháy nhiều người dân sẽ không còn nhà ở,
nhiều doanh nghiệp bị phá sản ...vì vậy để giảm nguy cơ cháy nổ, công ty phải
tích cực cùng khách hàng tuyên truyền các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất
các vụ cháy.
Hiệu quả kinh tế phản ánh một đồng chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra thu
về được bao nhiêu đồng doanh thu, hiệu quả kinh tế mà càng tăng thì chứng tỏ
công ty đang trên đà phát triển, làm ăn có lãi. Qua bảng số liệu 2.2 ta thấy hiệu
quả kinh tế của công ty tăng trong những năm đầu nhưng lại giảm ở những năm
gần đây. Với một đồng chi phí bỏ ra vào năm 2003 thì công ty thu được 1,67
đồng doanh thu, năm 2004 đã tăng lên là 1,79 đồng, năm 2005 là 1,75 đồng,
sang năm 2006, 2007 giảm xuống chỉ còn 1,40 và 1,47 đồng. Nguyên nhân của
thực trạng trên là do, các vụ cháy nổ có xu hướng ngày càng xảy ra nhiều và
thiệt hại ngày càng lớn nên chi phí chi cho bồi thường của công ty cũng ngày
một lớn. Mặt khác, thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt hơn, trong khi đó
PVI Thăng Long còn quá non trẻ nên để thu hút được khách hàng tham gia bảo
hiểm tại công ty mình thì công ty cần đầu tư nhiều hơn vào tất cả các khâu đặc
biệt là khâu khai thác, điều này đã đẩy tổng chi nghiệp vụ của công ty tăng lên,
dẫn đến hiệu quả kinh tế trong những năm gần đây đã giảm xuống.
2.2.3. Thực trạng khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm Cháy và các
rủi ro đặc biệt tại PVI Thăng Long trong giai đoạn 2003-2007

Qua vài nét phân tích về việc thực hiện Bảo hiểm Cháy và các RRĐB tại
PVI Thăng Long ở trên, ta thấy rằng kinh doanh loại hình bảo hiểm này có
nhiều tiềm năng và đạt hiệu quả tương đối ổn định qua các năm. Sau đây, tôi sẽ
đi sâu vào việc phân tích thực trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này.
2.2.3.1. Quy trình khai thác
Theo quy định của Tổng Công ty Bảo hiểm Dầu khí Việt Nam (PVI), các
Công ty thành viên đều phải thực hiện các bước khai thác nghiệp vụ bảo hiểm
theo quy trình mà Tổng công ty đã nghiên cứu và lập ra. Đối với nghiệp vụ bảo
hiểm Cháy và các RRĐB, quy trình khai thác được phân chia thành các cấp.
Theo Quyết định số 464/07/QĐ-PVI về việc Ban hành Quy định về phân cấp
khai thác năm 2007 cụ thể:
Đối với các rủi ro loại 1, MTN tối đa 11.000.000 USD/Đơn bảo hiểm
(16.500.000 USD nếu có gián đoạn kinh doanh).
Đối với các rủi ro loại 2, MTN tối đa là 9.000.000 USD/Đơn bảo hiểm
(13.500.000 USD nếu có gián đoạn kinh doanh).
Đối với các rủi ro loại 3, MTN tối đa 7.200.000 USD/Đơn bảo hiểm
(10.800.000 USD nếu có gián đoạn kinh doanh)
Theo phụ lục 04 đính kèm Quyết định trên, rủi ro loại 1 là những rủi ro có
mức độ dưới trung bình và ít có khả năng bị tổn thất lớn. Ví dụ: các tòa nhà
chung cư và công sở, các nhà máy xi măng, nhà máy sản xuất và đóng chai
nước ngọt, bưu điện. Rủi ro loại 2 là những rủi ro có khả năng bị tổn thất lớn. Ví
dụ: Nhà máy cán thép, luyện kim, nhà máy hóa chất, nhà máy điện, sản xuất hóa
chất. Rủi ro loại 3 là những rủi ro có nhiều khả năng phải chịu tổn thất lớn. Ví
dụ: Nhà máy sản xuất chất nổ, xưởng chế biến đồ gỗ, nhà máy giấy, nhà máy
dệt, buôn bán và lưu trữ các sản phẩm dầu mỏ.
Các đơn vị kinh doanh cần thông báo cho Tổng Công ty trước ngày dự
kiến ký Hợp đồng hoặc chào phí ít nhất 07 ngày (không kể ngày lễ, thứ bảy và
chủ nhật). Khi nhận được yêu cầu của đơn vị kinh doanh, trong khoảng thời
gian đó, Tổng Công ty sẽ xác nhận bằng văn bản hoặc gửi email về việc cấp
Đơn bảo hiểm gốc.

Trong vòng 15 ngày kể từ ngày Tổng Công ty xác nhận cấp đơn hoặc
cung cấp tỷ lệ phí bảo hiểm thì đơn vị kinh doanh phải gửi Đơn bảo hiểm gốc
cho Tổng Công ty hoặc thông báo bằng văn bản cho Tổng Công ty về tình hình
khai thác nghiệp vụ bảo hiểm đó.
a. Quy trình khai thác trong phân cấp
Quy trình khai thác Bảo hiểm Cháy và các RR ĐB trong phân cấp nêu rõ
công việc khai thác qua các bước theo trình tự như sau:
Đối với các nghiệp vụ khai thác nằm trong phân cấp, các Đơn vị kinh
doanh được chủ động chào phí, cấp Đơn bảo hiểm/SĐBS theo trình tự như sau:
Tiếp thị, nhận yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng
Trong khâu này, những người thực hiện chủ yếu sẽ là các cán bộ khai
thác, đại lý và môi giới. Tiếp thị là một công việc không phải đơn giản, khách
hàng có thể tin tưởng chọn chúng ta là người bảo hiểm cho họ hay không phụ
thuộc chủ yếu vào tài “thuyết phục khách hàng” của những người tiếp xúc trực
tiếp với họ.
Không thụ động chờ khách hàng đến mua bảo hiểm mà cần chủ động đến
gặp khách hàng. Các cán bộ khai thác, đại lý, môi giới cùng họ đi thăm cơ sở
sản xuất kinh doanh, cơ ngơi của họ, nghiên cứu quy trình sản xuất của họ... chỉ
ra cho họ thấy những rủi ro có thể gặp và hậu quả của nó. Trên cơ sở Đơn bảo
hiểm, văn bản hướng dẫn, giải đáp các thắc mắc, giải thích cho họ biết nếu họ
tham gia bảo hiểm thì được những lợi ích gì.
Sơ đồ 2.2: Sơ đồ quy trình khai thác bảo hiểm Cháy và các RRĐB
trong phân cấp
Tiếp thị, nhận thông tin, Yêu cầu bảo hiểm từ khách hàng
Phân tích thông tin,
đánh giá rủi ro
Chấp nhận Chào phí
Từ chối
Quản lý Hợp đồng/Đơn bảo hiểm
Chào phí/Đàm phán

Chuẩn bị Hợp Đồng/Đơn bảo hiểm
Ký Hợp đồng/Đơn Bảo hiểm

×