Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Cơ sở lí luận về BHNT và công tác dịch vụ khách hàng trong kinh doanh bảo hiểm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.32 KB, 33 trang )

Cơ sở lí luận về BHNT và công tác dịch vụ khách hàng trong kinh
doanh bảo hiểm
1.1 Tổng quan về BHNT
1.1.1 Sự ra đời và phát triển của BHNT
1.1.1.1 Trên thế giới
Con người cùng các thể chế chính trị từng tồn tại trong lịch sử luôn
đặt nhiệm vụ hạn chế rủi ro lên hàng đầu.Dịch vụ bảo hiểm nói chung
BHNT nói riêng ra đời cũng nhằm mục đích đó.
BHNT là loại hình bảo hiểm ra đời sớm nhất trên thế giới.BHNT
xuất hiện đầu tiên ở đế quốc La Mã cổ đại.Tại đây người ta lập nên các
hội mai táng để lo chi phí tang ma cho các thành viên,ngoài ra hội cũng
hỗ trợ tài chính cho thân nhân người chết.Khoảng năm 450 sau Công
Nguyên, đế quốc La Mã sụp đổ dẫn đến việc hầu hết các khái niệm của
BHNT bị lãng quên.Tuy nhiên các mặt và tính chất của nó thì vẫn không
hề thay đổi trong suốt thời Trung Cổ, nhất là đối với các phường hội thủ
công và thương nghiệp.Các phường hội này đã lập nên nhiều hình thức
bảo hiểm thành viên để bù đắp thiệt hại các vụ hoả hoạn, lũ lụt,trộm
cướp; ngoài ra còn có bảo hiểm thương tật tử vong và thậm chí là bảo
hiểm tù ngục( bảo hiểm cho trường hợp người mua bảo hiểm phải vào
tù).Tương tự với đế quốc La Mã cổ đại, trong giai đoạn truyền bá đạo
Phật người Ấn Độ đã lập nên nhiều hội mai táng để hỗ trợ cho các gia
đình xây cất nhà cửa đồng thời che chở, đùm bọc các goá phụ và trẻ
nhỏ.
Dịch vụ bảo hiểm hiện đại bắt nguồn từ cuối thế kỷ XVIII.Tuy nhiên
HĐBH nhân thọ đầu tiên trên thế giới ra đời vào năm 1583 do một công
nhân Luân Đôn là ông William Gybbon tham gia.Phí bảo hiểm ông đóng
lúc đó là 32 bảng Anh.Khi ông chết năm đó người thừa kế của ông được
hưởng 400 bảng Anh.Sau cách mạng ánh sáng năm 1688 ở Châu Âu
chỉ có Vương Quốc Anh công nhận tính pháp lí của BHNT.Nhờ vậy mà
trong suốt 3 thập kỷ sau Cách Mạng ánh sáng, ở Anh dịch vụ này đã
phát triển rất mạnh mẽ.Mặc dù vậy công ty BHNT ra đời đầu tiên không


phải trên lãnh thổ Anh quốc mà là ở Mỹ.Công ty này đến nay vẫn hoạt
động. nhưng lúc đầu chỉ bán bảo hiểm cho các con chiên ở nhà thờ của
mình.Năm 1762, công ty bảo hiểm Equitable ở nước Anh được thành
lập và bán bảo hiểm cho mọi người dân.
Ngành công nghiệp bảo hiểm Hoa Kỳ được xây dựng trên mô hình
bảo hiểm Anh.Vào năm 1735, công ty bảo hiểm đầu tiên của Hoa Kỳ đã
ra đời ở Charleston, thủ phủ bang South Carolina.Vào năm 1759; Hội
nghị giáo hội Trưởng lão Philadelphia đã quyết định bảo trợ cho tập
đoàn bảo hiểm nhân thọ đầu tiên của Hoa Kỳ.Tập đoàn này hoạt động
vì lợi ích của các mục sư và tín đồ.Ngày 22/5/1761, tập đoàn này đã kí
kết được HĐBHNT đầu tiên với công chúng Mỹ.
Mặc dù vậy, mãi đến 80 năm sau (tức là sau năm 1840) dịch vụ
BHNT mới thật sự cất cánh.Chìa khoá dẫn đến thành công chính là nhờ
các công ty bảo hiểm đã hạn chế được những sự chống đối từ các
nhóm tôn giáo.
Trong thế kỷ XIX, người ta đã lập ra rất nhiều hội đoàn có trách
nhiệm bảo hiểm nhân mạng và sức khoẻ cho hội viên.Bên cạnh đó cũng
có một số hội kín chỉ cung cấp dịch vụ bảo hiểm lệ phí thấp cho những
ai là hội viên của họ.Ngày nay các hội kín này vẫn cứ tiếp tục bảo hiểm
cho các hội viên; điều này diễn ra tương tự như ở hầu hết các tổ chức
của người lao động.Có nhiều chủ sử dụng lao động còn lo luôn một lúc
nhiều HĐBHNT và sức khoẻ cho nhân viên.Các hợp đồng này không chỉ
đơn thuần BHNT mà còn đảm bảo quyền lợi cho nhân viên khi họ bị
bệnh tai nạn hay về hưu.Trong các hợp đồng này thường thì nhân viên
chỉ phải trả một phần phí bảo hiểm.
Ở Châu Á, các công ty BHNT ra đời đầu tiên ở Nhật Bản.Năm 1868
công ty bảo hiểm Meiji của Nhật ra đời và đến năm 1888 và 1889, hai
công ty khác là: Kyoei và Nippon ra đời và phát triển cho đến ngày nay.
Trên thế giới, BHNT là loại hình bảo hiểm phát triển nhất, năm 1985
doanh thu phí BHNT mới chỉ đạt 630,5 tỷ đôla, năm 1989 đã lên tới

1210,2 tỷ và năm 1993 con số này là 1647 tỷ, chiếm gần 48% tổng phí
bảo hiểm.Hiện nay có 5 thị trường BHNT lớn nhất thế giới là: Mỹ, Nhật
Bản, CHLB Đức, Anh và Pháp.
1.1.1.2 Ở Việt Nam
Bảo hiểm là một nhu cầu tất yếu khách quan của con người và ra
đời từ rất lâu trên thế giới.Tuy nhiên ở Việt Nam ngành bảo hiểm nói
chung, BHNT nói riêng ra đời tương đối muộn.Sự ra đời và phát triển
của ngành bảo hiểm gắn liền với những sự kiện lịch sử của đất nước.
Ngày 17/12/1964 bằng quyết định số 179/CP của hội đồng chính
phủ, theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính, công ty bảo hiểm Việt
Nam tên giao dịch là Bảo Việt được thành lập và chính thức đi vào khai
trương hoạt động ngày 15/1/1965 với vốn điều lệ là 10 triệu VND (tương
đương 2 triệu USD thời điểm đó) dưới sự quản lí trực tiếp của Bộ tài
chính.Trong thời gian này bảo Việt chỉ mới triển khai mảng bảo hiểm phi
nhân thọ, mà chưa triển khai BHNT.Tuy nhiên, Bảo Việt cũng đã chú
trọng đến việc mở rộng và đa dạng hoá các nghiệp vụ bảo hiểm đặc biệt
là nghiệp vụ bảo hiểm con người làm tiền đề cho việc triển khai BHNT
về sau.
Ở miền Nam, vào những năm 1970 đã có một công ty BHNT ra đời
có tên là công ty BHNT Hưng Việt.Công ty bảo hiểm này triển khai được
một số sản phẩm bảo hiểm như: BHNT trọn đời, BH tử kì thời hạn 5
năm, 10 năm, 20 năm.Nhưng công ty mới chỉ ở giai đoạn đầu triển khai
nên kết quả chưa rõ nét.
Sau khi đất nước thống nhất, Chính phủ Cách mạng lâm thời cộng
hoà miền Nam Việt Nam đã tuyên bố đình chỉ các hoạt động của các
công ty bảo hiểm miền Nam Việt Nam, trong đó có công ty BHNT Hưng
Việt và tuyên bố thanh lí giải thể các tổ chức bảo hiểm tư nhân.
Năm 1976, Bộ trưởng bộ kinh tế tài chính chính phủ lâm thời cộng
hoà miền Nam Việt Nam ra quyết định số 21/QĐ-BKT thành lập công ty
bảo hiểm, tái bảo hiểm Việt Nam (viết tắt là BAVINA), thuộc tổng nha tài

chính Chính phủ cách mạng lâm thời cộng hoà miền nam Việt Nam.
Năm 1977, Bộ trưởng Bộ tài chính ra quyết định số 61/TCQĐ/TCCB
về việc sát nhập BAVINA thành chi nhánh của Bảo Việt tại TPHCM.Như
vậy kể từ đây, Bảo Việt chính thức có mạng lưới hoạt động tại các tỉnh
miền Nam.
Chính sách mở cửa vào năm 1987 đã tạo điều kiện cho ngành bảo
hiểm Việt Nam được học hỏi và tiếp cận với những kĩ thuật bảo hiểm
mới trên thế giới.Từ kinh nghiệm các nước, Bảo Việt lúc đó vẫn là công
ty bảo hiểm duy nhất ở Việt Nam đã thấy được tiềm năng to lớn của
BHNT ở nước ta.Vì vậy, Bảo Việt bắt đầu nghiên cứu triển khai BHNT ở
Việt Nam với đề án: “BHNT và điều kiện triển khai ở Việt Nam” nhưng
lúc đó chưa có đủ điều kiện vì : thu nhập dân cư còn thấp, kinh tế còn
kém phát triển, tỉ lệ lạm phát còn cao,thị trường tài chính chưa phát
triển, chưa có môi trường đầu tư và các công ty bảo hiểm chưa được
phép hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, chưa có văn bản pháp luật điều
chỉnh mối quan hệ giữa công ty bảo hiểm và khách hàng, đội ngũ cán
bộ bảo hiểm lúc đó còn chưa được trang bị những kiến thức về nghiệp
vụ BHNT.Do đó Bảo Việt chỉ triển khai bảo hiểm sinh mạng có thời hạn 1
năm (BHNT tử kì có thời hạn 1 năm). Đây là loại hình BHNT đơn giản
nhất và có nhiều đặc điểm tương đông bảo hiểm con người phi nhân
thọ.
Sau thời kì đổi mới kinh tế được 10 năm nền kinh tế việt nam đã có
những bước phát triển vượt bậc, lạm phát đã được đẩy lùi, tốc độ tăng
trưởng kinh tế luôn đạt mức cao từ 6-9% /năm, môi trường kinh tế- xã
hội và môi trường pháp lí có nhiều thuận lợi hơn. Đời sống người dân
ngày càng được nâng cao và ở một bộ phận quần chúng dân cư đã bắt
đầu có tích luỹ. Đây là những nhân tố thuận lợi cho BHNT ra đời và phát
triển ở Việt Nam.Năm 1996, thực hiện chủ trương mở rộng cung cấp
các sản phẩm và dịch vụ tới các tầng lớp dân cư, Bảo Việt đã nghiên
cứu và đưa ra thị trường dịch vụ BHNT lần đầu tiên ở Việt Nam thể

hiện vai trò tiên phong của Bảo Việt trên thị trường BHNT Việt
Nam.Ngày 20/3/1996, Bộ tài chính đã chính thức quyết định cho phép
Bảo Việt triển khai 2 sản phẩm : BHNT hỗn hợp và bảo hiểm an sinh
giáo dục.Tháng 8/1996, Bảo Việt đã bán những sản phẩm BHNT đầu
tiên trên thị trường đánh dấu cho chặng đường phát triển đầy hứa hẹn
của BHNT ở Việt Nam.
Có thể nói, Nghị định 100/CP ngày 18/12/1993 là một bước ngoặt
có tính cách mạng đối với thị trường bảo hiểm Việt Nam.Nghị định này
đã thể hiện chủ trương phát triển một ngành đa thành phần của Nhà
nước ta.Tuy nhiên xét về thực chất kể từ 6/1999 khi có sự ra đời của
các công ty bảo hiểm 100% vốn nước ngoài như: công ty BHNT Chinfon
Manulife( nay là manulife), công ty BHNT Prudential, BHNT quốc tế Mỹ
AIA, Bảo Minh-CMG(nay là Dai-ichi life)….BHNT mới chấm dứt giai
đoạn độc quyền của Bảo Việt nhân thọ và bắt đầu đi vào phát triển có
sự cạnh tranh.
Cho dù mới hình thành và phát triển trong một thời gian ngắn (từ
năm 2000) nhưng thị trường BHNT đã và đang tỏ rõ là một thị trường rất
tiềm năng.Thị trường BHNT đã có tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ về quy
mô như: tăng số lượng các công ty, tăng doanh thu phí bảo hiểm,STBH
và số lượng HĐBH, bình quân phí thu hàng năm của thị trường tăng từ
30% đến 40% /năm.Từ chỗ chỉ có Bảo Việt là doanh nghiệp duy nhất
kinh doanh BHNT thì đến nay toàn thị trường đã có 8 công ty BHNT
hoạt động, với doanh thu phí bảo hiểm gốc cũng có sự tăng trưởng
mạnh mẽ qua các năm.
Quy mô thị trường bảo hiểm ngày càng được mở rộng, thể hiện
tổng doanh thu phí toàn thị trường tăng nhanh qua các năm, năm 1999
doanh thu phí bảo hiểm mới chỉ đạt 485 tỷ thì năm 2001 đạt gần 2786 tỷ
đồng, chiếm tỷ trọng 0,56% /GDP.Tốc độ tăng trưởng BHNT giai đoạn
1996-2001 đạt 165% /năm.Có thể thấy rõ điều này qua bảng dưới đây:
Bảng 1:Doanh thu phí bảo hiểm gốc của các DNBHNT trên thị

trường Việt Nam (giai đoạn 2001-2006)
TT Tên DNBH 2001 2002 2003 2004 2005 2006
1 Bảo việt 1507 2157 2606 3043 3063 3099
2 Dai-ichi 40 79 140 211 286 369
3 Prudential 828 1635 2557 3103 3354 3529
4 Manulife 302 548 780 888 898 896
5 AIA 106 224 356 463 522 518
6 ACE l ife - - - - 3 52
7 Prevoir - - - - - 16
8 Toàn thị trường 2785 4645 6441 7710 8130 8481
Nguồn:Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam.
Ghi chú: (-) thể hiện các số liệu chưa có của các công ty BHNT mới
được thành lập
Theo đánh giá của các chuyên gia thị trường BHNT Việt Nam là 1
thị trường đầy hứa hẹn.Nền kinh tế Việt Nam đang tăng trưởng ở tốc độ
cao GDP của Việt Nam hiện nay đang tăng trưởng với tốc độ trên 8%
/năm, dân số Việt Nam hiện nay trên 83 triệu dân, trong đó số dân ở độ
tuổi dưới 30 chiếm 60%.Theo thống kê doanh thu phí BHNT hiện nay
chỉ chiếm khoảng 2.5% tổng GDP của Việt Nam và Bộ Tài Chính hi vọng
doanh thu này sẽ chiếm trên 4% vào năm 2010.Trong khi đó ở các nước
trong khu vực doanh thu phí BHNT đạt khoảng 5-6% tổng GDP.
Những kết quả tăng trưởng đầy ấn tượng của dịch vụ BHNT cùng
với thói quen tiết kiệm của người dân Việt Nam đã góp phần tạo nên sự
hấp dẫn cho các công ty BHNT nước ngoài.Việc có mặt nhiều công ty
KDBH lớn của thế giới là những tín hiệu tích cực báo hiệu sự phát triển
mới , đặc biệt trong bối cảnh hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới của
đất nước.Có thể nói thị trường BHNT Việt Nam đang từng bước hội
nhập với thị trường BHNT khu vực và thế giới.
1.1.2 Vai trò của BHNT
Cũng giống như các loại hình bảo hiểm khác BHNT ra đời nhằm

khắc phục những khó khăn về tài chính khi gặp rủi ro.Khi một người trụ
cột trong gia đình bị tai nạn dẫn đến thương tật hoặc chết, bản thân
người đó hoặc những người sống phụ thuộc sẽ rơi vào tình trạng khó
khăn về mặt tài chính.Hơn lúc nào hết họ sẽ cần đến nguồn tài chính kịp
thời để bù đắp thiệt hại lấy lại sự cân bằng ổn định tình hình tài
chính.Hơn nữa vượt lên cả ý nghĩa “tiền bạc” BHNT mang đến trạng thái
an toàn về tinh thần, giảm bớt sự lo âu trước rủi ro, bất trắc cho người
được bảo hiểm.
Hiện nay các nước đều quan tâm tới hệ thống an sinh xã hội.Tuy
nhiên để được nhận trợ cấp thì phải có một số tiêu chuẩn và sự trợ cấp
này cũng chỉ mang tính tạm thời trước mắt chưa đảm bảo được lâu dài
về mặt tài chính.Tham gia BHNT sẽ phần nào giải quyết được những
khó khăn đó.Vì bảo hiểm vận hành giống như cơ chế chuyển giao rủi
ro,cùng với việc đóng phí bảo hiểm người được bảo hiểm đã chuyển
giao rủi ro sang công ty bảo hiểm.Khi không may gặp rủi ro dẫn đến tử
vong thay vì bỏ tiền ra để lo các chi phí mai táng gia đình anh ta sẽ
được nhận tiền từ công ty bảo hiểm để trang trải các chi phí.
BHNT còn giúp cho những người tham gia có thể tích luỹ cho
những kế hoạch tài chính tương lai như để dành tiền cho con ăn học,
cho con một số vốn để vào đời hoặc có thể tiết kiệm tiền để mua xe,
mua nhà, vui hưởng cuộc sống an nhàn khi tuổi già.
Không chỉ có vậy BHNT còn góp phần ổn định tài chính và sản xuất
kinh doanh cho các doanh nghiệp, tạo dựng mối quan hệ gần gũi gắn bó
giữa doanh nghiệp và người làm công ngay cả những lúc doanh nghiệp
gặp khó khăn.Khi doanh nghiệp bỏ tiền ra mua BHNT cho các nhân
viên của mình thì nhân viên họ sẽ cảm thấy họ được quan tâm, được
tôn trọng.Từ đó ý thức làm việc của họ được tăng lên, có thể vì thế mà
năng suất lao động của doanh nghiệp ngày càng cao, lợi nhuận cũng
ngày càng tăng.Lợi nhuận mà họ đem lại có thể lớn hơn rất nhiều so với
chi phí bỏ ra mua bảo hiểm cho nhân viên.Chính vì vậy hiện nay có một

số doanh nghiệp rất quan tâm đến việc mua BHNT cho nhân viên của
mình. Đặc biệt là những công việc mà độ rủi ro cao như khai thác than,
làm việc ở hầm mỏ…thì các doanh nghiệp thường mua bảo hiểm nhóm
cho nhân viên. Đối với một số nhân viên văn phòng có trình độ cao
doanh nghiệp mua BHNT cho nhân viên như là một cách để giữ chân họ
ở lại làm việc lâu dài cho doanh nghiệp.
Bên cạnh việc mang lại những lợi ích cho mỗi cá nhân gia đình và
doanh nghiệp thì BHNT còn mang lại nhiều lợi ích khác cho xã hội.
BHNT là một kênh huy động vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư
để đầu tư cho những dự án trung dài hạn nhằm góp phần phát triển đất
nước.Khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ngày càng cao sẽ
xuất hiện nhu cầu tiết kiện hoặc đầu tư số tiền tạm thời nhàn rỗi.BHNT
đã huy động được những đồng tiền nhàn rỗi, nhỏ lẻ trong dân cư thành
một quỹ tài chính tập trung khá lớn.Quỹ này chủ yếu để chi trả cho
người được bảo hiểm.Bên cạnh đó các công ty BHNT còn phải lập các
quỹ dự phòng nghiệp vụ như: Dự phòng toán học, dự phòng phí chưa
được hưởng, dự phòng chi trả, dự phòng chia lãi….khi nhàn rỗi đây sẽ
là nguồn vốn đầu tư trở lại nền kinh tế.
Thông qua cơ chế chuyển giao rủi ro BHNT đã góp phần giảm gánh
nặng ngân sách quốc gia trong việc chăm lo người già và những người
phụ thuộc khi người trụ cột trong gia đình qua đời.Mặt khác khi KDBH
thì các DNBHNT phải thực hiện các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp
thuế…Vì vậy ngân sách nhà nước cũng được tăng lên một phần và có
thể sử dụng vào nhiều mục đích hữu ích khác.
Xét trên bình diện xã hội, BHNT đã góp phần tạo nên công ăn việc
làm cho nhiều người làm giảm tỉ lệ thất nghiệp.Hầu hết các DNBHNT
đều cần mạng lưới đại lý rộng khai thác,nhân viên rất lớn.Vì vậy dịch vụ
này phát triển đã tạo ra công ăn việc làm cho người lao động.Ngoài ra
thông qua việc đầu tư dưới nhiều hình thức khác nhau như: xây dựng
cơ sở hạ tầng,các lĩnh vực sản xuất thương mại, ngân hàng- tài

chính….BHNT còn gián tiếp tạo ra công ăn việc làm cho các ngành
nghề khác.
Ở nước ta BHNT phát triển chỉ trong một thời gian ngắn số việc làm
mà lĩnh vực này tạo ra lên tới trên 74494 người, trong đó trên 70568 đại
lí chuyên nghiệp trong đó có hàng nghìn đại lý giỏi thu nhập cao trên 10
triệu đồng/ tháng. Đây là đóng góp hữu hiệu của ngành BHNT trong bối
cảnh số lượng người chưa có việc làm ở nước ta đang có xu hướng
tăng lên.Với sự phát triển đó nghề tư vấn bảo hiểm có tên trong danh
mục nghề nghiệp ở nước ta.
1.1.3 Khái niệm và đặc điểm của BHNT
1.1.3.1 Khái niệm
Cuộc sống con người luôn chứa đựng vô vàn rủi ro như tử vong
thương tật hay già yếu.Khi rủi ro xảy ra thường gây nên những tổn thất
về tài chính đối với người thân và gia đình.Nhiều người trên thế giới đã
xem BHNT là một giải pháp thực tiễn có thể đáp ứng những nhu cầu tài
chính của họ.Vậy BHNT là gì?
BHNT là sự cam kết giữa người bảo hiểm và người tham gia, mà
trong đó người bảo hiểm sẽ trả cho người tham gia (hoặc người thụ
hưởng quyền lợi bảo hiểm) một số tiền nhất định khi có những sự kiện
bảo hiểm xảy ra, còn người tham gia phải nộp phí bảo hiểm đầy đủ
đúng hạn.Nói cách khác, BHNT là loại hình bảo hiểm bảo đảm cho các
rủi ro liên quan đến tính mạng, sức khoẻ và tuổi thọ con người.
Các sự kiện được chi trả trong BHNT bao gồm:
* Hết hạn hợp đồng: khi hết thời hạn bảo hiểm người bảo hiểm sẽ
trả cho người tham gia một số tiền nhất định đã cam kêt và lãi chia thêm
(nếu có)
* Thương tật
* Tử vong
1.1.3.2 Đặc điểm
1.1.3.2.1 BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi ro

Đây là điểm khác nhau cơ bản giữa BHNT và bảo hiểm phi nhân
thọ.Mỗi người mua BHNT sẽ định kì (có thể là từng tháng, từng quý,6
tháng hoặc một năm) nộp một khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm)cho
công ty bảo hiểm, ngược lại công ty bảo hiểm có trách nhiệm trả một
khoản tiền lớn (gọi là STBH) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như
đã thoả thuận từ trước (khi kí kết HĐBH)khi có các sự kiện bảo hiểm
xảy ra.STBH được chi trả khi người được BH đạt đến một độ tuổi nhất
định và được ấn định trong hợp đồng.Hoặc số tiền này được chi trả cho
thân nhân và gia đình người được bảo hiểm khi người này không may bị
chết sớm ngay cả khi họ mới tiết kiệm được khoản tiền rất nhỏ qua việc
đóng phí bảo hiểm.Số tiền này giúp những người còn sống trang trải
những khoản chi phí cần thiết như: thuốc men,mai táng, chi phí giáo dục
con cái….Chính vì vậy BHNT vừa mang tính tiết kiệm vừa mang tính rủi
ro.
Tuy nhiên tính chất tiết kiệm khi mua BHNT không giống như các
hình thức tiết kiệm khác như tiết kiệm bưu điện, tiết kiệm ngân hàng
mặc dù các loại hình này đều nhằm mục đích tiết kiệm.Tiết kiệm trong
BHNT là tiết kiệm một cách thường xuyên có kế hoạch và có kỉ luật. Đây
là sự tiết kiệm từ những khoản tiền rất nhỏ đến khi đáo hạn hợp đồng
hoặc khi sự kiện bảo hiểm xảy ra khách hàng sẽ được nhận một khoản
tiền rất lớn từ nhà bảo hiểm.Tiết kiệm ngân hàng hay tiết kiệm bưu điện
không phải bằng những khoản tiền nhỏ định kì như BHNT mà bằng
những khoản tiền lớn, điều mà không phải người dân nào cũng có khả
năng đáp ứng. Đặc biệt tiết kiệm khi mua BHNT khác với hình thức tiết
kiệm khác ở chỗ người bảo hiểm (công ty bảo hiểm) đảm bảo trả cho
người tham gia hay người thân của họ một số tiền rất lớn ngay cả khi họ
mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ.Có nghĩa là khi người tham
gia bảo hiểm không may gặp rủi ro trong thời hạn bảo hiểm đã được ấn
định những người thân của họ sẽ được nhận những khoản trợ cấp hay
STBH từ công ty bảo hiểm.Trên thực tế có những truờng hợp khách

hàng không may bị tử vong sau kí hợp đồng được 24 giờ.Lúc này STBH
mà công ty bảo hiểm chi trả sẽ giúp người thân khắc phục những khó
khăn đặc biệt đối với người tử vong là trụ cột gia đình thì khoản tiền này
lại càng có ý nghĩa. Điều này thể hiện rõ tính chất rủi ro trong BHNT và
nó tạo sự khác biệt so với các sản phẩm có mục đích tiết kiệm khác.
1.1.3.2.2 BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau của người
tham gia
Trong khi các nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân thọ chỉ đáp ưng được
một mục đích là góp phần khắc pbục hậu quả khi các đối tượng tham
gia gặp rủi ro, từ đó góp phần ổn định tài chính cho người tham gia thì
BHNT đáp ứng được rất nhiều mục đích khác nhau.Mỗi mục đích thể
hiện khá rõ trong từng loại hợp đồng.Chẳng hạn HĐBH hưu trí sẽ đáp
ứng yêu cầu của khách hàng bằng những khoản trợ cấp hàng tháng, từ
đó mang đến sự an nhàn cho tuổi già, đảm bảo một khoản lương hưu
ổn định cho tất cả mọi người kể cả những người không có bảo hiểm xã
hội.Ngoài ra,HĐBH hưu trí cũng là một cách thể hiện lòng hiếu thảo đối
với những người thân yêu hay sự quan tâm chăm sóc của các công ty
đối với nhân viên của mình.Các HĐBH như An gia thịnh vượng hay An
khang thịnh vượng lại giúp khách hàng thực hiện được những dự định
lớn trong tương lai như mua ô tô, mua nhà, giữ gìn tài sản,…Còn HĐBH
tử vong lại giúp người được bảo hiểm để lại cho gia đình một số tiền
bảo hiểm khi họ qua đời.Số tiền này đáp ứng được rất nhiều nguyện
vọng của người quá cố như phụng dưỡng cha mẹ, chăm lo cho tương
lai của con cái,…HĐBHNT đôi khi còn là tài sản thế chấp để vay vốn
cho mục đích khởi nghiệp kinh doanh, mua sắm tài sản….Chính vì đáp
ứng được nhu cầu đa dạng của khách hàng mà BHNT ngày càng được
quan tâm hơn và thị trường BHNT ngày càng được mở rộng.
1.1.3.2.3 Các loại hợp đồng trong BHNT rất đa dạng và phức tạp
Tính đa dạng và phức tạp trong các HĐBHNT được thể hiện ngay ở
các sản phẩm của nó.Mỗi loại sản phẩm BHNT có nhiều loại hợp đồng

khác nhau, chẳng hạn BHNT hỗn hợp có các thời hạn 5 năm, 10
năm.Mỗi hợp đồng có các thời hạn khác nhau, lại có sự khác nhau về
STBH, phương thức đóng phí, độ tuổi của người tham gia…Ngay cả
trong 1 bản hợp đồng, mối quan hệ giữa các bên cũng rất phức
tạp.Khác với các bản HĐBH phi nhân thọ, trong mỗi HĐBHNT có thể có
4 bên tham gia: Người bảo hiểm, người được bảo hiểm, người tham gia
bảo hiểm và người thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm.
+Người bảo hiểm: Chính là các công ty BHNT.Sau khi đã cam kết
nhận bảo hiểm, trách nhiệm nghĩa vụ chủ yếu của công ty là chi trả
STBH khi có các sự kiện bảo hiểm xảy ra đối với người được bảo hiểm.
Công ty bảo hiểm không được thay đổi các điều khoản trong hợp
đồng và cũng không được khiếu nại đòi phí bảo hiểm khi người tham gia
chưa đóng phí bảo hiểm.
+Người được bảo hiểm: Là người mà sinh mạng và cuộc sống của
họ được bảo hiểm theo các điều kiện của hợp đồng.Người được bảo
hiểm có thể là người đã trưởng thành, có đủ năng lực pháp lí để tự kí
hợp đồng cho chính mình và cũng có thể là những người chưa đủ tuổi
thành niên phải giao tên của mình cho người khác đứng ra ký kết
HĐBH.

×