Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂ NG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (207.58 KB, 22 trang )

1
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂ NG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG
KINH DOANH CỦA BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU
CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI.
I. MỘT SỐ THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN KHI TIẾN HÀNH TRIỂN KHAI
NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH DOANH SAU CHÁY TẠI
BẢO VIỆT HÀ NỘI.
3.1. Một số thuận lợi.
Bắt đầu từ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI ( 12/1986 ) , chúng ta thực
hiện mở cửa giao lưu với bên ngoài trên nguyên tắc: “Tôn trọng độc lập chủ
quyền, không can thiệp vào nội bộ của nhau và đảm bảo hai bên cùng có lợi”,
trong nước thì thực hiện CNH-HĐH đất nước, nền kinh tế chuyển từ tập chung
quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
quản lý của nhà nước. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần và sở hữu đa dạng
đã tạo điều kiện cho chúng ta nhanh chóng xoá bỏ tập chung quan liêu bao cấp
sang cơ chế thị trường. Bên cạnh đó, sự kiện Mỹ xoá bỏ cấm vận kinh tế vào
Việt Nam (1/1/1995) cùng với sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức
của khối ASEAN (28/7/1995) đã tạo cho chúng ta nhiều cơ hội để hội nhập vào
nền kinh tế thế giới và khu vực.
Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế khá cao, đặc biệt là
Hà Nội có tốc độ tăng trưởng khá, với sự tham gia tích cực của các thành phần
kinh tế, tốc độ đầu tư tăng nhanh đặc biệt là đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình
thức. Hoạt động sản xuất kinh doanh ngày càng lớn, cùng với quá trình đô thị
hoá ngày càng nhanh, Hà Nội đã đang và sẽ xây dựng nhiều trụ sở thương mại,
khách sạn, nhà hàng lớn … giá cả khá ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức
hai con số, đời sống nhân dân thủ đô được nâng cao cả về mặt vật chất và tinh
thần. Đây thực sự là môi trường thuận lợi để ngành bảo hiểm nói chung và
nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy nói riêng phát triển .
Bên cạnh đó, việc đổi mới cơ chế quản lý, thực hiện giao vốn cho các
doanh nghiệp nên công tác bảo toàn và phát triển vốn nặng nề hơn trước. Để làm
tốt công tác này thì theo thông tư số 82/TCCN ngày 31/12/1991 của bộ Tài


Chính hướng dẫn thực hiện chỉ thị số 332/HĐBT về bảo tồn vốn với các doanh
nghiệp Nhà nước ghi rõ: “Các doanh nghiệp cần phải mua bảo hiểm tài sản để
tạo nguồn bù đắp cho những thiệt hại. Khoản chi phí mua bảo hiểm sẽ được
hạch toán vào giá thành hoặc chi phí lưu thông của doanh nghiệp. Nhà nước sẽ
1
1
2
không cho ghi giảm vốn trong trường hợp tài sản bị tổn thất do những rủi ro mà
các công ty bảo hiểm trong nước đã triển khai những loại hình bảo hiểm tương
tự ..”. Đây thực sự là một yếu tố thuận lợi cho việc triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm mới và khó như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy.
Việc đổi mới cơ chế quản lý khiến nhiệm vụ bảo toàn vốn của các doanh
nghiệp Nhà nước trở nên khó khăn hơn.Trước kia các doanh nghiệp Nhà nước
thường nhận được sự trợ giúp của nhà nước nên không có nhu cầu mua bảo
hiểm, nhưng giờ đây sự sự bảo trợ của nhà nước không còn tất yếu dẫn tới nhu
cầu mua bảo hiểm tăng. Thêm vào đó, nhận thức của khách hàng ngày càng
được nâng cao, họ đã thấy được rõ hơn tầm quan trọng của việc tham gia bảo
hiểm nên tham gia nhiều hơn, mạnh dạn tham gia những nghiệp vụ bảo hiểm
mới.
Luật kinh doanh bảo hiểm chính thức có hiệu lực là một thuận lợi lớn cho
hoạt động kinh doanh bảo hiểm cho các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo
hiểm nói chung và Bảo Việt Hà Nội nói riêng. Sự kiện này không chỉ đưa ra cơ
sở pháp lý cho hoạt động của các công ty bảo hiểm, chấm dứt thời kì hoạt động
không có cơ sở pháp lý rõ ràng, mà còn có tác dụng xoá bỏ các hoạt động khai
thác, môi giới tái bảo hiểm trái phép của các văn phòng đại diện nước ngoài. Tạo
sân chơi cạnh tranh lành mạnh cho các công ty bảo hiểm.
Nghị định 100/CP của chính phủ ban hành ngày 18/2/1993 và Nghị định
74/CP ban hành ngày 14/6/1997 đã cho phép các doanh nghiệp thuộc nhiều
thành phần kinh tế tham gia hoạt động kinh doanh bảo hiểm trên thị trường bảo
hiểm Việt Nam đã tạo ra sự cạnh tranh mãnh mẽ giữa các công ty bảo hiểm thúc

đẩy thị trường bảo hiểm phát triển.

3.2. Một số khó khăn.
Trình độ dân trí còn thấp, nhân dân chưa có tập quán mua bảo hiểm cho
mọi đối tượng cần thiết phải tham gia bảo hiểm như: con người, tài sản, trách
nhiệm. Rất nhiều người còn hiểu sai lệch về bảo hiểm coi bảo hiểm là lừa đảo,
một số người do bất bình với bảo hiểm y tế nên đã quay lưng lại với bảo hiểm
thương mại. Hơn nữa, đời sống kinh tế xã hội nói chung còn thấp nên hoạt động
bảo hiểm cá nhân đặc biệt đối với loại bảo nghiệp vụ bảo hiểm tài sản chưa
nhiều. tham gia bảo hiểm đối với họ nói riêng đối với toàn bộ nền kinh tế nói
chung.
2
2
3
Sự chuyển đổi cơ chế tập chung quan liêu bao cấp sang kinh tế thị trường
làm cho nhiều doanh nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ
không hiệu quả. Do vậy trên thực tế, mặc dù họ hiểu được tác dụng, sự cần thiết
của việc tham gia bảo hiểm nhưng không có điều kiện tham gia bảo hiểm do
không có khả năng chi trả. Mặt khác, do duy trì khá lâu cơ chế tập chung quan
liêu bao cấp dẫn đến việc một số doanh nghiệp Nhà nước có thói quen trông chờ
vào sự hậu thuẫn của Nhà nước khi gặp rủi ro nên mặc dù có khả năng chi trả
nhưng họ vẫn không tham gia, họ chưa thấy rõ được trách nhiệm phải bảo toàn
vốn nhất là bằng con đường tham gia bảo hiểm. Bên cạnh đó, một số dơn vị kinh
doanh cũng như các chủ thể kinh doanh trong nền kinh tế đã nhận thức được
những khó khăn phức tạp nhưng lại không có hiểu biết nhất định về kinh doanh
bảo hiểm nên họ chưa thực sự tin tưởng vào hoạt động của các cơ quan bảo hiểm
nên họ chỉ tham gia một cách dè dặt ở mức tối thiểu, và thường không dám tham
gia những nghiệp vụ bảo hiểm mới như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh
doanh sau cháy. Trên thực tế, một số doanh nghiệp Việt Nam khi phải mua bảo
hiểm đã coi đó như là một sự bắt buộc và luôn tìm cách trốn tránh.

Trong những năm gần đây, thị trường bảo hiểm Việt Nam nói chung và
thị trường bảo hiểm Hà Nội nói riêng có nhiều biến động đáng kể. Nghị định
100/CP ban hành ngày 18/2/1993 và Nghị định 74/CP ban hành ngày 14/6/1997
của chính phủ về việc cho phép nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
kể cả các doanh nghiệp nước ngoài tham gia kinh doanh bảo hiểm đã phá vỡ thế
độc quyền của Bảo Việt. Trên thị trường Hà Nội có 13 trong tổng số 14 công ty
bảo hiểm phi nhân thọ triển khai hoạt động và chú trọng đầu tư, phát triển thị
trường. Trong bối cảnh diễn biến phức tạp như vậy sự cạnh tranh và lôi kéo
khách hàng trong cùng ngành và các công ty khác nhau đã làm ảnh hưởng không
nhỏ tới các nghiệp vụ bảo hiểm của Bảo Việt Hà Nội. Thực tế cho thấy, sự phối
hợp, hợp tác giữa các doanh nghiệp còn yếu, chưa tập hợp được ý kiến từ thị
trường để có thể có tiếng nói chung về đánh giá tình hình khai thác, tỷ lệ phí bảo
hiểm, vấn đề thống kê nghiệp vụ. Trong cạnh tranh vẫn ở tình trạng “Mạnh ai
nấy chạy”. Chính điều này mô hình chung đã tạo kẽ hở rất lớn về những quy
định trong kinh doanh bảo hiểm như phí bảo hiểm, sự tranh giành khách hàng.
Và nó giúp cho các công ty bảo hiểm nước ngoài đưa ra một mức phí bảo hiểm
hợp lý và đa dạng hơn mức phí mà các công ty bảo hiểm trong nước áp dụng.
3
3
4
Là một công ty hoạt động chủ yếu trên địa bàn thủ đô, lại tập chung nhiều
công ty bảo hiểm trong và ngoài nước đã và đang cạnh tranh gay gắt gây nhiều
khó khăn cho công ty như:
 Thứ nhất, hiện nay ở nước ta luật kinh doanh bảo hiểm mới ra đời , nên trên
thị trường vẫn tồn tại một số hoạt động khai thác, môi giới, tái bảo hiểm trái
phép của các văn phòng đại diện nước ngoài. Sự hoạt động của các văn
phòng này đã làm cho không khí cạnh tranh trên thị trường càng thêm khốc
liệt, gây ra nhiều hiện tượng tiêu cực.
 Thứ hai, là việc các công ty bảo hiểm khi khai thác nghiệp vụ đã trả hoa hồng
ở mức quá cao và sai đối tượng quy định của Bộ Tài Chính.

 Thứ ba, là dùng phương pháp bảo hiểm miễn phí để tranh giành dịch vụ của
nhau. Đây là phương thức mà các công ty bảo hiểm Việt Nam thường sử
dụng.
 Bên cạnh đó, trong những năm qua cùng với chính sách mở cửa của Nhà
nước, các doanh nghiệp các nhà đầu tư kinh doanh tại Việt Nam ngày càng
tăng. Thế nên, trong điều 9 chương II luật đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
quy định rằng: “Tài sản của các xí nghiệp liên doanh được bảo hiểm tại các
công ty bảo hiểm Việt Nam hoặc các công ty bảo hiểm khác do hai bên thoả
thuận”, cho nên nhiều nhà đầu tư nước ngoài tham gia bảo hiểm tài sản của
họ tại các công ty bảo hiểm nước ngoài mà họ tin tưởng hơn. Điều này đã tạo
cho các công ty bảo hiểm nước ngoài không phải vào Việt Nam mà vẫn thu
được phí bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm Việt Nam, đã gây khó khăn cho
các công ty bảo hiểm trong đó có Bảo Việt Hà Nội bị thất thu phí ngay trên
đất nước mình về các nghiệp vụ. Để giải quyết vấn đề này, Nhà nước cần
phải có sự bảo hộ bằng luật đầu tư. Theo cơ chế thị trường, các doanh nghiệp
phải tự hạch toán kinh doanh chi phí mua bảo hiểm được tính và chi phí hoạt
động kinh doanh, do vậy việc mua bảo hiểm có ảnh hưởng trực tiếp đến kết
quả - hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nên chủ
doanh nghiệp chỉ mua các loại hình bảo hiểm bắt buộc ở mức tối thiểu. Đây
thực sự là một trở ngại lớn cho việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn
kinh doanh sau cháy.
Cuối cùng là những khó khăn từ phía Bảo Việt Hà Nội: Một số bộ phận
trong công ty còn quá cồng kềnh, hiệu quả chưa cao, chưa phát huy được khả
4
4
5
năng của cán bộ, vẫn còn tình trạng dựa dẫm ỷ lại vào nhau. Số cán bộ chủ chốt
còn thiếu, chuyên môn chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường trong khi vẫn
còn tồn tại tình trạng tuyển dụng sai nguyên tắc.
Chất lượng phục vụ khách hàng đôi khi còn rất nhiều hạn chế, đôi khi còn

tồn tại tình trạng tư vấn chưa chính xác đã gây không ít khó khăn cho công ty
khi giải quyết bồi thường hay khi khách hàng thắc mắc giải thích chưa thoả
đáng, thái độ chưa hoà nhã, khiêm tốn gây bất bình cho khách hàng. Bởi nghiệp
vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy là một nghiệp vụ mới và khó, khiếu
nại bồi thường phần lớn là cho đối tác nước ngoài, trong khi số cán bộ có trình
độ ngoại ngữ và làm tốt các khâu chưa nhiều, việc xác định số tiền bảo hiểm, số
tiền thiệt hại về lợi nhuận gộp lại rất phức tạp.
II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHĂM NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG VÀ HIỆU QUẢ CỦA NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM GIÁN ĐOẠN KINH
DOANH SAU CHÁY TẠI BẢO VIỆT HÀ NỘI.
Qua phân tích những thuận lợi và khó khăn trong triển khai nghiệp vụ bảo
hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị
và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh của nghiệp vụ
bảo hiểm này.
3.1. Một số kiến nghị.
3.1.1. Một số kiến nghị với cơ quan nhà nước.
Nền kinh tế nước ta đang trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới,
chính vì vậy chúng ta chưa thể cho phép các công ty bảo hiểm nước ngoài vào
Việt Nam. Bởi một khi các công ty bảo hiểm nước ngoài vào thì các công ty bảo
hiểm trong nước phải cạnh tranh với những đối thủ rất mạnh. Họ không chỉ có
ưu thế về tiềm lực kinh tế mà còn hơn hẳn các công ty bảo hiểm trong nước về
kinh nghiệm trong quản lý, khai thác cũng như công tác chăm sóc khách hàng.
Nếu không được chuẩn bị chu đáo thì nghành bảo hiểm nước ta sẽ không tránh
khỏi tình trạng khó khăn.
Nhận thức của người dân còn hạn chế, nhiều người chưa có cái nhìn đúng
về bảo hiểm còn cho bảo hiểm là lừa đảo. Do vậy, trong thời gian tới ngành bảo
hiểm Việt Nam cần có sự trợ giúp từ phía nhà nước.
- Thứ nhất là cần nhanh chóng triển khai có hiệu quả luật kinh doanh bảo
hiểm.
5

5
6
- Thứ hai là tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý:
+ Luật kinh doanh bảo hiểm mới ra đời nên không tránh khỏi việc còn
nhiều thiếu sót. Trong luật kinh doanh bảo hiểm hiện chưa có khoản mục nào đề
cập đến trục lợi bảo hiểm. Do vậy, Nhà nước cần ban hành một văn bản dưới
luật về vấn đề này cũng như thông tư hướng dẫn các bộ ban ngành có liên quan
trong việc thực hiện nhằm đảm bảo tính khả thi của văn bản đó.
+ Ngoài ra, luật này hầu như chưa có quy định cụ thể về việc sử lý vi phạm,
giải quyết tranh chấp giữa các bên. Bộ tài chính cần dựa trên thực tế tình hình
hoạt động kinh doanh bảo hiểm của các công ty bảo hiểm để đưa ra sửa đổi bổ
xung cho phù hợp, tạo điều kiện cho ngành bảo hiểm còn non trẻ nước ta có thể
hoàn thành vai trò quan trọng của nó với nền kinh tế. Bởi bảo hiểm không chỉ là
một kênh huy động vốn quan trọng mà còn tạo tâm lý yên tâm cho các doanh
nghiệp khác mạnh dạn đầu tư vào những lĩnh vực rủi ro cao.
- Thứ ba là nhà nước cần hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Nhà nước cần hỗ trợ hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua những
chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp bảo hiểm cũng như đảm bảo
môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp bảo hiểm trong giai
đoạn đầu hội nhập: Bình đẳng về thuế giữa các doanh nghiệp Nhà nước và các
doanh nghiệp bảo hiểm khác
- Thứ tư là cần phải lựa chọn thận trọng khi cho phép các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài vào Việt Nam trên cơ sở:
 Lựa chọn các công ty có khả năng tài chính mạnh, có kinh nghiệm và uy
tín trên thế giới, có kế hoạch làm ăn lâu dài tại Việt Nam
 Đề án hoạt động kinh doanh trong tương lai phải có tính khả thi
 Hạn chế các công ty bảo hiểm nước ngoài ở Việt Nam thông qua việc
hạn chế về các loại nghiệp vụ, phạm vi khách hàng.
Cuối cùng nhà nước nên hỗ trợ xây dựng các hạng mục công trình với mục
đích giảm thiểu rủi ro như: ở nhưng đoạn đường hay xảy ra tai nạn đặt các biển

báo, gương cầu ở các khúc quanh hay cho xây đường thoát hiểm trong trên các
đèo núi hiểm trở nhằm giảm thiểu rủi ro và số chi bồi thường.
3.1.2. Một số kiến nghị với Tổng công ty Bảo Việt.
Đề nghị Tổng công ty xây dựng các trung tâm hỗ trợ khách hàng toàn diện
tại các thị trường lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh…).
Đề nghị Tổng công ty tư vấn, hỗ trợ khách hàng trong các tranh chấp dân
sự, trách nhiệm tài chính cho khách hàng.
6
6
7
Đề nghị Tổng công ty tăng cường xây dựng thiết kế sản phẩm theo hướng
linh hoạt để có thể đáp ứng được với nhu cầu của thị trường. Đề nghị chú trọng
đến sản phẩm phục vụ khối các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các tầng lớp dân cư
hiện tại đang bị ít sức ép.
Đề nghị Tổng công ty có hướng chỉ đạo thống nhất hoạt động kinh doanh
bảo hiểm trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Đề nghị tổng công ty xây dựng hoàn chỉnh chương trình kế toán và quản lý
nghiệp vụ bảo hiểm phi nhân trên máy vi tính để đáp ứng yêu cầu kinh doanh và
yêu cầu bảo mật.
Đề nghị Tổng công ty có chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí đào tạo về quản lý kinh
tế tài chính và quản lý nghiệp vụ cho cán bộ các công ty bảo hiểm. Tăng cường
đào tạo tập chung chuyên sâu về quản lý tài chính và quản lý nghiệp vụ cho đội
ngũ cán bộ của các công ty thành viên.
Đề nghị Tổng công ty tập chung các chiến dịch quảng cáo mang tính thống
nhất trong toàn hệ thống Bảo Việt để tạo nên sức mạnh tổng hợp.
Đề nghị Tổng công ty có đánh giá tổng kết mô hình tổ chức hiện tại của
Bảo Việt Hà Nội để có công ty có định hướng hoàn thiện.
3.2. Các giải pháp
3.2.1. Các giải pháp về công tác khai thác.
“Dù cho phương án kinh doanh của bạn có khéo đến đâu, xin bạn nhớ cho

rằng cái cuối cùng quyết định đến thành công là bạn phải bán được hàng, dù đó
là vật phẩm tiêu dùng hay dịch vụ” đó là câu nói nổi tiếng của Bill Hewlette,
người sáng lập ra công ty hàng đầu thế giới Hewlett Packard (HP) và thực tế cho
thấy những hãng thành công trên thế giới như Dishy, IBM, hay Sony … thường
rất coi trọng khâu bán hàng.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm công tác bán hàng (thể hiện chủ
yếu ở các khâu khâu khai thác) có vai trò cực kì quan trọng do đặc điểm của sản
phẩm bảo hiểm không giống như các hàng hoá dịch vụ khác. Tuy nhiên như đã
phân tích ở chương II, thì tại Bảo Việt Hà Nội khâu khai thác của nghiệp vụ
bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa được chú trọng đúng mức.
Đó có thể là một trong những nguyên nhân một nghiệp vụ có nhiều tiềm năng
như nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy vẫn chưa mang lại kết
quả cao cho Bảo Việt Hà Nội? Chính vì vậy , hơn lúc nào hết, Bảo Việt cần thực
7
7
8
hiện ngay các biện pháp thiết thực để đưa sản phẩm của mình đến với khách
hàng.
- Thứ nhất, Bảo Việt Hà Nội nên tăng cường công tác tuyên truyền quảng
cáo, giới thiệu cho khách hàng biết về sản phẩm của mình. Bởi, hiện nay số
khách hàng biết về bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy cũng như tác dụng
thực sự của nghiệp vụ chưa nhiều. Ngay trên địa bàn Hà Nội, nơi có trình độ
dân trí của người dân khá cao nhưng số người nhận thức đầy đủ về bảo hiểm
chưa nhiều. Một số người còn cho rằng, mua bảo hiểm là mua lấy cái xúi quẩy
về mình và tốt nhất là không nên mua. Thêm vào đó, một vài vụ tranh chấp
trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm giữa khách hàng với người tham gia trong
một vài năm trở lại đây đã gây không ít tai tiếng cho các công ty bảo hiểm , làm
giảm lòng tin của khách hàng vào công ty. Vì vậy, giai đoạn hiện nay là thời
gian thực sự cần thiết để công ty Bảo Việt Hà Nội thực sự coi trọng khâu xúc
tiến quảng cáo bằng cách phối hợp nhiều biện pháp khác nhau như quảng cáo

trên truyền hình, trên các phương tiện thông tin đại chúng khác, tổ chức hội chợ,
hội nghị khách hàng , tài trợ cho các cuộc thi, cho thể thao …Công ty cũng có
thể đưa ra các thông số, hình ảnh về mức độ nguy hại cũng như hậu quả của các
vụ cháy và sau cháy. Vì nghiệp vụ bảo hiểm gián đoạn kinh doanh sau cháy
mang tính trừu tượng hơn nhiều so với nghiệp vụ bảo hiểm cháy, mọi con số
thiệt hại chỉ là ước tính tương đối cho nên các con số đưa ra không dễ thuyết
phục khách hàng. Do vậy, công tác quảng cáo, tuyên truyền cho nghiệp vụ bảo
hiểm này phải hết sức kiên trì. Song, nhược điểm lớn của phương pháp này là
chi phí quảng cáo tương đối lớn, dẫn tới hiệu quả hoạt động kinh doanh có thể
giảm sút. Để đối phó với điều này,Bảo Việt Hà Nội có thể kết hợp quảng cáo về
nghiệp vụ bảo hiểm này với các nghiệp vụ bảo hiểm khác như bảo hiểm cháy.
- Thứ hai cùng với việc tuyên truyền quảng cáo, Bảo Việt Hà Nội nên
đưa ra các biện pháp nhằm đổi mới cách phục vụ tiếp cận khách hàng một cách
có quy củ hơn. Nếu như việc tuyên truyền quảng cáo được ví như màn mở đầu
thì côngviệc tiếp cận khách hàng có thể coi là minh chứng cho những lý lẽ đã
được đưa ra trong màn giới thiệu. Kinh nghiệm cho thấy công việc quảng cáo
thực sự phát huy tác dụng cao nhất vào thời điểm sản phẩm mới được tung ra thị
trường, hoặc mới được cải tiến và người kinh doanh thực sự muốn giới thiệu cho
người tiêu dùng biết về sản phẩm của mình. Sau đó khi sản phẩm đã được biết
đến trên thị trường thì chi phí quảng cáo nên giảm dần thay vào đó là những chi
8
8

×